Winfried Scharlau
Phan
Ba dịch
Tháng
Tư 6, 2014
Trước
đây mười năm, người Mỹ tháo chạy khỏi Sài Gòn. Những cố gắng cuối cùng để giải
quyết sự lộn xộn về chính trị, trình ra cho Hà Nội một chính phủ mới, “thật sự
yêu chuộng hòa bình”, như là một đối tác đàm phán, đã trở thành ảo tưởng. Trong
cơn mưa bom đạn đổ xuống thủ đô của nó, Việt Nam Cộng Hòa đã chấm dứt tồn tại.
Với những phần còn lại của xã hội thì không còn có thể kiến lập một nhà nước
được nữa. Thông tín viên Đông Á của [Đài truyền hình Quốc gia Đức] ARD nhớ lại.
Winfried Scharlau
Phan Ba dịch từ tuần báo DIE ZEIT,
26/04/1985, Số 18
Lời người dịch: Tiến sĩ Winfried
Scharlau (1934 – 2004) là một nhà báo, tác giả và sử gia người Đức. Ông là
phóng viên chiến trường trong thời gian của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Ông đã
từng bị thương ở gần vĩ tuyến 17. Năm 1974, chiếc máy bay trực thăng chở ông đã
đáp trúng mìn. Winfried Scharlau là một trong các nhà báo Phương Tây cuối cùng
đã rời Việt Nam trong tháng Tư năm 1975.
Sài
Gòn sợ chiến tranh hơn là sợ những người cộng sản. Mặt trận đã tiến đến gần;
vào ngày 21 tháng Tư, Xuân Lộc thất thủ, pháo đài cuối cùng chận đường tiến
quân vào thủ đô của các sư đoàn Bắc Việt từ phía Đông.
Xuân Lộc, ngày 13
tháng 4 năm 1975
Tiếng
“womp-womp-womp” của pháo binh, như Michael Herr sau này sẽ chuyển tải lại
tiếng động đặc biệt đó một cách thơ mộng-to tiếng trong quyển Dispatches,
đã có thể nghe được suốt ngày đêm. Nhưng tiếng “dit-dit-dit” của súng cá nhân,
ngoại trừ vài ngày trong lần tấn công vào dịp Tết [Mậu Thân] 1968, đã dung tha
cho người dân của Sài Gòn. Cho tới bây giờ, người Sài Gòn đã sống qua được
chiến tranh; còn hưởng lợi từ nó nữa, và hưởng thụ những gia vị của một “xã hội
Honda”, cái mà bây giờ có nguy cơ bị cuộc chiến phá hủy.
Về
quân sự thì cuộc chiến đã ngã ngũ. Sau khi chiến dịch tấn công mùa xuân bắt đầu
trên vùng núi, sau khi mất Ban Mê Thuột và Kontum, Tổng thống Thiệu và bộ tham
mưu của ông đã hạ lệnh rút lui, điều đã dẫn tới bỏ chạy và hỗn loạn.
Chỉ
còn những phần nhỏ của một quân đội được trang bị hiện đại gồm hơn nửa triệu
người là còn muốn đứng ra chiến đấu. Lần di tản hỗn loạn ra khỏi vùng đồi núi
chỉ thể hiện rõ cuộc khủng hoảng trong nội bộ của quân đội Sài Gòn. Tinh thần
chiến đấu của quân lính đã gãy gục trong những tháng trước đó. Từ khi Mỹ cắt
giảm viện trợ tài chính, từ khi ai trong miền Nam cũng đã hiểu, rằng Hoa Kỳ
không cung cấp vũ khí và tiền tỉ dollar vô giới hạn nữa, và cũng không sẵn sàng
hỗ trợ thêm một lần nữa với không quân và quân đội trong trường hợp khẩn cấp,
chậm nhất là từ mùa thu 1974 thì con người, quân nhân và người dân thường, ai
cũng chỉ muốn cứu lấy chính mình, và trước hết là việc đó. Người Việt nhìn thấy
điều không thể tránh khỏi đang tiến đến gần. Khác với người Khmer trong Phnom
Penh cách đó còn chưa tới 300 kilômét, những người ngay cả sau khi đại sứ quán
Mỹ đã di tản cũng còn chiến đấu trên đường phố cho tới kết cuộc cay đắng cuối
cùng, đa số người Việt nhìn thấy sự an toàn trong bỏ chạy. Ai còn muốn liều
mạng sống của mình cho một việc đã thất bại rồi? Sự hỗn loạn đi cùng với lần
sụp đổ của Nam Việt Nam có nguyên nhân sâu xa của nó trong nhận thức và lý trí
của tập thể.
Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu từ chức
Vào
ngày Xuân Lộc thất thủ, Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa, bảo
đảm và đại diện cho trật tự cho tới giờ phút đó, tuyên bố từ chức. Vào buổi
tối, ông đã thổ lộ niềm cay đắng của mình về nước Mỹ trong một bài diễn văn
trên truyền hình. Thiệu lên án bộ trưởng bộ ngoại giao Mỹ Henry Kissinger đã
không nhận ra, rằng hiệp định Việt Nam do ông ta thương lượng trong tháng Giêng
1973 đã dẫn miền Nam đi tới chỗ chết. “Ai cũng nhận ra điều đó, nhưng Kissinger
thì không. Các cường quốc có lợi ích chung. Chúng tôi không có gì để hy sinh
ngoài đất nước nhỏ bé này.” “Họ bán đứng Việt Nam cho người cộng sản”, Thiệu
nói người Mỹ. “Thái độ vô nhân đạo của Hoa Kỳ là thái độ của một cường quốc
trốn tránh trách nhiệm của mình.” Tổng thống Richard Nixon, Thiệu nói tiếp theo
sau đó, đã “hứa trên giấy là sẽ giành cho đất nước mọi sự giúp đỡ cần thiết về
quân sự và kinh tế trong trường hợp miền Bắc tấn công.” Giới hạn sự giúp đỡ của
Mỹ là một hành động vô nhân đạo và đã dẫn tới cuộc rút lui khủng khiếp đó và
tới nhiều tổn thất. “Tôi không bao giờ tin rằng”, Thiệu nói và khóc, “một người
như Kissinger mà lại đưa dân tộc chúng tôi tới một số phận đáng sợ như vậy.”
Sài
Gòn cảm động lắng nghe người tổng thống đã từ chức đó. Những xúc cảm mà ông
biểu lộ trong lần xuất hiện cuối cùng này, điều mà nhiều người không hề nghĩ
rằng ông có, đã để cho một sự thiện cảm nhất định nhú mầm. Nhưng đặc biệt là
quyết định đi lưu vong của ông đã tạo hy vọng cho một lần ngưng bắn mới. Hà Nội
và Mặt trận Giải phóng đã yêu cầu lật đổ Thiệu và “bè lũ” của ông như là điều
kiện tiên quyết cho các đàm phán. Ngay tới Quốc Hội
Mỹ
cũng tuyên bố rằng chừng nào mà Thiệu còn nắm quyền thì chiến tranh sẽ kéo dài
cho tới chừng đó. Bây giờ thì dường như đã có một lối thoát ra khỏi cuộc khủng
hoảng. Phó tổng thống Trần Văn Hương 71 tuổi tạm thời nhận lấy quyền lãnh đạo ở
Sài Gòn. Người kế nhiệm, Thiệu cũng đã thông báo trước để lý giải cho lần từ
chức của mình, sẽ đề nghị ngưng bắn và đàm phán.
Người dân đang chạy
tỵ nạn ở Vũng Tàu, 21 tháng Tư 1975. Hình: Jacques Pavlovsky/Sygma/Corbis
Dường
như Sài Gòn lại có hy vọng mới. Những người làm việc cho người Mỹ hay cho một
sứ quán của Phương Tây bao vây từ sáng cho tới tối những phòng lãnh sự để nhận
thị thực cho họ và gia đình. Chạy trốn là giải pháp của một thiểu số, ngay cả
khi những cảnh từ biệt đầy xúc động trước cổng vào phi trường có quyết định
hình ảnh chung cho tới đâu đi chăng nữa. Người Mỹ vẫn còn chưa tỏ dấu hiệu,
rằng họ đã sẵn sàng cho một cuộc di tản đông người. Phần lớn người dân trong
phần còn lại của nhà nước Nam Việt Nam, cái bây giờ chỉ còn bao gồm những vùng
đất hẹp quanh Sài Gòn và các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, hy vọng
vào một điều kỳ diệu: hy vọng vào một tín hiệu đầy bí mật, cái có thể sẽ làm
câm lặng pháo binh cộng sản đã vào vị trí có thể bắn tới Sài Gòn từ lâu, và
dừng xe tăng lại, để trao tiếng nói cuối cùng cho các chính trị gia và nhà
ngoại giao.
Rằng
Phnom Penh đã bị Khmer Đỏ chiếm trước đây vài ngày, rằng chiến tranh đã tới gần
cho tới mức có thể cảm nhận được, những việc đó đã không thể bóp nghẹt niềm hy
vọng đang nhú mầm. Nỗi lo sợ trước trận đánh cuối cùng đã để cho ảo tưởng nở
hoa. Kết cuộc của Sài Gòn là một chiến thắng của ảo tưởng.
Đội
ngũ các nhà báo, những người bây giờ có thể thực hiện các chuyến đi ra chiến
trường thật thuận tiện vào ban ngày, vì chiến tranh đã tiến gần tới mức có thể
nghe được, được người Mỹ mời tới dự một cuộc họp trên quán rượu ở sân thượng
của khách sạn cao tầng “Caravelle”. Thay cho các thông tin về chính trị và diễn
tiến cuộc chiến là những chỉ thị “mật” cho trường hợp khẩn cấp, cho lần di tản
bằng trực thăng. Có một chỗ tập trung được quy định trước cho các nhà báo, ở
gần văn phòng UPI, gần cảng sông, có thể nhanh chóng tới đó được từ các khách
sạn lớn “Caravelle”, “Continental” và “Majestic”. Tín hiệu, các nhà báo được
tin tưởng thông báo, sẽ được phát qua radio vào ngày X. Trong trường hợp khẩn
cấp, đài phát thanh của quân đội Mỹ, phát tin tức “every hour on the hour”, sẽ
thêm vào câu: “The temperature is 105 degrees and rising”, tiếp theo sau đó là
bài “I am dreaming of a white Christmas” của Bing Crosby. Người ta sẽ chờ quý
bà, quý ông nhà báo tại địa điểm tập trung với nhiều nhất là một món hành lý.
(Còn
tiếp)
Winfried
Scharlau
Phan
Ba dịch từ báo Die Zeit, số 18, ra ngày 26/04/1985:
Đọc
những bài khác ở trang Chiến tranh Việt Nam
Winfried Scharlau
Phan
Ba dịch
Trong
khi giới nhà báo tranh luận về các lựa chọn, ở lại Sài Gòn và trải qua lần
quân đội Việt Cộng tiến quân vào, hay để cho chở đi bằng máy bay và chấm dứt
nhiệm vụ của họ ở Việt Nam với câu chuyện di tản, thì các nhà ngoại giao của
đại sứ quán Mỹ hy vọng có thể tránh được cuộc di tản như là một kết cuộc nhục
nhã, giống như bỏ chạy. Thông tin từ hai nguồn đến với Graham Martin sếp của
đại sứ quán Mỹ, gợi lên ý nghĩ phía cộng sản sẵn sàng đàm phán: từ nhóm Hungary
của ICCS, Ủy ban Kiểm soát Quốc tế, và từ đại sứ quán Pháp.
Tháng Tư 1975, người
dân chạy nạn về Sài Gòn. Hình: Nik Wheeler/CORBIS
Chính
sếp CIA ở Sài Gòn đã tự mình bắt liên lạc với các sĩ quan Hungary. Thomas
Polgar xuất thân từ một gia đình Hungary đã di cư sang Mỹ. Từ người đồng hương
sang người đồng hương, người ta tin cậy thông báo rằng Hà Nội quan tâm tới một
“giải pháp Lào”, để tránh một trận chiến trên đường phố ở Sài Gòn. “Giải pháp
Lào”, đó là một chính phủ trung lập, bao gồm các nhân vật của “lực lượng thứ
ba”, phe đối lập yếu ớt và bị coi thường cả một thời gian dài ở Sài Gòn, và tất
nhiên là với sự hỗ trợ về ngoại giao của Liên bang Xô viết, Pháp và Liên hiệp
Anh.
Nguồn
thứ hai, dường như xác nhận các thông tin của người sếp CIA, bắt nguồn từ đại
sứ quán Pháp – mà trong đó Jean-Marie Merillon, trong tinh thần của de Gaulle,
đã tự mình tin rằng “Grande Nation” thêm lần nữa sẽ nhận được một vai trò lịch
sử trong khoảnh khắc chiến bại của Mỹ. Merillon thông báo cho đại sứ quán Mỹ và
một nhóm nhỏ các nhà báo, mà tiêu chuẩn của họ là có khả năng sử dụng tiếng
Pháp một cách thanh lịch, rằng người cộng sản thông qua tiếp xúc với người Pháp
đã đưa ra “giải pháp Lào”: tước quyền “bè lũ Thiệu”, thành lập một chính quyền
trung lập, muốn hòa bình, dưới quyền “Big Minh” và ngưng chiến trước cửa ngõ
Sài Gòn, để tạo cơ hội cho một hội nghị bốn bên bàn thảo một trật tự chính trị
mới ở Nam Việt Nam.
Vòng
vây bao quanh Sài Gòn càng siết chặt lại bao nhiêu thì các cố gắng đàm phán
ngừng bắn của các chính trị gia và nhà ngoại giao càng tuyệt vọng bấy nhiêu.
Vào ngày 26 tháng Tư, buổi chiều lúc ba giờ, Thiệu rời Sài Gòn tới Đài Loan. Kể
từ lúc từ chức, ông cần năm ngày để xếp đồ đạc vào va li. Người dân Sài Gòn có
một tưởng tượng thật chính xác về những gì đã được đóng vào trong đó.
Đài
phát thanh của Mặt trận Giải Phóng từ chối lời đề nghị ngừng bắn của phó tổng
thống Trần Văn Hương. Hương đại diện cho một “chế độ Thiệu không có Thiệu”. Một
chính phủ trung lập phải được thành lập và dẫn đầu bởi “một nhân vật thật sự
yêu chuộng hòa bình”. Và quân nhân Mỹ, hơn 5000 người, phần lớn là sĩ quan
trong bộ tham mưu của DAO, Defense Attache’s Office hay cũng được gọi là “Lầu
Năm Góc phương Đông”, phải rời đất nước này, như là điều kiện tiên quyết.
Vào
ngày 26 tháng Tư, một ngày thứ bảy, vào cái ngày mà Thiệu rời bỏ đất nước, Quốc
Hội đã họp trong một ngôi nhà tối tăm hôi mốc ở khu cảng, để nhất trí ủy quyền
cho phó tổng thống Hương tự chọn một người kế nhiệm theo ý muốn của ông, không
cần quan tâm tới các quy định của hiến pháp Nam Việt Nam. Trần Văn Lắm, chủ
tịch thượng viện, theo hiến pháp lẽ ra là người kế đến. Nhưng là “người của
Thiệu” thì ông không có cơ hội được phía cộng sản chấp nhận là “một người thật
sự yêu chuộng hòa bình”.
Quốc
Hội Việt Nam Cộng Hòa biểu quyết yêu cầu Tổng thống Trần Văn Hương nhượng quyền
lại cho tướng Dương Văn Minh. Hình: AP Photo/Errington.
Dương
Văn Minh, được gọi là “Big Minh” vì có thân hình to lớn, cần phải là người tổng
thống mới. “Big Minh” đã đóng một vai trò chủ chốt trong lần lật đổ Ngô Đình
Diệm năm 1963 và qua nhiều năm trời đã đứng vào phía đối lập với Thiệu. Không
ai biết rõ là phe đối lập này thật ra là bao gồm những ai. Nhưng hầu như tất cả
mọi người đều tin chắc rằng “Big Minh” có thể cứu thoát Sài Gòn trong thời điểm
nguy cấp.
Đại
sứ Pháp và Mỹ tin là đã giật dây để cho “Big Minh” bước ra hoạt động. Vào tối
ngày chủ nhật, Graham Martin thuyết phục thành công người tổng thống được bổ
nhiệm, không cương quyết yêu cầu giới quân đội Mỹ rút quân ngay lập tức. Khoảng
cùng thời gian đó, Jean-Marie Merillon vào gặp đại diện phe cộng sản, sau hiệp
định ngừng bắn 1973 đang ở trong khu vực an ninh của phi trường Tân Sơn Nhứt
của Sài Gòn, để tự mình thăm dò cơ hội của một “chính phủ hòa bình Big Minh” qua
sếp của phái đoàn, đại tá Võ Đông Giang, một con người khó tính, giống như một
cái máy nói không có xúc cảm.
Merillon
được thông báo cần phải gấp rút; người Mỹ phải rút lui ngay lập tức; phải tước
quyền “bè lũ Thiệu” và thay thế ở hàng đầu bởi những người ái quốc yêu hòa
bình. Tuy vậy, viên đại tá bất thân thiện đó không trả lời cho câu hỏi mang
tính quyết định: liệu một chính phủ do Big Minh đứng đầu có được chấp nhận như
là đối tác để đàm phán một giải pháp chính trị hay không.
Mặc
dù không có được sự chắc chắn cuối cùng này, Martin, Merillon và những người đi
theo “Big Minh” vẫn bắt đầu làm việc để cứu thoát Sài Gòn ra khỏi một cuộc
chiến và cứu thoát Phương Tây khỏi nỗi nhục nhã của một lần đầu hàng vô điều
kiện. Sự lạc quan của họ được nhiều người chia sẻ, chính là những nhà quan sát
chính trị đó, những người chịu ảnh hưởng trực tiếp của các nhân vật chính, tự
biến mình trở thành những người đồng lõa, và tin tưởng vào những cảm nhận cá
nhân ít hơn là vào các phân tích của những người giật dây.
Quân
lính Nam Việt Nam và nhóm phóng viên truyền hình Phương Tây tìm chỗ trú ẩn
trước đạn pháo của người Bắc Việt ở cầu Tân Cảng, Sài Gòn, 28 tháng Tư 1975.
Hình: AP Photo/Hoanh
Lần
trao quyền lực từ Hương sang “Big Minh” được dự định vào chiều ngày thứ hai, 28
tháng tư. Hàng ngày, “Airlifter”, máy bay vận tải phản lực của Không quân Mỹ,
đến Sài Gòn để chở “những người bị nguy hiểm đặc biệt”. Khoảng 5000 người Việt
rời đất nước mỗi ngày. Cảnh chen lấn và xô đẩy của những người tìm chốn tỵ nạn
trước tòa đại sứ quán Mỹ hầu như không còn thể điều chỉnh được nữa. Những người
muốn chạy trốn cảm thấy một sự khẩn cấp gây tuyệt vọng. Xe tăng cộng sản đã
đứng trước cửa ngõ Sài Gòn, và mặc dù vậy, các cơ quan lãnh sự Mỹ vẫn khăng
khăng yêu cầu giữ đúng quy trình nhập cảnh phức tạp. Tuy vào lúc này phần lớn
các quốc gia Phương Tây đã di tản các đại sứ quán của họ và quẳng các dự trữ
rượu mạnh ra thị trường với giá vứt đi, người Mỹ, được dẫn đầu bởi Graham
Martin và Thomas Polgar, vẫn còn tin có thể trì hoãn được chiến dịch di tản
đường không quy mô lớn đã được lập kế hoạch, vì một giải pháp chính trị bắt đầu
hiện hình, cứu Sài Gòn thoát khỏi sự hoảng loạn và khốn cùng của một cuộc chạy
trốn.
Vào
sáng chủ nhật, hai giờ trước khi mặt trời mọc, quân đội cộng sản bắn vài hỏa
tiển vào nội thành, rơi xuống gần đại sứ quán Đức ở vùng ranh giới giữa Sài Gòn
và Chợ Lớn, khu phố người Hoa, và gây ra một vụ cháy lớn kinh hoàng. Từ hơn ba
năm nay, Sài Gòn không còn bị bắn phá trực tiếp nữa. Các hỏa tiển này, đi kèm
theo đó là một tiếng nổ thật lớn, đã để cho người dân nhận thức được rằng màn
cuối cùng của cuộc bao vây, đánh chiếm thủ đô, đã bắt đầu.
Chỉ
các nhà ngoại giao có nhiều quyền lực và ảnh hưởng trong đại sứ quán Mỹ và Pháp
là vẫn không muốn đọc những dấu hiệu ở trên tường đó. Các tín hiệu của phía bên
kia cũng có thể được hiểu, rằng Hà Nội chỉ muốn thúc giục tăng tốc quá trình
chính trị. Người cộng sản, Graham và Merillon cam đoan lẫn nhau như vậy, sẽ
“mất thể diện”, nếu như họ cố tiến quân đánh chiếm thành phố Sài Gòn ba triệu
dân trước con mắt của thế giới. Qua nhượng bộ chính trị, cả hai người đều có ý
như vậy, có thể giành được một thỏa hiệp hợp lý từ những người cộng sản.
Sài
Gòn, 21 tháng Tư 1975. Lần bắn hỏa tiển đầu tiên là vào lúc 4 giờ 30 sáng, đánh
vào trung tâm Sài Gòn và đốt cháy 150 căn nhà bằng gỗ. 14 người chết và hơn 40
người bị thương. Hình của Jacques Pavlovsky / Sygma / Corbis.
Trong
những năm dài của chiến tranh, những lý luận tương tự như vậy đã được các chính
trị gia phe Tự do đưa ra ở nhiều nơi. Cho tới thời điểm đó, Hà Nội vẫn không
đưa ra một bằng chứng nào cho việc này. Mang đặc tính của một “sự ngờ vực gần
như là bệnh hoạn” đối với phần còn lại của thế giới và đồng thời là của một “sự
tự mãn hoang dại cuồng nhiệt” (như Henry Kissinger sau này ghi lại trong
hồi ký của ông), chiến lược đàm phán cố chấp của người Bắc Việt, không đưa
ra điều gì và yêu cầu mọi thứ, cho tới nay không đưa ra bằng chứng nào
cho việc rằng thỏa hiệp và nhượng bộ có thể ngăn cản Hà Nội “giải phóng” miền
Nam và thống nhất đất nước thành một Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặc dù vậy,
Hiệp định Paris của tháng Giêng 1973 vẫn được kiến lập trên những tiền đề này,
trên giả định rằng Hà Nội sẽ chấp nhận sự tiếp tục tồn tại của một nhà nước ở
miền Nam. Việc Hà Nội từ bỏ xâm chiếm miền Nam được mua bằng triển vọng hai tỉ
dollar viện trợ kinh tế. Cho tới thời điểm này, trong những ngày cuối cùng của
tháng Tư, Hà Nội chỉ chứng tỏ rằng những tiền đề của hiệp định chính trị là một
ảo tưởng thuần túy. Không một lời hứa nào và không một lời đe dọa nào có thể
ngăn cản Bộ Chính trị ở miền Bắc hoàn thành nhiệm vụ của Hồ Chí Minh và “giải
phóng” miền Nam.
Bây
giờ, xe tăng của Cách Mạng đã đứng ở rìa thành phố. Mùa khô đã qua, mùa mưa có
thể bắt đầu vào bất cứ ngày nào và sẽ gây khó khăn lớn cho các chiến dịch quân
sự. Nằm trong đường lối chiến lược cho tới nay của Hà Nội là thủ tiêu phần còn
lại của quốc gia Sài Gòn với một cú đánh trúng đích, tận hưởng chiến thắng quân
sự, thay vì cho phép có “tương quan Lào” và qua đó còn mang cả người Pháp
và người Nga lên sân khấu như là những người mang lại hòa bình nữa.
Việc
đó minh chứng cho sức mạnh của ảo tưởng, rằng ngay cả trong Sài Gòn bị bao
vây, hiện giờ bị cô lập khỏi phần còn lại của đất nước, trong tầm nhìn thấy xe
tăng của đối phương, mà một kế hoạch hòa bình trên phương diện chính trị vẫn có
thể thành hình được, cái tất nhiên là đòi hỏi chế độ ở miền Nam phải hy sinh
nhiều nhất, tức là phải tự phá hủy trật tự cho tới nay. “Bè lũ Thiệu”, “chế độ
bù nhìn”, phải bị hủy bỏ. Graham Martin, đại sứ Mỹ, đồng ý. Vào chiều ngày thứ
hai, 27 tháng Tư, phó tổng thống Hương sẽ từ chức và trao quyền lại cho “Big
Minh”.
23 tháng Ba 1964,
Tướng Minh bắt tay bác sĩ Lê Khắc Quyến, một thành viên trong Thượng Hội Đồng
Quốc Gia.
Các
chính trị gia tiến hành sự việc với vận tốc của con ốc sên, trong khi tướng
lãnh Bắc Việt, ở Sài Gòn ai cũng nhận thấy, rõ ràng là thúc giục một quyết
định. Cả ngày lẫn đêm đều nghe được tiếng “womp-womp-womp” của đạn pháo. Bây
giờ tiếng súng nổ lớn nhất là từ hướng phi trường, nơi những chiếc máy bay di
tản của cái cầu hàng không nhỏ bé vẫn còn có thể hạ cánh mà không bị bắn phá.
Người dân Sài Gòn dao động giữa hy vọng và tuyệt vọng. Cuối cùng thì người Mỹ
có chở hết tất cả những người Việt nào muốn đi hay không? Có lẽ cuộc chiến sẽ
chấm dứt với một thỏa hiệp chính trị.
Khi
một phóng viên nổi tiếng từ giã bạn bè vào buổi tối, vì “giải pháp Lào” cho
phép ông bay về quê hương để hoàn thành một phim tài liệu rồi sau đó quay trở
lại Việt Nam, thì một người bạn nói với ông ấy rằng hãy quên cái tên Sài Gòn
trong lúc đó đi, vì cho tới chừng đó thì người cộng sản đã chiếm được thành
phố, và đổi tên nó thành Thành phố Hồ Chí Minh rồi. Đó là “tuyên truyền của
CIA”, người này rít lên vì giận dữ. Ý thức lịch sử của người Việt sẽ để cho một
lần đổi tên như vậy trở nên vô lý. Cuộc thảo luận dường như tình cờ đã trở nên dữ
dội cho tới mức buổi tiệc từ giã kết thúc sớm hơn dự định.
Ai
cho rằng người cộng sản quyết định chấm dứt cuộc chiến đẫm máu với hơn một
triệu nạn nhân bằng một chiến thắng quân sự, và sau đó tạo dựng ở miền Nam
những điều kiện giống như ở Bắc Việt Nam, kể cả những giới hạn cho giới báo chí
nước ngoài, thì ngay trong những ngày cuối cùng của Sài Gòn, người đó vẫn phải
chịu đựng sự nghi ngờ, là đã trở thành một nạn nhân của tuyên truyền Mỹ. Nhưng
cuộc tranh cãi của các ý kiến đã được nhanh chóng quyết định ngay sau đó.
(Còn
tiếp)
Winfried
Scharlau
Phan
Ba dịch từ báo Die Zeit, số 18, ra ngày 26/04/1985:
Đọc
những bài khác ở trang Chiến tranh Việt Nam
Winfried Scharlau
Phan
Ba dịch
Công
việc bàn giao chức vụ được tiến hành vào ngày thứ hai, 28 tháng Tư, buổi chiều
17 giờ, trong dinh tổng thống, nằm trong một tam giác với đại sứ quán Mỹ và nhà
thờ công giáo. Mây mưa nặng nề kéo đến trên thành phố. Trời đã tối. Đèn trong
dinh được bật lên khi những người của “lực lượng thứ ba”, nhóm nhỏ những người
trung lập, quốc gia chủ nghĩa và phật tử chiến đấu, những người cho tới lúc đó
không được phép vào trong dinh tổng thống mới của năm 1964, bước qua cánh cửa
mở rộng vào trong gian sảnh tiếp đón và tạm thời ngồi xuống ở hàng ghế thứ hai.
Tổng thống Trần Văn
Hương (giữa) ngày 27-4-1975 – một ngày trước khi trao quyền cho ông Dương Văn
Minh
Hàng
ghế đầu dành cho phó tổng thống Hương và các bộ trưởng cho tới thời điểm đó. Có
lẽ khoảng 100 người, cho tới 17 giờ hầu như chỉ làm đầy được một nửa gian sảnh.
Tiếp theo ở phía sau đó là giới báo chí quốc tế. Trên các lối đi, cách bục diễn
thuyết không xa, là máy quay của các đài truyền hình.
Chống
gậy khập khiển, phó tổng thống Hương bước vào gian sảnh, có “Big Minh” đi kèm,
người mà người ta có thể nhận ra một vẻ hãnh diện nhất định cho vai trò mới
này. Minh nhìn những người bạn và những người theo ông ở hàng ghế thứ nhì,
những người dưới thời Thiệu đã bị gièm pha và bị các cơ quan nhà nước hành hạ
nhiều năm trời; cuối cùng thì cũng đứng trước ngưỡng cửa của ảnh hưởng và sự
công nhận của giới công khai: Nguyễn Văn Huyền, một luật sư mà sự hiểu biết về
chuyên môn của ông có nhiệm vụ bổ sung cho sức thu hút của Big Minh; thượng
nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, một con người nhanh nhẹn, hiền lành, luôn mỉm cười
lịch sự, một Phật tử sùng đạo và là người cầm cờ của các nhà sư quốc gia chủ
nghĩa ở chùa Ấn Quang; và bên cạnh nhiều người khác nữa cũng là Nguyễn Văn
Tuyên, một người yêu nước thành thật, người qua chiếc kính mắt dầy cộm của mình
đã phát hiện nhiều biển thủ, cẩu thả và tham nhũng trong chính phủ đã từ chức
hơn là tất cả các thành viên khác của quốc hội cộng lại.
Khi
cuối cùng rồi Trần Văn Hương bước lên bục diễn thuyết có treo huy hiệu tổng
thống ở mặt trước, một cơn mưa bắt đầu trút xuống, lớn tới mức trong Sài Gòn
nhiệt đới cũng được xem là bất thường. Cơn mưa đầu tiên sau mùa khô kéo dài
nhiều tháng trời rơi xuống như một trận ngập lụt từ trên trời. Mây đen phủ tối
bầu trời; giống như màn đêm đã buông xuống Sài Gòn. Bài diễn văn của Hương được
nhiều tia sét đi kèm, rồi tiếng sấm tiếp theo sau đó. Richard Wagner cũng không
thể dàn dựng đỉnh cao này tốt hơn.
Nhiều
câu trong bài diễn văn ngắn của Trần Văn Hương bị cơn mưa đầy sấm sét này che
phủ mất. Gió bão thổi màn che của những chiếc cửa sổ cao bay tung lên, đánh lạc
hướng mối quan tâm của thính giả ra khỏi con người nói chuyện mờ nhạt này.
Hương khiến cho khán giả của ông phải chán ngán với tính bướng bỉnh của một
người muốn giữ đúng một hình thức đã mất ý nghĩa của nó từ lâu. Người thị
trưởng từng được mến chuộng của Sài Gòn trước đây đã đánh mất phần còn lại của
sự tin tưởng trong lần hợp tác với Thiệu, người đã lợi dụng tiếng tốt của ông
mà không giao quyền lực thật sự cho người phó. Còn lại là một sự cứng đầu cứng
cổ giả làm tính nguyên tắc. Người đàn ông già ốm đau này, cần dùng một cây gậy
để đi lại, thật sự là một biểu tượng của trật tự đang sụp đổ.
Sài
Gòn, 30 Tháng Tư 1975, xe tăng Bắc Việt bị bắn cháy gần phi trường Tân Sơn
Nhứt. Hình: Jacques Pavlovsky/Sygma/CORBIS
Ông
hẳn đã diễn thuyết độ mười phút. Các nhà báo không quan tâm và cũng bị trận mưa
đánh lạc hướng cho tới mức hầu như không ai để cho phiên dịch bài diễn văn. Tất
cả mọi người đều chờ “Big Minh”, chờ một chính phủ mới, một kế hoạch lập hòa
bình mà người cộng sản muốn chấp nhận.
Hương
khập khiển trở về chỗ của mình. Cả gian sảnh im lặng. Mọi ánh mắt đều hướng tới
“Big Minh”, vì người ta chờ bước kế tiếp từ ông. Nhưng ông vẫn ngồi trên ghế
của mình. Lần ngưng giữa chừng trong nghi thức mà không nhận ra được ý nghĩa
của nó làm tăng sự căng thẳng.
Rồi
cuối cùng người ta nhìn thấy một người lính canh, đeo thắt lưng trắng và dây
đeo, đứng ở phía trước bên trái, cạnh cửa cánh, bước vào giữa gian sảnh tới bục
diễn thuyết. Ông dùng hai tay cầm huy hiệu của tổng thống, giật nó ra khỏi móc
treo, quay người với những cử động giật nhanh, tạo một vẻ buồn cười cho những
người lính đang đi duyệt binh, bước ra hướng cửa và mang biểu tượng của tổng
thống Việt Nam Cộng hòa ra khỏi gian phòng với những bước chân khoan thai.
Giới
chính khách và nhà báo giữ im lặng, một sự im lặng mà người ta có thể xem như
phút mặc niệm cho một trật tự được mang một cách tượng trưng từ sân khấu chính
trị sang đống rác của lịch sử. Khán giả chăm chú theo dõi những cử động long
trọng của người lính vệ binh bây giờ đang tiến gần tới lá cờ Nam Việt Nam ở bức
tường phía trước, nhấc nó lên khỏi giá cắm và mang nó một cách chậm chạp, lúc
nào cũng đi thẳng, ra khỏi gian phòng.
Lá
cờ màu vàng với ba sọc đỏ là do người linh mục trẻ tuổi Trần Hữu Thanh phác
thảo năm 1945, người sau này thân cận với tổng thống công giáo Diệm và tuyên
truyền cho “triết lý chủ nghĩa cá nhân” của ông ta. Bây giờ, trong tháng Tư 1975,
cha Thanh đã tham gia phe đối lập chống Thiệu từ lâu. Ông đã tạo khoảng cách
với một hệ thống đã được xóa bỏ một cách tượng trưng qua lần mang lá cờ đi ra
ngoài.
9 tháng Tư 1975: Một
người phụ nữ Việt Nam ngồi trên boong của một con tàu đổ bộ tấn công của Mỹ
trong cuộc di tản khỏi Sài Gòn. Hình: AP
Đối
với tôi, lá cờ ít có ý nghĩa. Nhưng từ chuyến đi tường thuật đầu tiên của tôi
trong cuộc chiến này, tôi đã trải nghiệm nó như là biểu tượng của một quốc gia
mà nhiều trăm ngàn người Việt đã hy sinh cho nó. Hơn 500.000 lính Mỹ đã được
gởi tới đây để củng cố cho nền cộng hòa Nam Việt Nam mà 50.000 người trong số
đó đã tử trận. Lá cờ vàng đỏ này đã trang trí cho các quan tài khi trên nghĩa
trang quân đội lớn ở ngoài Sài Gòn, trên đường đi Biên Hòa, khi mỗi năm một lần
người ta tiến hành tưởng niệm những người đã hy sinh trong một buổi lễ quốc gia
long trọng.
Hàng
triệu người đã chết một cái chết vô nghĩa. Đối với tôi, đó dường như là một
hành động cay độc, để cho lá cờ biến mất và qua đó mà trốn tránh một trách
nhiệm lịch sử.
Người
lính vệ binh quay lại gian sảnh, cầm một dấu hiệu tổng thống mới trên hai tay.
Với một cú đánh mạnh, ông gắn chặt biểu tượng của tổng thống “Big Minh” vào bục
diễn thuyết. Hoa sen xanh nổi bật trên nền trắng. Chắc là một người nghiệp dư
đã phải hấp tấp tạo ra kiểu mẫu này. Hẳn là không còn có thể tìm được một bản
nào tốt hơn trong Sài Gòn. Vì không còn có thể điều hành quốc gia với những
phần còn lại của xã hội này được nữa. Chỉ những kẻ mơ mộng mới tìm được hy vọng
trong lần thay đổi biểu tượng vào giờ chót này.
Chỉ
sau khi người lính trở về chỗ ban đầu của ông, giống như qua đó mà quá khứ đã
được xóa bỏ và con đường đi tới một tương lai tốt hơn được mở ra, “Big Minh”
đứng dậy từ ghế ngồi của ông, khoan thai đi tới bục diễn thuyết và bắt đầu đọc
một tuyên bố của chính phủ mà trong đó lời đề nghị ngưng bắn ngay tức khắc được
đưa ra. Như đã thỏa thuận với đại sứ Mỹ Graham Martin, Minh không nhắc tới lời
yêu cầu di tản ngay tức khắc tất cả các quân nhân Mỹ. Nhưng ông cũng không còn
nói về “những người cộng sản” nữa, mà là về “những người bạn của chúng ta ở
phía bên kia… Chúng tôi thật sự mong muốn hòa giải. Các anh chắc chắn biết điều
đó. Hòa giải đòi hỏi mỗi một thành phần của quốc gia đều tôn trông quyền được
sống của những thành phần khác. Đó là tinh thần của Hiệp định Paris… Những ngày
sắp tới sẽ hết sức khó khăn…Tôi không hứa hẹn nhiều.” “Big Minh” bổ nhiệm luật
sư Nguyễn Văn Huyền làm phó tổng thống. Thượng nghị sĩ Vũ Văn Mẫu làm thủ
tướng. Một chính phủ chưa được giới thiệu.
Tướng Dương Văn Minh
nhậm chức tổng thống, Sài Gòn, 28 tháng Tư 1975.
Lúc
đó, tôi không nghe bài diễn văn của “Big Minh” cho tới khi kết thúc. Đối với
tôi, nội dung lời tuyên bố của ông là hoàn toàn không có ý nghĩa gì trong sự so
sánh với những cảnh tượng trưng cho một lần tự xóa bỏ nhà nước mà chúng tôi vừa
quay xong. Nhà nước Sài Gòn thật sự đã hy sinh cái lớn nhất, để thúc đẩy Bắc
Việt đi tới thỏa hiệp chính trị vào phút cuối cùng: nó đã tự tan rã, từ bỏ
những biểu tượng cho sự tồn tại của chính mình, tự sát vì sợ chết.
Để
đưa cuốn phim lên chiếc máy bay chuyến tối sang Bangkok càng nhanh càng tốt,
tôi đã cùng đội quay phim rời gian sảnh trước. Ở trước cửa, tôi trình bày một
“dự thảo văn bản” cho ban biên tập. Vài phút sau đó, người quay phim và cộng
tác viên người Việt lâu năm của chúng tôi đi xe ra phi trường. Đó là vào khoảng
18 giờ, mưa đã giảm bớt đi rất nhiều.
Cho
tới khách sạn “Continental” có nhiều nhà báo sống ở trong đó chỉ tốn mười phút
đi bộ. Hàng hiên, vào buổi chiều là điểm gặp gỡ cho giới báo chí, quân nhân Mỹ,
giới ngoại giao và dân kinh doanh đủ các loại, bây giờ trông như bị bỏ hoang.
Các nhà báo vẫn còn quan sát lần thay đổi quyền lực trong dinh tổng
thống. Phần khách còn lại đã hiểu được những dấu hiệu của cuộc chiến và
chuẩn bị cho tình huống khẩn cấp. Cũng có không ít người đang theo dõi trực
tiếp lần nhậm chức của “Big Minh” trước các màn hình. Những chiếc taxi màu
xanh-nâu sáng đỗ trước “Continental” như thường lệ. Để giết thời gian, tôi thuê
một chiếc cho một chuyến đi vào Chợ Lớn.
Sau
hai kilômét, chúng tôi tới nhà ga. Bất chợt có những chiếc A-37 bay ở phía trên
chúng tôi, bổ nhào xuống tấn công. Người ta nghe được tiếng bom nổ ở hướng phi
trường. Vài giây sau đó, hỗn loạn xảy ra trong thành phố. Ai có súng đều bắt
đầu bắn lên trời. Người dân chạy, nằm xuống đất, tiếp tục chạy đi. Tiếng ồn của
vũ khí tăng lên thành một nền âm thanh, càng làm cho người ta hoảng sợ, và hầu
như không ai nhận biết được nguyên do nổ súng. Sài Gòn bắn lên trời vì sợ. Bốn
chiếc máy bay chiến đấu hạng nhẹ kiểu A-37 bị không quân Bắc Việt tịch thu đã
cất cánh từ Phan Rang Air Base, khoảng 200 kilômét đông bắc Sài Gòn, và được
gởi tới phi trường Tân Sơn Nhứt dưới sự lãnh đạo của một phi công Nam Việt đào
ngũ.
Hiệu
ứng tâm lý của lần bỏ bom thủ đô Nam Việt vượt quá mọi sự mong đợi. Sau khi
những quả bom đó rơi xuống và Sài Gòn đạt tới một trạng thái hoảng loạn, cái
khiến cho người ta nhớ tới những cảnh đông người trên các bậc thang Odessa của
[nhà đạo diễn] Sergei Eisenstein, thì ai cũng biết rõ rằng giờ của trận đánh đã
bắt đầu.
Lần
bắn súng vô nghĩa mà dân cư vũ trang của Sài Gòn đã dùng nó để kết thúc lần tự
phá hủy trật tự cho tới nay kéo dài cho tới khi trời tối, hơn một giờ đồng hồ.
Giới nghiêm bắt đầu sau đó. Việt Nam Cộng Hòa đã chấm dứt tồn tại trước khi bị
xâm chiếm.
Sài Gòn, 30 tháng Tư
1975, Trung tá Cảnh sát Quốc gia Nguyễn Văn Long tuẫn tiết dưới chân tượng đài
Thủy Quân Lục Chiến trước Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa. Hình: Jacques Pavlovsky /
Sygma / CORBIS
Tháo
gỡ các biểu tượng nhà nước và phản ứng hoảng loạn của người dân Sài Gòn trước
lần ném bom phi trường cho tới nay đã không được nhắc tới hay chỉ được đề cập
sơ qua trong các tường thuật của nhân chứng và trong các diễn tả lịch sử.
Các
cơ chế phòng vệ tâm lý đã đẩy cuộc di tản bằng máy bay đầy kịch tính, bắt đầu
vào trưa ngày hôm sau đó, 29 tháng Tư, vào trong trung tâm điểm. Những dịch
chuyển trọng tâm như vậy cũng được quan sát thấy tại các chiến bại lịch sử khác
của “người da trắng” ở châu Á. Trong văn học và trong điện ảnh, lần quân đội Mỹ
đầu hàng ở Corregidor, tháng Tư 1942 trong vịnh Manila, đã bị che phủ bởi những
sự tàn bạo của người Nhật trong “chuyến bộ hành tử thần Bataan” để đi tới các
trại tù binh; và “Câu cầu sông Kwai” đã quan tâm tới sự tưởng tượng của Phương
Tây nhiều hơn là kết cuộc của doanh trại Anh tại Malaya và Singapore.
Thật
sự là hoạt động chính trị-ngoại giao cuối cùng mà “Big Minh” đã đứng tại tâm
điểm của nó – được khuyến khích và cố vấn bởi Graham Martin và Jean-Marie
Merillon – đã trì hoãn cuộc di tản Sài Gòn và qua đó đã gây hại nghiêm trọng về
tâm lý và chính trị.
Ngay
sau bài diễn văn của “Big Minh”, đài phát thanh Hà Nội đã phát đi một tuyên bố
với lời lẽ cứng rắn hết sức bất thường và với một tính yêu cầu dứt khoát, vượt
quá tất cả các phát ngôn trong những ngày vừa qua. Đài phát thanh kêu gọi người
dân Sài Gòn hãy “nổi dậy”.
Chẳng
bao lâu sau đó, đại diện phe cộng sản, những người đã xây nơi cư trú của họ
trong khu vực của phi trường thành một căn cứ chỉ huy mà các nhà quan sát ở bên
ngoài hoàn toàn không hay biết gì, đã gọi điện tới các thông tấn xã Mỹ và tờ New
York Times. Một phát ngôn viên đọc một bản tuyên bố mà trong đó Hiệp Chúng
Quốc Hoa Kỳ bị cáo buộc vẫn tiếp tục can thiệp vào tình hình. Nước Mỹ được yêu
cầu hãy “xóa bỏ chính quyền của chiến tranh và áp bức ở Sài Gòn”. Lời tuyên bố
của Mr. Minh không đáp ứng được yêu cầu này…
Qua
đó, Bắc Việt đã phá hủy ảo tưởng cuối cùng. “Giải pháp Lào” giống như một canh
bạc. Mỹ và các đại diện của Sài Gòn đã đi nước cờ cuối cùng của họ. Họ đã đi
tới kết cuộc. Sự hấp tấp và hoảng loạn đặc trưng cho cuộc di tản của ngày hôm
sau đó cũng đã lấy đi cả “thể diện” của họ dưới con mắt của châu Á.
Lần
ném bom phi trường vào lúc 18 giờ chiều ngày thứ hai thật sự đã là tín hiệu cho
cuộc tấn công. Suốt cả đêm đó, Sài Gòn bị bắn phá bởi đạn pháo và hỏa tiển.
Cuộc di tản bằng máy bay bắt đầu vào chiều ngày thứ ba: lúc đầu là từ một điểm
tập trung trong khu vực phi trường, sau đó từ nóc nhà của tòa đại sứ quán Mỹ.
Bốn giờ sáng ngày thứ tư, 30 tháng Tư, đại sứ Mỹ Graham Martin rời khỏi nước.
Những người lính Mỹ cuối cùng, mười một lính thủy quân lục chiến, bay vào lúc 7
giờ 53 phút từ Sài Gòn ra hạm đội trước bờ biển. Vào lúc 11 giờ trưa, 30 tháng
Tư, xe tăng Bắc Việt tới dinh tổng thống ở nội thành. Một người lính với lá cờ
của “chính phủ cách mạng lâm thời” lao lên cầu thang, để gắn nó lên ban công
như là dấu hiệu của chiến thắng.
Lá
cờ cũ đã được lấy vào từ lâu rồi.
Winfried
Scharlau
Phan
Ba dịch từ báo Die Zeit, số 18, ra ngày 26/04/1985:
Đọc
những bài khác ở trang Chiến tranh Việt Nam
No comments:
Post a Comment