24/05/2014
Lập luận này thường được dẫn đi dẫn lại ở các bài
viết của hầu hết các học giả VN, mục đích nhằm « hóa giải » hiệu lực
công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Đây cũng là lập trường chính thức của VN hôm
nay : Việt Nam bị chia hai theo Hiệp định Genève 1954 và quần đảo Hoàng Sa
do VNCH quản lý. Công hàm 1958 không hề nói đến vấn đề chủ quyền mà chỉ nhìn
nhận hải phận 12 hải lý của TQ. Hoàng Sa và Trường Sa do VNCH quản lý, « bạn
không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu ».
Tạm chấp nhận rằng lập luận của VN là thuyết phục,
công hàm 1958 không có hiệu lực về việc nhìn nhận lãnh thổ. Tức là Việt Nam
« im lặng » trước tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc về lãnh thổ :
« Tây Sa và Nam Sa thuộc Trung Quốc ».
Như đã phân tích tiểu đoạn trước, thái độ « im
lặng » của VN, theo quan niệm của quốc tế công pháp, được hiểu như là sự
« đồng ý mặc định – consentement tacite » trước đòi hỏi của phía
Trung Quốc.
Nội dung Tuyên bố của Trung Quốc rõ ràng, không có
điều gì « nhập nhằng » có thể đem lại hiểu lầm. Mặc khác, tranh chấp
quần đảo Hoàng Sa giữa Trung Quốc và nhà nước bảo hộ Pháp (đại diện triều đình
Việt Nam), bắt đầu từ năm 1909. Nhà nước bảo hộ Pháp đã hai lần thách thức TQ
giải quyết việc tranh chấp bằng một trọng tài quốc tế, cả hai lần TQ đều từ
chối. Lãnh đạo VNDCCH không thể không biết các việc này. Tức là, nhà nước
VNDCCH không thể vịn vào lý do « nội dung nhập nhằng » hay
« không biết » để biện hộ cho thái độ của mình.
Cùng với một loạt những hành vi khác của phía
VNDCCH, tuần tự xảy ra trong khoảng thời gian từ 1958-1975, đã củng cố yếu tố
« acquiescement », tức sự đồng thuận của Việt Nam trước những đòi hỏi
về lãnh thổ của Trung Quốc.
Tức là công hàm 1958 (có đề cập hay không đề cập vấn
đề chủ quyền lãnh thổ), thì VN cũng đã phạm nguyên tắc « đồng thuận
– acquiescement », nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Về
ý kiến « Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có chủ
quyền » lặp đi lặp lại trong các bài viết của các học giả VN, hay câu
« bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu » của bộ Ngoại
giao VN hôm nay, cũng cần nói lại cho rõ.
Nguyên thủy câu này dẫn từ học giả Monique
Chemillier-Gendreau, trong tập tài liệu « La Souveraineté sur les
Archipels Paracels et Spratleys ». Nguyên văn lẽ ra phải viết đầy đủ như
sau :
« Dans ce contexte, les déclarations ou pris de
position éventuelles des autorités du Nord-Vietnam sont sans conséquences sur
le titre de souveraineté. Il ne s’agit pas du gouvernement territorialement
compétent à l’égard des archipels. On ne peut renoncer à ce sur quoi on n’a pas
d’autorité[i] ».
Tạm dịch : trong bối cảnh đó, những tuyên bố
hay lập trường nào đó của nhà cầm quyền miền Bắc thì không ảnh hưởng lên danh
nghĩa chủ quyền. Nhà nước này không phải là nhà nước có thẩm quyền về lãnh thổ
đối với các quần đảo. Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có thẩm
quyền.
Đó là câu « On ne peut renoncer à ce sur quoi
on n’a pas d’autorité - Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có
thẩm quyền ».
Người ta không thể « trích ngang » một
« ý » trong một « nguồn ý », rồi diễn giải sao cho phù hợp
sở nguyện của mình. Ý nghĩa của câu này không thể tách rời « nguồn
ý », đến từ « bối cảnh » mà tác giả cố gắng diễn đạt.
Các học giả VN « vắn tắt » bớt, người sau
trích dẫn người trước, không kiểm chứng lại nguồn, tự động suy diễn ý nghĩa theo
sở thích của mình.
Người đầu tiên sử dụng lý lẽ này có lẽ là ông Từ
Đặng Minh Thu, qua bài viết ở đây.
Tác giả này dịch đoạn văn trên như sau :
“Trong những điều kiện này, những lời tuyên bố hoặc
lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối
với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này.
Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm soát được…”
Tác giả dịch « Dans ce contexte – bối cảnh
này » thành « trong những điều kiện này ». Theo tôi là không phù
hợp. Vấn đề cần tìm hiểu : bối cảnh đó là bối cảnh nào ?
Bối cảnh đó là học giả Monique Chemillier-Gendreau
phản biện ông L. Thomas Bradford, trong « The Spratly Island
Imbroglio : a tangled web of conflict”; Ông này cho rằng, qua công hàm
Phạm Văn Đồng, “Vietnam réaffirmé sa reconnaissance de la prétention chinois
sur les archipels » - « Việc Nam tái xác nhận sự công nhận của họ về
chủ quyền của Trung Quốc ở các quần đảo ».
Một số lập luận của bà Monique Chemillier-Gendreau
nhằm mục đính phủ nhận ý kiến của Thomas Bradford (cho rằng VN bị Estoppel)
: Không thể diễn giải Công hàm 1958 như là « tái xác nhận việc công
nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS ».
« Estoppel » là « bối cảnh » của
câu văn.
Cái vài dòng sau đoạn văn dẫn trên, học giả Monique
Chemillier-Gendreau viết :
« Néanmoins, son silence devant l’affirmation
de souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété comme un acquiescement,
et cela autant plus qu’il est renforcé par la déclaration relative aux zones de
combat et les articles du Nhan Dan.[ii] »
Tạm dịch : « dầu
vậy, sự im lặng (của nhà nước VNDCCH) trước sự khẳng định chủ quyền của Trung
Hoa tại các đảo có thể được hiểu như là một sự đồng thuận. Việc này càng được
củng cố qua các tuyên bố liên quan đến vùng chiến sự và những bài viết trên báo
Nhân Dân. »
Đoạn văn này Bà học giả cho thấy (sự im lặng của VN
về HS và TS trong công hàm Phạm Văn Đồng) có thể khiến VN bị vướng vào bẫy
« acquiescement », như phân tích ở tiểu đoạn trước.
Tức là câu « On ne peut renoncer à ce sur quoi
on n’a pas d’autorité - Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có
thẩm quyền » có thể đúng trong trường hợp « estoppel », nhưng có
thể không đúng trong các trường hợp khác, thí dụ trường hợp
« acquiescement ».
Các học giả VN, chỉ dựa vào câu « Người ta
không thể từ bỏ lãnh thổ mà người ta không có thẩm quyền », từ đó kết
luận công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị ràng buộc. Điều này hiển nhiên
thiếu thận trọng.
[i] Monique Chemillier-Gendreau – La Souveraineté sur les Archipels
Paracels et Spratleys – NXB Harmattan 1996, page 123.
Publié par Nhan
Tuan Truong à 11:13
No comments:
Post a Comment