Thứ Năm, 31 Tháng Mười-2013
Bản pdf
Ngày 25/4/1961, Tướng Edward G. Lansdale–người được
coi như hiểu biết rất rõ Việt Nam Cộng Hòa [VNCH]–viết báo cáo lên Thứ trưởng
Quốc phòng Roswell L. Gilpatric, Chủ tịch Ủy Ban Ðặc Nhiệm Việt Nam [Presidential
Task Force on Vietnam], về “No Din Zee’em” (Ngô Ðình Diệm) như sau:
Ông ta lùn, mập tròn. . . Nhiều người không chú ý
đến cặp mắt đen hay liếc trộm [snapping] của ông ta mà chỉ chú ý đến cặp giò
vừa đủ chạm mặt đất khi ngồi. Tuy nhiên, ông ta không cảm thấy ngượng ngùng về
chuyện lùn, và có vẻ rất tự nhiên chung quanh những người Mỹ cao lớn. . . .
Ông ta tỏ vẻ ăn uống ngon lành (và thường có sở
thích ăn ngon). Nụ cười của ông ta có vẻ e dè và bất thường. . . . Diệm sinh
ngày 3/1/1901. . . Năm 25 tuổi [1926], Diệm đã được cử làm quan đầu tỉnh. Nhưng
sau “sáu tháng làm Thượng thư” Diệm từ chức, trở thành “người hùng thực sự của
người Việt.” Từ đó, anh em Diệm “âm thầm chống cả Pháp lẫn Cộng Sản.” Diệm là
một người độc thân 60 tuổi, “đã cắt bỏ mối tình với người yêu đầu đời để dâng
hiến cho tổ quốc.”( 1)
Thực ra, Lansdale dường không muốn viết rõ, hoặc
không biết nhiều về Tổng thống Diệm cũng như họ Ngô. Hầu hết chi tiết về hộ
tịch Diệm hay thành tích chống Pháp của Diệm và gia đình Ngô Ðình Khả, đều
thiếu chính xác. Các học giả thế giới cũng chẳng bận tâm đến việc tu chỉnh lại
tiểu sử người cầm đầu phe thua cuộc.( 2)
Ðáng buồn hơn nữa, lịch sử Việt Nam, dưới mắt nhiều học
giả thế giới, chỉ là một thứ câu chuyện thêm thắt vào [anecdotes] chính sách và
sự can thiệp của các cường quốc như Mỹ, Nga, Trung Hoa, Pháp, Bri-tên, Nhật,
v.. v... Người Việt cũng có lý do riêng để không muốn thấy có một tiểu sử chính
xác về Diệm, từ chính trị, tôn giáo, tới ý thức hệ. Nên chẳng ngạc nhiên khi
khối văn chương hiện hữu về họ Ngô hay Ðệ nhất Việt Nam Cộng Hòa tràn ngập
những lời “cung văn” hoặc “đào mộ,” bất chấp sự thực.
Bài viết này nhằm điền vào khoảng trống nói trên. Tư
liệu chúng tôi sử dụng cơ bản là tập tiểu sử chính phủ Diệm do cơ quan an ninh
Pháp thành lập vào tháng 7/1954, hiện vẫn còn chưa giải mật. Ngoài ra, còn
nhiều tư liệu văn khố Pháp, Mỹ, Nga, Trung Hoa, cùng các tài liệu nguyên bản
khác, kể cả tiểu sử Ngô Ðình Diệm do cơ quan an ninh Mỹ biên soạn ngày
18/4/1957, nhân dịp Diệm sắp qua thăm Mỹ.( 3) Tiểu sử này, dĩ nhiên, không đầy
đủ.
I. SƠ
LƯỢC GIA THẾ:
Ngô Ðình Diệm, ngoài tên “thánh” Jean-Baptiste
[Gioan Bao-xi-ta], còn có bí danh Nguyễn Bá Chinh. Theo an ninh Pháp, Diệm sinh
ngày 27/7/1897 tại Ðại Phong [Phuong] hay Ðại Phong Lộc, huyện Lệ Thủy, tỉnh
Quảng Bình.( 4)
Cha là Ngô Ðình Khả (1856-1914), một tín đồ Ki-tô
tân tòng, xuất thân thông ngôn cho Pháp, sau đổi qua ngạch quan lại Việt, lên
tới Ðề đốc Kinh thành (1905-1907).( 5) “Mẹ” là Phạm Thị Thân.
Anh em Diệm khá đông, gồm sáu trai, hai gái. Khôi,
con vợ lớn, là anh cả. Diệm, theo lời đồn, đứng hàng em của Khôi, Thục, và anh
Ngô Thị Hiệp (bà Cả Lễ; chồng là Nguyễn Văn Ấm, sinh ra cố Hồng y Nguyễn Văn
Thuận), dù tuổi “chính thức” Diệm lớn hơn Thục hơn hai tháng. Dưới Diệm có Nhu,
Cẩn, Luyện, cùng một người em gái khác. Vì Khả chết khi Diệm còn nhỏ (17 tuổi
khai sinh), Khôi quyền huynh thế phụ. Khôi chết, Thục có ảnh hưởng nhất trên
Diệm, với cương vị một Giám mục.
Cha đỡ đầu là Nguyễn Hữu Bài (1863-1935), nhạc phụ
Khôi, một thủ hạ cũ của Khả, cũng một Thượng thư uy quyền và đầy mưu mô tại Huế
từ 1907 tới 1933. Theo tài liệu Pháp, Bài đã nuôi dưỡng Diệm từ nhỏ. Bài cũng
có ý định chọn Diệm làm con rể, nhưng vì lý do nào đó không thành. Con gái Bài
sau đi tu dòng kín Carmel.( 6)
Sau khi lên cầm quyền, Diệm đổi ngày sinh thành
3/1/1901. Chẳng hiểu tại sao có việc “thay đổi” hộ tịch trên. Việc thay tên,
đổi họ và ngày sinh tháng đẻ là việc thường xảy ra ở Việt Nam. Trước hết, vào
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, việc khai hộ tịch không được kiểm soát chặt
chẽ. Viên chức xã ấp tại thôn quê không đặt nặng sự chính xác về ngày sinh của
trẻ em. Cha mẹ nhiều khi khai rút tuổi con cái vì mục đích nào đó, như đi học
hay khai sưu thuế. Hơn nữa, việc đổi từ ngày nhật (dương) lịch qua nguyệt (âm)
lịch rất phức tạp, đôi khi cha mẹ dùng ngày tháng sinh nguyệt lịch làm ngày
tháng nhật lịch, rồi dùng năm nhật lịch tương đương trong khai sinh. Thông
thường, cha mẹ hay khai rút tuổi các con. Nhưng rất hiếm trường hợp cha mẹ khai
con mình tăng thêm ba bốn tuổi, ngoại trừ có biệt lệ nào đó. Phải chăng Diệm
rơi vào trường hợp đặc biệt này, vì nếu sinh năm 1901, Diệm không thể nào được
tập ấm chức Cửu phẩm và làm việc tại Tân Thư Viện Huế năm 1917, khi mới 16
tuổi.( 7)
Theo Luyện, em út trong gia đình họ Ngô, Diệm đã
khai tăng bốn tuổi (tức từ 16 lên 20 tuổi) để có thể vào trường Hậu Bổ. Ðiều
này khó tin, vì mãi tới năm 1918-1919, Diệm mới học trường Hậu bổ.( 8)
Luyện cũng là nhân chứng không đáng tin cậy. Thí dụ
như khi được hỏi về vai trò chính trị của Luyện, Luyện nói được lệnh “đứng
ngoài chính trị.” Thực tế, từ thập niên 1940, Luyện đã hoạt động với các tổ
chức thân Nhật, và trở thành đặc sứ của Diệm với Bảo Ðại, trước khi nắm chức
Ðại sứ tại London. Luyện cũng tung ra những tin đồn về giao tình giữa Luyện và
Bảo Ðại, mà theo Bảo Ðại không hề có.( 9) Và, như đã lược nhắc, Diệm được tập
ấm chức Cửu phẩm, làm việc tại Tân Thư Viện Huế từ năm 1917, trước khi vào
trường Hậu Bổ.
Một ký giả ngoại quốc, Robert Sharplen, ghi rằng
theo Diệm, khoảng năm 1915-1916, Diệm đã man khai hộ tịch để dự thi bằng tương
đương tốt nghiệp trung học.( 10) Chi tiết này không sát sự thực. Mãi tới giữa
thập niên 1920, mới có những cuộc thi lấy bằng Tú Tài I và II chương trình
Pháp-Nam. Bằng cấp mà Diệm thi tương đương chỉ là bằng Cao đẳng tiểu học
(Diplôme), gần tương đương với bằng Trung học phổ thông đệ nhất cấp. Tài liệu
thành văn cũng chứng minh Diệm đã vào quan trường từ năm 1916 hoặc 1917, với
chức cửu phẩm tập ấm tại Tân Thư viện, mà không phải sau khi đã tốt nghiệp
trường Luật Hà Nội năm 1921 như Diệm khoa trương hay Sharplen ghi. Thực tế,
Diệm vào trường Hậu bổ từ niên khóa 1918-1919, và chỉ học tại Hà Nội một niên
khóa 1920-1921.
Một động lực trong việc sửa đổi hộ tịch có lẽ là để
hợp thức hóa vai “em” của Diệm với Giám Mục Thục–Thục sinh ngày 6/10/1897 tại
Phước Quả, Thừa Thiên, thua Diệm hơn hai tháng. Nhưng cũng có thể, và điều này
cần được tra cứu thêm, Diệm không man khai hộ tịch, mà rất đơn giản là không cùng
mẹ (Phạm Thị Thân) với anh chị em khác. Có lẽ vì muốn che đậy bí ẩn này, tiểu
sử Khôi và Thục trong tập Vua chúa và người quí phái Ðông Dương [Souverains et
Notabilités] năm 1943 không ghi ngày sinh.( 11)
Tài liệu văn khố Pháp cũng ghi Diệm sinh tại Ðại Phong
Lộc, Lệ Thủy, Quảng Bình, mà không phải Phước Quả, Thừa Thiên, giống như Thục,
Nhu, Cẩn, Luyện, v.. v... Ðịa danh “Ðại Phong Lộc” từng được khai là nơi sinh
của Khôi, anh cả trong gia đình, con Khả và người vợ lớn đã chết sớm, trước khi
Khả lấy bà kế thất tên Thân.( 12)
Rất ít chi tiết về học vấn Diệm được công bố. Có tin
Diệm tự học ở nhà, rồi học trường Pellerin ở Huế, và tốt nghiệp Diplôme. Diệm
biết cả chữ Nho [Hán Việt]. Lại có tin Diệm học ở chủng viện, năm 1915, định đi
tu, nhưng sau đó bỏ dở nửa chừng.( 13) Bởi thế, nhiều tài liệu cho rằng Diệm
thuộc loại “religious fanatic” [cuồng đạo]. (14)
II. “BÁT
CƠM” BẢO HỘ PHÁP:
Trong nỗ lực biến hóa Ngô Ðình Diệm thành một “lãnh
tụ anh minh” đủ sức đương đầu với Hồ Chí Minh–kiểu “ăn Ngô thì no, ăn Hồ thì
đói”–cơ quan tuyên truyền Mỹ và Nam Việt Nam tô chuốt cho Diệm những bảng hiệu
như “yêu nước, chống Pháp,” v.. v... “Yêu nước” là một nhận xét khó lượng định,
vì chỉ có mỗi cá nhân mới tự biết rõ mình yêu nước hay không. Có nhiều cách
biểu lộ lòng yêu nước, nên khó thể sử dụng một hệ thống lượng giá cố định. Tấm
huy chương nào cũng có mặt trái của nó. “Chống Pháp” thì dễ lượng định hơn.
Tinh thần chống Pháp của Diệm, hay họ Ngô, chỉ là những triển biến vào khoảng
cuối đời, và động lực không hẳn do lòng yêu nước thuần túy, mà nặng về tôn giáo
cùng quyền lợi bản thân và dòng họ. Thực ra, Diệm xuất thân từ một gia đình
trung gian bản xứ Ki-tô, phục vụ Bảo hộ Pháp rất tận tụy. Khả, cha Diệm, từng
lên tới chức chánh thông ngôn tòa Khâm sứ Huế dưới thời Pierre Rheinart des
Essarts, rồi chuyển sang làm thương biện Viện Cơ Mật. Ngày 10/4/1892 Khả dịch
công văn của triều Huế xin Toàn quyền Jean de Lanessan đừng gửi ra Huế những
người như Petrus [Key], Nguyễn Trọng Tạo, Lê Duy Hinh, hay Diệp Văn Cương, v..
v... Khả cũng tham dự chiến dịch đánh phá phong trào kháng Pháp tại Hà
Tĩnh-Quảng Bình của Ngự sử Phan Ðình Phùng (1847-1895) trong hai năm 1895-1896,
và được đặc cách lên Thái thường tự khanh (Chánh tam phẩm) năm 1896, sau khi
hài cốt Ngự sử Phùng bị đốt thành tro, ném xuống sông Lam “theo [lối trừng
phạt] truyền thống.”( 15)
Sau một thời gian làm Phó Giám đốc trường Quốc Học
Huế, đặc trách nhà cửa, lương bổng và hành chính, Khả được chức Ðề đốc kinh
thành, lo bảo vệ và kiểm soát Thành Thái (1889-1907), cầm đầu một toán thân
binh cạo răng trắng, hớt tóc ngắn, mang súng trường, nhưng nhiệm vụ chính
yếu–nếu tin được báo cáo của Hiến binh Pháp–chỉ để giúp vua lùng sục và bắt cóc
gái đẹp quanh kinh thành. Sau khi về hưu, Khả được hàm Thượng thư.( 16)
Khôi, anh cả họ Ngô, bắt đầu “tham chánh” năm 1910,
sau khi tốt nghiệp trường Hậu bổ. Khoảng 6 năm đầu, Khôi làm tại văn phòng Bộ
Công do cha vợ làm Thượng thư. Sau ngày tiếp tay cho Khải Ðịnh (1916-1925) lên
ngôi, Bài được thăng Thượng thư Bộ Lại, và Khôi bắt đầu đi ngồi huyện, phủ, rồi
lên tới Bố chính, Tuần vũ, Tổng đốc khá nhanh.
Diệm thì năm 1917 được tập ấm chức Cửu phẩm, làm
việc tại Tân thư viện Huế (tức Musée Khải Ðịnh sau này), nơi đặt trụ sở Hội Bạn
của Cố đô Huế, và có bài đăng báo Bulletin des Amis de Vieux Hué [Ðô thành hiếu
cổ]. Năm 1918-1919, Diệm vào trường Hậu bổ Huế. Người đỡ đầu có lẽ là Nguyễn
Ðình Hòe, một phụ tá cũ của Khả trong chiến dịch truy giết Ngự sử Phùng, lúc đó
làm Giám đốc trường (năm 1921 giữ chức Tổng thư ký Viện Cơ Mật). Thời gian này,
triều đình đã bỏ lối thi Hương và thi Hội cũ, và trường Hậu bổ mở thêm phân
khoa “pháp chính” [hành chính và luật] của trường Ðại học Hà Nội. Học viên học
tại Huế hai năm đầu, và năm thứ ba phải ra Hà Nội. Có lẽ Diệm được chuyển qua
chương trình này.
Tốt nghiệp, nhờ sự nâng đỡ của Thượng thư Bài, năm
1922 Diệm được bổ nhậm ngay. Năm 1929 [1926?], Diệm lên tới chức đầu tỉnh, Quản
đạo Ninh Thuận (Phan Rang), rồi Tuần Vũ Bình Thuận (Phan Thiết). Ðược cấp trên
đặc biệt chú ý vì thanh liêm và tinh thần diệt Cộng cao. Một nhân chứng ghi
nhận rằng Diệm, khi làm quản đạo Ninh Thuận, ngoài những ngon tra tấn quen
thuộc như tra điện, kìm kẹp, còn bắt tù nhân Cộng Sản vuốt lạt tre, hay dùng
đèn cầy [nến] đốt hậu môn để lấy khẩu cung. Ít nhất 7 trong số 500 tù nhân Cộng
Sản bị tra tấn đến chết.( 17)
Có lẽ vì thế, theo Giám Mục Thục, Cộng Sản đã thuê
một sát thủ ra tận Phan Rang mưu sát Diệm, nhưng Diệm chỉ bị thương.( 18)
Tóm lại, từ Khả xuống Khôi, rồi Diệm, tinh thần phục
vụ và lòng trung thành với Pháp khá vững chắc. Khôi từng nhờ Nhu nói với Tổng
Giám Ðốc Cảnh Sát Paul Arnoux ngày 18/8/1944 tại Huế rằng Khôi “xin thề trên
thập tự giá“ là lúc nào cũng coi Bảo hộ Pháp như “bát cơm” [bol de riz] của họ
Ngô. Khôi cũng thường nói với Diệm rằng sở dĩ người Pháp [Khâm sứ Emille Grandjean]
không ưa vì “[họ Ngô] quá toàn vẹn,” và “Phạm Quỳnh (1892-1945) thì khôn khéo,
nên được cả Pháp lẫn Nhật quảng cáo tài năng.”( 19)
Bản tóm lược rõ ràng nhất công lao và lòng trung
thành với Bảo hộ Pháp của họ Ngô, cũng như cá nhân Diệm, do Giám mục Thục trình
lên Toàn quyền Jean Decoux ngày 21/8/1944:
Các anh em tôi cũng liên tục dâng hiến mạng sống họ
cho nước Pháp trong dịp Cộng Sản nổi loạn. Diệm, em tôi, đã ngã xuống vì những
viên đạn súng lục của một người Tàu Chợ Lớn, được gửi tới Phan Rang, nơi Diệm
hăng say ngăn chặn sự xâm nhập của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ [Mes frères,
eux mêmes ont exposé leur vie continuellement pour la France lors de la révolte
communiste. Mon cadet Diệm a failli tomber sous les coups de révolver d’un
chinois de Cholon, envoyé à cet effet à Phan Rang, où Diệm défendait
énergétiquement l’entrée de l’Annam aux émissaires communistes envoyées de la
Cochinchine]. . (19bís)
Dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp “yêu nước, chống
Pháp” của Diệm, là cuộc “đảo chính cung đình” ngày 2/5/1933. Ngày này, Toàn
quyền Pierre Pasquier (12/1928-1/1934) và Quyền Khâm sứ Léon Thibaudeau
(2/1933-7/1934) đột ngột bắt Bài và toàn bộ nội các về hưu. Theo báo Tiếng Dân,
tin trên chấn động dư luận Huế. Bẽ bàng nhất cho Bài là ngay chính Bài cùng các
Thượng thư không hề được báo trước. Và, khi Thibaudeau tuyên bố danh sách nội
các mới, có Trần Thanh Ðạt thông dịch qua tiếng Việt, một số người vẫn chưa kịp
về đến kinh đô.( 20)
Nguyên Pasquier, với sự thỏa thuận của Albert
Sarraut, quyết thực hiện một cuộc “đại cải cách” ở An Nam, đánh bóng uy tín vua
Nguyễn để làm giảm bớt và điều-kiện-hóa các phong trào quốc gia mới–như cuộc
khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Ðảng năm 1930, và nhất là sự du nhập và phát
triển của phong trào Cộng Sản từ giữa thập niên 1920, bùng nổ thành những cuộc
bạo động, khủng bố tại các đồn điền miền Nam, cùng phong trào Sô Viết Nghệ Tĩnh
trong hai năm 1930-1931. Pasquier và Thibaudeau đoạn tuyệt với nhóm hợp tác cựu
trào (Nguyễn Hữu Bài, Ki-tô giáo). Nhóm này chủ trương đồng hóa và thống trị
theo kế sách của Giám mục Paul Puginier và Louis Caspar–nhằm Ki-tô hóa các vua
quan rồi khiến toàn thể dân Việt sẽ phải theo đạo, và vĩnh viễn trở thành “bạn
của nước Pháp.” Từ thập niên 1890, nhóm hợp tác cựu trào trở thành một thứ kiêu
binh của cái mà Phạm Quỳnh cũng như Bảo Ðại gọi là “một văn phòng phụ thuộc nho
nhỏ của Tòa Khâm,” tức triều đình Huế, lúc nào cũng mang công lao của khối giáo
dân bản xứ trong việc thiết lập chế độ Bảo hộ ra áp lực Pháp. Ngựa mới của
Pasquier là phe tân trào (tiêu biểu bằng Phạm Quỳnh, Bùi Bằng Ðoàn, Nguyễn Bá
Trác, Nguyễn Thái Bạt, Lê Dư, v.. v...). Phe này chủ trương hợp tác tinh thành,
hay Pháp-Việt đề huề. Quan chức Pháp đã chọn phe tân trào, vì chủ trương hợp
tác có nhiều triển vọng thành công trước sự lớn mạnh của các phong trào quốc
gia mới. Trong khi đó, nhóm Quỳnh chấp nhận “tôn quân cũng là yêu nước,” tạm
ngưng lại đòi hỏi thể chế cộng hòa.( 21) Ðể làm giảm sự bi phẫn của nhóm cựu
trào, Pasquier và Thibaudeau đặc cách Diệm–con nuôi của Bài [son fils putatif],
cũng một trong hai Tuần vũ thanh liêm, chống Cộng nhiệt tình nhất–lên làm
Thượng thư Bộ Lại.( 22)
Một số mật báo viên ghi, và ngay chính Diệm man khai
(ngày 24/12/1947 với Tổng lãnh sự Mỹ tại Hong Kong là George D. Hopper) rằng
“Giệm” được làm “quan đầu triều Bảo Ðại.”( 23) Thực ra, từ tháng 5/1933, Bộ Lại
mất đi ảnh hưởng của những năm Bài được kiêm nhiệm chức Tổng lý [Chủ tịch Viện
Cơ Mật], và chỉ ngang hàng với các Bộ khác. Người có uy thế nhất là Phạm Quỳnh,
Thượng thư Giáo dục kiêm Ngự tiền Tổng lý của Bảo Ðại. Quỳnh không những chỉ
chuyển lệnh của Toàn quyền và Khâm sứ Pháp cho Bảo Ðại, mà còn đồng thời dịch,
và thiết kế việc thực thi các lệnh trên, cùng báo cáo kết quả lên Khâm sứ.
Thibaudeau còn cử Diệm làm Tổng Thư ký Ủy ban Cải
Cách, và yêu cầu Diệm làm tờ trình về kế hoạch canh tân Bộ Lại. Diệm, có lẽ do
ảnh hưởng của Bài, đưa ra 2 điều kiện: Phải thống nhất Bắc và Trung Kỳ; tái bổ
nhiệm một Tổng Trú sứ (Résident Général) cho Trung và Bắc Kỳ như đã qui định
trong Hoà ước 6/6/1884; và, cho Viện Dân biểu quyền thảo luận.( 24) Ðề nghị này
giống hệt kế hoạch của Bài: Muốn cải cách, việc đầu tiên phải hủy bỏ chức Thống
sứ Hà Nội và Khâm sứ Huế (tức tái sát nhập Bắc Kỳ vào An Nam), sau đó cho An
Nam ngân sách riêng. Nói cách khác, phải trở lại với Hiệp ước 6/6/1884–đòi hỏi
mà Bài đã gieo xuống đầu óc thơ dại của Duy Tân từ năm 1915-1916, đưa đến việc
vua bị truất phế rồi đầy qua Réunion cùng cựu hoàng Thành Thái (Bửu Lân) vào
cuối năm 1916. Pasquier, dĩ nhiên, không chấp thuận.
Ngày 9/7/1933, Diệm ra Quảng Trị ở với cha nuôi ít
ngày. Trở lại Huế, ngày 12/7, Diệm nạp cho Thibaudeau một bản sao đơn từ chức
đã trình lên Bảo Ðại. Lý do Diệm nêu ra là cơ cấu tổ chức hiện tại không phù
hợp với Hiệp ước 6/6/1884–Hiệp ước này qui định Pháp chỉ giữ một chế độ bảo hộ
kiểm soát (protectorat de contrôle) mà không phải bảo hộ trực tiếp (protectorat
direct).( 25)
Thibaudeau gọi Bảo Ðại từ Ðà Lạt về Huế giải quyết.
Bảo Ðại bảo thẳng Diệm rằng không thể viện dẫn lý do chính trị để từ chức, vì
đó là hành động phản nghịch. Diệm đành viết lại đơn từ chức khác ngày 18/7, nêu
lý do muốn dành thì giờ cho việc tu hành. Lần này, Diệm được toại ý. Ngày 22/7,
Thibaudeau đổi Thái Văn Toản qua thay Diệm nắm bộ Lại, và đưa Tôn Thất Quảng,
Tổng đốc Thanh Hóa, mới lập công lớn trong việc đàn áp đẫm máu tại các tỉnh Bắc
An Nam, lên nắm Bộ Công và Nghi Lễ thay Toản.( 26)
Ngay sau ngày Bài bị cách chức, vài tờ báo Nam Kỳ
công khai đả kích Pasquier. Theo một mật báo viên (Luật sư Lê Văn Kim), những
bài đả kích trên từ Huế chuyển vào Sài Gòn. Tháng 12/1933, Diệm còn vào Sài Gòn
gặp Nguyễn Phan Long, Lê Văn Kim, Jacques Lê Văn Ðức v.. v... bàn thảo kế hoạch
trả thù Pasquier và Thibaudeau. Tiếp đó, tờ La Tribune indochinoise [Diễn đàn
Ðông Dương] và tờ La Lanterne ở Paris mở chiến dịch đòi thay Pasquier bằng cựu
Toàn quyền Alexandre Varenne (7/1925-11/1927) và đưa cựu Khâm sứ Yves Châtel
(6/1931-2/1933) trở lại Huế.
Biết được tin này, Pasquier truất hết chức tước của
Bài, Diệm và Pierre Nguyễn Ðệ, Bí thư riêng của Bảo Ðại, thuộc một gia đình
trung gian bản xứ Ki-tô nổi danh khác ở miền Bắc (Án sát Nguyễn Liên). Diệm còn
bị trục xuất khỏi Huế, chỉ định cư trú tại Quảng Bình.( 27)
May mắn cho Diệm, ngày 15/1/1934, Pasquier chết vì
tai nạn máy bay trên không phận Paris. Năm sau, Bài chết tại Quảng Trị. Toàn
quyền René Robin (7/1934-1/1937) và Khâm sứ Maurice Graffeuil (7/1934-5/1936,
4/1937-8/1941) phục hồi tước vị hàm [honoraire] cho Bài, Diệm và Ðệ. Diệm được
về Huế dạy trường Providence [Thiên hựu] do Linh mục Thục, “anh trai” Diệm, làm
Giám học.( 28)
III. HỢP
TÁC VỚI NHẬT:
Thế chiến thứ hai (1939-1945) và việc Nhật xâm chiếm
Ðông Dương từ hai năm 1940-1941 khiến Diệm và họ Ngô, do tham vọng và ý muốn
phục thù Pháp, đi tìm một bát cơm hay thiên mệnh ngoại cường khác. Họ Ngô bí
mật yểm trợ Hoàng thân Cường Ðể và từ năm 1942, công khai hợp tác với Hiến binh
Nhật (Kempeitai). Huân, con trai lớn của Khôi, làm thông ngôn cho Nhật. Trong
khi đó, Nhu (1910-1963) che chở cho hai con Cường Ðể, Tráng Ðinh và Tráng Liệt,
tại văn khố Tòa Khâm sứ Huế. Những người thân Diệm cũng làm việc tại tòa Lãnh
sự Nhật từ năm 1942. Ðầu năm 1943, Y sĩ Trương Kế An, thủ lãnh Liên Ðoàn Ái
Quốc Việt Nam, gặp Diệm ở Hà Nội. Pierre Ðệ, anh rể hụt của Nhu, cũng có mặt.(
29)
Trong khi đó, Khôi cho Diệm dùng dinh thự Tổng đốc
Nam-Ngãi của mình để tiếp xúc với những cá nhân thân Nhật. Khôi còn che chở cho
tín đồ Cao Ðài (đang bị nghi ngờ thân Nhật, ủng hộ Cường Ðể) trong vùng cai
trị. Mật thám Pháp cũng tìm thấy trong nhà một người cháu họ của Khôi ở Quảng
Nam, Ngô Ðình Dậu (?),tài liệu liên quan đến Việt Nam Phục Quốc Hội của Cường
Ðể. Vì việc này, Khâm sứ Grandjean (6/1941-8/1944) chẳng những không hồi âm thư
chúc mừng của Khôi, mà trong buổi gặp mặt trên đèo Hải Vân, còn bắt Khôi về hưu
không được hàm Thượng thư. Tháng 1/1944, Grandjean còn cho lệnh Bảo Ðại bí mật
trục xuất Diệm khỏi Huế, chỉ định cư trú ở Quảng Bình. Anh em Diệm trút mọi hờn
oán lên Quỳnh, đương kim Tổng lý [Tể tướng] triều đình.( 30)
Mùa Hè 1944, Mật thám Pháp khám phá ra tổ chức Ðại
Việt Phục Hưng của Diệm, gồm khoảng 50 đảng viên tích cực, kể cả một số giáo
sĩ; nằm ngay trong đội lính khố xanh (Garde indochinoise), cảnh sát, công chức,
v.. v... Một trong những lãnh tụ là Trần Văn Lý, Tuần vũ Hà Tĩnh. Pháp bèn cho
lệnh khám xét tư thất Diệm, nhưng Diệm đã sớm tẩu thoát.
Ngày 12/7, Trung úy Kuga Michio của Hiến binh Nhật
bí mật đưa Diệm vào Ðàợ Nẵng, rồi đáp phi cơ vào Sài Gòn. Trong thời gian ở
miền Nam, Diệm lui tới với Matsushita [Tùng Hạ] Mitsuhiro, Chủ công ty Dainan
Koosi [Ðại Nam hay Dainan Konsi], trưởng lưới tình báo dân sự của Nhật, cũng
người tự nhận là bạn thân của Cường Ðể.( 31)
Một tháng sau, ngày 12/8, Nguyễn Huy Tân, Cán sự
Công chính ở Quảng Ngãi, một cán bộ của Diệm, khai rằng Nhật đã chọn Diệm làm
Thủ tướng, trong một chế độ quân chủ lập hiến mà người làm vua không nhất thiết
phải là Cường Ðểẩ. Hai ngày sau, 14/8, Paul Arnoux, Giám đốc Cảnh Sát, được
lệnh bí mật khai thác Nhu và Khôi ngay tại Huế. Ngày 18/8, Arnoux báo cáo rằng
Nhu nhìn nhận việc làm tội lỗi của Diệm, nhưng Khôi không dính líu, xin “thề
trên thập tự giá” là chỉ muốn duy trì “bát cơm” Pháp.( 32)
Ngày 20/8, vì tình hình Âu Châu đang rối loạn, phe
“Pháp tự do” của Charles de Gaulle đang tiến vào Paris, Decoux đồng ý với đề
nghị của Arnoux là chỉ trừng trị những cán bộ hạng trung, tránh khiêu khích
Nhật.
Trong khi đó, ngày 21/8, Thục–đã được thụ phong chức
Giám mục Vĩnh Long từ năm 1938–viết thư xin Decoux nghĩ đến công lao hãn mã của
cha mình với chính phủ Pháp trong việc “đánh dẹp phản loạn” (tức những phong
trào Văn Thân và Cần Vương kháng Pháp) khi xét xử Khôi và Diệm. Anh em họ Ngô,
Thục nhấn mạnh, cũng đã nhiều lần dâng hiến thân tâm cho Bảo hộ Pháp, bất kể
mạng sống. Chẳng hiểu vì công lao của Khả (đặc cách từ Thương biện Cơ Mật viện
lên Thái thường tự khanh, năm 1896), vị thế Giám Mục của Thục, thành tích phục
vụ Bảo hộ của anh em Diệm-Khôi, hay vì mối lo ngại cho sự an nguy chính bản
thâạn Decoux, Pháp không truy cứu việc này.( 33)
Cuối năm 1944, đầu năm 1945, Diệm tá túc trong bệnh
viện Chợ Quán, được trưng dụng làm trụ sở quân sự của Nhật, sau này đổi tên
thành bệnh viện bài lao Hồng Bàng. Tại đây, Diệm cùng Y sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Y
sĩ Lê Toàn, Kỹ sư Vũ Văn An, Ký giả Vũ Ðình Dy (1906-1945) thành lập Ủy Ban
Kiến Quốc, phò trợ Cường Ðểẩ. Cuối năm 1944, khi chuẩn bị kế hoạch Mago để lật
đổ chế độ thân Vichy Decoux, Hiến binh Nhật đã dự trù Diệm sẽ trở thành Thủ
tướng. Tuy nhiên, tình hình ngày một đổi thay mau chóng. Tướng Tsuchihashi
Yuitsu, Tư lệnh Quân đoàn 38–lực lượng trách nhiệm phòng thủ Ðông Dương chống
lại cuộc đổ quân Ðồng Minh–dồn mọi nỗ lực cho mục tiêu quân sự hơn chính trị.
Bởi thế Tsuchihashi giữ Bảo Ðại làm vua một nước Việt Nam “độc lập trong Khối
thịnh vượng chung Ðại Ðông Á,” chống việc đưa Cường Ðể về nước. Nhưng nước Việt
Nam này trên thực tế chỉ bao gồm 12 tỉnh miền Trung, vì Nam Kỳ cũng như Bắc Kỳ
được trù liệu sẽ trở thành hai trung tâm tử thủ chống lại sự đổ bộ của quân
Ðồợng Minh. Giám đốc Kempeitai yêu cầu phe Diệm-Chữ tham gia chính phủ độc lập
tại Huế, nhưng cả hai đều từ chối.( 34)
Tháng 3/1945, sau cuộc Hành quân Meigo (9-10/3/1945)
loại bỏ Decoux, Bảo Ðại hai lần nhờ Nhật mời Diệm làm Thủ tướng, nhưng không có
hồi âm. Mãi sau này, Bảo Ðại mới được Nhật thông báo rằng họ không muốn dùng
Diệm. Thay vào đó, tháng 4/1945, Trần Trọng Kim (1883-1952) được đưa từ Krung
thêp về Huế làm Tổng lý nội các [Thủ tướng] “Ðế quốc Việt Nam” (4-8/1945).( 35)
Nhóm Diệm-Chữ đã bị phân tán ra khắp ba miền. Y sĩ
Chữ về lại Nam Ðịnh, rồi Hà Nội, và cuối cùng trở thành Chủ tịch Ủy Ban Lãnh
Ðạo Chính trị miền Bắc, thay Khâm sai Phan Kế Toại từ chức vào giữa tháng
8/1945. Diệm về lại Vĩnh Long, tá túc trong giáo phận của Giám mục Thục.( 36)
IV. DIỆM
& VIỆT MINH:
Mặc dù sau này Ngô Ðình Diệm thường tuyên bố tại
Việt Nam chỉ nổi danh thua Hồ Chí Minh, khoảng thời gian từ tháng 8/1945 tới
đầu năm 1947 là một giai đoạn bí mật nhất đời Diệm.
Như chúng ta đã biết, ngày 19/8/1945, Việt Minh lên
nắm chính quyền ở Hà Nội.( 36) Ngày 25/8, Bảo Ðại ra thông cáo thoái vị. Khôi
và con trai trưởng là Huân bị Việt Minh bắt, rồi thủ tiêu ở vùng Phong Ðiền,
Thừa Thiên. Riêng Diệm và Thục đều có tin bị Việt Minh bắt. Thục, thực ra được
tự do sống ở vùng Vĩnh Long, dưới sự che chở của viên chức Việt Minh. Tháng
10/1945, Thục định ra Bắc, nhưng bị quân Bri-tên chặn bắt ở Biên Hòa, rồi sau
đó âm thầm trở lại giáo phận Vĩnh Long.
Phần Diệm, tông tích bất minh. Ngày 7/5/1953, trong
buổi ăn trưa và thảo luận [lunch talks] về tình hình Ðông Dương tại Tối Cao
Pháp Viện Mỹ, Diệm tuyên bố từng bị Hồ “cô lập” trong một làng thiểu số năm
1946. Sau 6 tháng, Hồ yêu cầu Diệm tham gia chính phủ, nhưng Diệm trả lời rằng
vì biết Hồ là CS, Diệm muốn được toàn quyền và thông báo mọi tin tức. Những
người ủng hộ Diệm đòi Diệm phải được giao Bộ Nội Vụ và nắm ngành Cảnh Sát. Hồ
do dự ít tuần, rồi cuối cùng từ chối.( 38) Gần một thập niên sau, ngày
16/1/1962, Diệm còn lập lại chi tiết bị bắt giữ ở vùng thượng du Bắc Việt với
các viên chức Mỹ tại Sài Gòn.( 39)
Diệm còn tuyên bố rằng Diệm bị Việt Minh bắt vào
tháng 9/1945, khi từ Sài Gòn ra Huế ngăn Bảo Ðại đừng theo Hồ. Sau đó, bị giải
lên thượng du gần biên giới Hoa-Việt, suýt chết vì bệnh sốt rét. Sáu tháng sau,
HCM mang Diệm về Hà Nội, thuyết phục Diệm theo mình. Diệm không đồng ý, HCM bèn
thả Diệm. Sau này, Hoàng Tùng cho rằng tha Diệm là một sai lầm.( 40)
Việc Diệm bị Việt Minh bắt được nhiều nguồn tin khác
xác nhận. Hạ tuần tháng 11/1945, Giám mục Thục khai với Pháp rằng Khôi và Diệm
đã bị Việt Minh bắt và có thể đã bị xử bắn.( 41) Ngày 28/12/1945, Tổng Giám mục
Antonin Drapier cũng viết cho Trưởng đoàn Truyền giáo Hải ngoại Pháp ở Sài Gòn,
rằng Diệm đã bị Việt Minh bắt.( 42)
Một nguồn tin khác nữa ghi vào khoảng tháng 6/1946,
khi Diệm đến ở nhà Linh mục Ðộầ, chính xứ Tuy Hoà, cán bộ VM đã “khéo léo” mời
được Diệm lên miền Thượng (Mọi). Người gia nhân thoát chạy ra Phát Diệm, xin
Giám mục Lê Hữu Từ giúp, sợ bị giống như Khôi. Từ bèn cùng Linh mục Phạm Quang
Hàm và Dân biểu Ngô Tử Ha vào Bắc bộ phủ xin Hồ tha Diệm. Chính Hồ cũng không
biết việc này, và hứa sẽ can thiệp. Khoảng một tháng sau, Diệm về tới Hà Nội,
Võ Nguyên Giáp cho gọi Nhu tới lĩnh về.( 43)
Những chi tiết quanh việc Diệm bị Việt Minh bắt có
nhiều nghi vấn:
1.
Xét về ngày tháng Diệm bị bắt, có phần không ổn.
a. Tài liệu Bộ Ngoại Giao Mỹ và Karnow dẫn lời Diệm là Diệm bị bắt vào
tháng 9/1945, và trả tự do vào khoảng tháng 3/1946.
b. Ngày tháng mà Từ hoặc tác giả viết hồi ký cho Từ ghi là Diệm bị bắt đúng
vào giai đoạn HCM đang ở Pháp, và mãi tới ngày 22/10/1946 Hồ mới về tới Hà Nội.
Vậy Từ can thiệp vào dịp nào? (Diệm cũng không hề nhắc đến việc được Từ và Hạ
can thiệp).
c. Ngay chính Diệm, ngày 7/5/1953, chỉ nói mơ hồ đã bị “cô lập” tại một
làng thiểu số trong 6 tháng vào năm 1946.
2. Không ai rõ Diệm được tha ngày nào, và cũng chẳng ai rõ hành tung Diệm
từ lúc được tự do tới khi xuất hiện ở Hà Nội vào đầu năm 1947 trong bộ đồ tu
hành.
3. Theo thư gửi Decoux đề ngày 21/8/1944, Thục nói Cộng Sản từng sai sát
thủ người Hoa ra Phan Rang mưu sát Diệm, nhưng Diệm chỉ bị thương. Nếu bắt được
Diệm năm 1945 hoặc 1946, ngay tại miền Trung, cách nào Cộng Sản tha Diệm? Người
ta chưa quên số phận những Tạ Thu Thâu, Vũ Ðình Dy, v.. v... ở Quảng Ngãi; và
nhiều cảnh “mò tôm” khác khắp ba miền.
4. Anh em Diệm rất thành thạo thủ thuật tự đánh bóng (kiểu Diệm “làm Tể
tướng cho Bảo Ðại,” Khả làm “thượng thư đầu triều Thành Thái,” hay “đầy vua
không Khả”). Thành tích “bị giam lỏng” tại miền thượng du năm 1946, hay đòi Hồ
cho nắm Bộ Nội vụ có thể chỉ để tăng thêm vốn cho việc rao bán lập trường chống
Cộng hầu xin viện trợ Mỹ của Diệm. Hy vọng sẽ có dấu vết việc bị “cô lập” này
trong văn khố Ðảng Cộng Sản Việt Nam hay Pháp.
Cho tới khi có tài liệu rõ ràng, có thểờ tin Diệm đã
trốn trong nhà tu [Redemptoristes hay Dòng Cứu thế] ở Huế như tài liệu văn khố
Pháp ghi nhận.
V. DIỆM
& BẢO ÐẠI: “THÀNH PHẦN THỨ BA”
Ðầu năm 1947, Diệm xuất hiện ở Hà Nội, ngụy trang
như một tu sĩ dòng Cứu Thế. Ðược Pháp yêu cầu lập chính phủ chống Cộng, Diệm
đưa ra một kế hoạch không thể chấp nhận được, tức thống nhất ba miền, có quân
đội riêng và nhiều quyền tự trị hơn. Diệm còn gặp Tổng lãnh sự Mỹ Charles Reed
tại Hà Nội. Trong thời gian ở Hà Nội, ngụ tại tu viện dòng Cứu Thế ở Thái Hà
ấp. Ngày 11/4/1947, Diệm trở lại Sài Gòn. Ngày 5/9/1947, lại trở ra Hà Nội.
A.
“THÍ NGHIỆM” BẢO ÐẠI:
Thời gian này, “thí nghiệm” Bảo Ðại bắt đầu thành
hình. Thí nghiệm này nhằm ngụy trang cuộc tái xâm lăng Việt Nam mà chính phủ
Charles de Gaulle đã phát động từ năm 1944-1945.(44)
Từ mùa Hè 1945, sau khi Nhật lật đổ chính phủ thân
Vichy của Decoux, Tướng de Gaulle đã nỗ lực tìm một “chí sĩ quốc gia Việt Nam
chân chính” để cầm cờ dẫn Pháp trở lại Ðông Dương. Ứng cử viên được nhiều người
biết nhất là Hoàng tử Vĩnh San (1900-1945), tức cựu hoàng Duy Tân (1907-1916),
đã bị truất phế và đầy qua Réunion năm 1916. Tai nạn phi cơ ngày 26/12/1945
khiến “lá bài bí mật” của phe de Gaulle “tan biến như một giấc mơ đẹp.” Hai
ngày sau, 28/12, Tổng Giám mục Drapier, Khâm sứ Vatican, trình lên Cao ủy/Linh
mục Georges Thierry d’Argenlieu (1945-1947) kế hoạch cho Bảo Ðại lên ngôi như
trước ngày 9/3/1945; rồi lập Hoàng tử Bảo Long làm vua, Hoàng hậu Nam Phương
nhiếp chính, với Diệm làm Thủ tướng.( 45) Tuy nhiên, d’Argenlieu không đồng ý,
và cũng không hài lòng việc Drapier xen lấn vào thế quyền.
Một số chính khách, lãnh tụ giáo phái Việt cũng xúc
tiến thực hiện “giải pháp” Bảo Ðại từ cuối năm 1945, đầu năm 1946. Người đầu
tiên đưa ra ý kiến này là tân Giám Mục Lê Hữu Từ. Nhân dịp Bảo Ðại về Phát Diệm
dự lễ tấn phong của Từ, Từ hỏi Bảo Ðại có mưu tính gì chăng; nhưng Bảo Ðại
không có phản ứng tích cực. Cựu Thủ tướng Kim và đảng viên trẻ Ðại Việt, kể cả
Ðỗ Ðình Ðạo v.. v..., cũng tìm thấy ở Bảo Ðại sự lãnh đạo, hoặc ít nữa sự chính
thống [legality hay legitimacy] cần thiết, để chống Hồ.( 46) Việt Nam Quốc Dân
Ðảng [VNQDÐ] và Trung Hoa Quốc Dân Ðảng [THQDÐ] cũng ít nhiều tiếp tay Bảo Ðại
rời Hà Nội vào trung tuần tháng 3/1946.
Mãi tới sau cái chết của Nguyễn Văn Thinh ngày
10/11/1946 và sự khủng hoảng của thí nghiệm “Cộng Hoà Nam Kỳ tự trị”–nhất là
sau cuộc tấn công của Việt Minh tối 19/12/1946 trên khắp miền Bắc vĩ tuyến 16–
vai trò Bảo Ðại mới sáng giá hơn. Nước Pháp lúc này đứng trước một ngã ba
đường. Một, tiếp tục thương thuyết với Việt Minh, hầu tìm một giải pháp chính
trị. Nẻo đường khác, là đoạn tuyệt với chính phủ “ương ngạnh” [intransigence]
của Hồ, đi tìm một “chí sĩ quốc gia” chấp nhận thoả hiệp với Pháp. Hầu hết các
cấp lãnh đạo Pháp–từ Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet cho tới đặc sứ
Philippe Leclerc de Hautecloque (1902-1947)–đều nghĩ rằng đã đến lúc đoạn tuyệt
với Hồ. Léon Pignon, Cố vấn Chính trị của d'Argenlieu, ủng hộ Bảo Ðại nồng
nhiệt nhất.
Do Pignon tiến cử, ngày 14/1/1947, d'Argenlieu mật
báo về kế hoạch tái sử dụng Bảo Ðại.( 47) Moutet không chấp thuận.( 48) Thủ
tướng Léon Blum (12/1946-1/1947) cũng không tán thành, nhưng chuyển kế hoạch
này cho người kế vị là Paul Ramadier (1947). Dẫu vậy, d'Argenlieu vẫn gửi
Cousseau qua Hong Kong để liên lạc với Bảo Ðại vào đầu năm 1947.
Sự thành hình của chính phủ Ramadier ngày 21/1/1947,
và quyết định thay d'Argenlieu bằng Dân biểu Emile Bollaert ngày 5/3/1947 mang
lại một không khí mới. Viên chức Pháp nghĩ đến một chính phủ Liên bang Việt
Nam, với ba chính phủ địa phương tại ba kỳ, và một chính phủ trung ương tượng
trưng sự thống nhất lãnh thổ. Vấn đề đặt ra là ai sẽ cầm đầu chính phủ trung
ương đó. Hồ Chí Minh và Bảo Ðại trở thành hai tâm điểm của các cuộc thảo luận.
Một số chính khách Pháp nghĩ rằng phải nối lại
thương thuyết với Hồ. Theo họ, dù Hồ và các thuộc hạ thân tín là Cộng Sản, đa
số cấp lãnh đạo Việt Minh chỉ là những người yêu nước. Hơn nữa, Hồ và các thuộc
hạ có khả năng nhất.( 49)
Một số khác chủ trương loại bỏ Hồ, thương thuyết với
Bảo Ðại. Theo họ, Bảo Ðại có một số người theo ở Trung Kỳ; và được sự ủng hộ
hoặc chấp thuận của nhiều nhân vật có uy tín tại Bắc cũng như Nam Kỳ.( 50)
Ngày 1/4/1947 tân Cao Ủy Bollaert tới Sài Gòn với
lệnh tái thiết lập những guồng máy cũ, nhưng đừng để lộ ra là Pháp muốn tái lập
nền quân chủ.
Thời gian này, Bảo Ðại sống ẩn dật tại Hong Kong.
Rời Hà Nội qua Nam Kinh ngày 16/3/1946 trong phái đoàn thăm thân hữu Trung Hoa,
nhưng đến ngày về, Bảo Ðại nhận được thư Hồ khuyên nên du lịch thêm một thời
gian. Cựu hoàng bèn sang Hong Kong, sống tại đây với một vũ nữ, dưới một tên
giả trong khách sạn Saint Francis Hotel. Mùa Thu 1946, Bảo Ðại tuyên bố với một
ký giả Pháp, Jacques Sallebert, là với cựu hoàng, “chính trị đã chết.” Bảo Ðại
cũng bày tỏ lòng kính phục Chủ tịch Hồ, và tiết lộ rằng sự thoái vị của mình là
chiều theo ý dân.( 51)
Nhưng nhiều cá nhân và lãnh tụ các đảng phái chống
Cộng vẫn tìm đến, lôi kéo Bảo Ðại khỏi cảnh huống “về hưu” non ở tuổi 33. Trong
số này có Nguyễn Tường Tam, Vũ Kim Thành, Trần Trọng Kim v.. v... Vào cuối năm
1946, đầu năm 1947, số người ủng hộ Bảo Ðại được tăng cường thêm Hộ pháp của
Cao Ðài. Mới hồi hương vào tháng 8/1946 sau gần 5 năm lưu đầy, Phạm Công Tắc
chủ trương hợp tác với Pháp để chống Cộng. Chính Tắc và Trần Quang Vinh, Tư
lệnh lực lượng võ trang Cao Ðài từ năm 1943, đã yểm trợ Y sĩ Lê Văn Hoạch lên
cầm đầu chính phủ Nam Kỳ tự trị sau cái chết của Y sĩ Thinh ngày 10/11/1946,
hầu loại bỏ Trần Văn Tỷ. Cuộc tổng tấn công ngày 19/12/1946 của Hồ giúp Tắc
mạnh bạo hơn. Ngày 1/1/1947, nhân dịp Bộ trưởng Moutet đang tham quan Ðông
Dương, Tắc yêu cầu Moutet đưa Bảo Ðại về nước; và hứa sẽ ủng hộ Bảo Ðại.( 52)
Nhưng các chính phủ tại Paris–với sự tham dự của
Ðảng Cộng Sản Pháp–chưa muốn đoạn tuyệt với Hồ. Vì nhiều lý do, viên chức Pháp
khẳng định vẫn muốn thương thuyết, nhưng đặt thêm một điều kiện căn bản–đó là
thảo luận trên thế mạnh, không để bạo lực chi phối, và sau khi đã vãn hồi trật
tự. Ngày 20/12/1946, khi ra trước Quốc Hội điều trần, và tuyên bố sẽ qua Ðông
Dương tham quan, Moutet nhấn mạnh:
Nước Pháp muốn hoà bình, tôn trọng những nguyên tắc
đã tuyên bố, nhưng không chịu khuất phục trước bạo lực. Chính sách của Pháp là
bảo vệ quyền lợi nước Pháp và làm cho những quyền lợi ấy được tôn trọng.( 53)
Dù chỉ là một bình phong cho việc tái chiếm miền Bắc
bằng võ lực, hay phát xuất từ lòng chân thành, những điều kiện tiên quyết này
mở ra một câu hỏi then chốt–đó là thương thuyết với ai? Thêm vào đó, là giới
hạn của những nhượng bộ Pháp có thể chấp thuận. Mặc dù bản tuyên cáo ngày
24/3/1945 qui định “năm xứ Ðông Dương” của chính phủ de Gaulle đã bị các biến
cố ở Việt Nam biến thành dĩ vãng, đa số giới lãnh đạo Pháp vẫn nhấn mạnh ở điểm
Ðông Dương phải là một thành phần của Khối Liên Hiệp Pháp [L’Union FrancỄaise];
không thể thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam vì miền Nam là một thuộc địa, tức
một phần lãnh thổ bất khả phân của Pháp như phần dẫn nhập của Hiến Pháp 1946 đã
qui định; và, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH] của Hồ chỉ là một
trong những phe phái mà người Pháp có thể thương thuyết.
Ngày 23/12/1946, Dân biểu André Mutter của hạt
l'Aube–người từng yêu cầu bắt Hồ tại Paris sau khi hội nghị Fontainebleau đổ
vỡ–tuyên bố không thể đàm phán với chính phủ Hồ được nữa vì đó là “bọn phản
bội” [traitres]. Mutter nhấn mạnh:
Chúng ta không thể coi Hồ Chí Minh như đại diện của
một tiểu bang tự do [Etat libre]; đó là một kẻ sát nhân [assassin].( 54)
Sau khi tham quan Ðông Dương về, tảng lờ nhữờng lời
kêu gọi tái thương thuyết của Hồ, ngày 18/3/1947, Moutet khẳng định không thể
nói chuyện với Hồ nữa, vì Hồ không những chỉ coi việc ký Hiệp ước như một phương
tiện tranh đấu; mà còn chủ trương bạo động.( 55)
Mặc dù vẫn còn những người như Pierre Cot chưa dứt
khoát–đề nghị đừng nên qui lỗi cho một phe nào–phe cực hữu ngày thêm mạnh. Ngày
13/4/1947, Paul Reynaud tuyên bố trước Quốc Hội Pháp:
Hồ Chí Minh là một tên tội phạm [un criminel] và
không thể thương thuyết với hắn; hoặc hắn đã bị điều khiển [manoeuvré] và tự
chứng tỏ thiếu khả năng để bắt chính quân đội của mình tuân lệnh, vậy thì, đó
là kẻ thiếu khả năng và cũng chẳng nên thương thuyết với hắn nữa.( 56)
Hôm sau, 14/4, Dân biểu Maurice Violette còn đi xa
hơn, khẳng định: “Tinh thần quốc gia ở Việt Nam là phương tiện; cứu cánh là
thực dân Liên Sô.”( 57)
Lời cáo buộc này khiến phe Cộng Sản Pháp, kể cả
Marcel Cachin, cực lực phản đối. Ramadier phải công nhận cho tới thời điểm đó,
Liên Sô hoàn toàn trung lập. Nhưng từ ngày này, dù công khai hay phía sau hậu
trường, các viên chức Pháp, vì những lý do dễ hiểu, không ngừng tố cáo nguồn
gốc Quốc Tế Cộng Sản [QTCS] của Hồ.( 58)
Phe cổ võ cắt đứt thương thuyết với Hồ còn đưa ra
thêm một lý do khác là từ ngày 19/12/1946, chưa ai gặp được Hồ. Sự biến dạng
này khiến không thể không hoài nghi rằng Hồ đã chết; và, những phần tử quá
khích như Võ Nguyên Giáp cùng Hạ Bá Cang (Quận thọt) đang chi phối Tổng bộ Việt
Minh. Những văn thư ký tên Hồ gửi cho Pháp trong những tháng cuối năm 1946, đầu
năm 1947–kể cả bản kiến nghị do Trần Ngọc Ranh trao cho Pháp tại Paris vào
tháng 2/1947–bị coi là đã giả mạo chữ ký Hồ.( 59)
Song song với chiến dịch hạ uy tín Hồ là việc tách
rời Hồ khỏi khối đại đa số người Việt yêu nước. Ramadier, khi ra thuyết trình
trước Quốc Hội vào tháng 2/1947, đã mở đầu cho khuynh hướng này. Tiếp đó,
Moutet khẳng định Hiệp ước sơ bộ 6/3/1946 đã được ký kết với một chính phủ liên
hiệp Việt Nam, mà không phải với cá nhân Hồ.
B.
SỨ MỆNH CAO ỦY BOLLAERT:
Ðể đánh dấu sự thay đổi chính sách của mình,
Ramadier quyết định thay Linh mục/Cao ủy d'Argenlieu vì d'Argenlieu bị chỉ
trích là còn nặng đầu óc thực dân; và vì d'Argenlieu có những khó khăn trong
việc liên hệ với những người mà ông ta phải làm việc chung. D’Argenlieu không
chịu từ chức, muốn níu giữ Ðông Dương chờ ngày de Gaulle–mới đột ngột từ chức
ngày 24/1/1946–trở lại chính quyền. Ramadier chẳng còn cách nào khác hơn cách
chức d’Argenlieu.
Bài diễn văn được coi như bản tuyên bố chiến tranh
lạnh của Tổng thống Harry Truman (1945-1953) ngày 12/3/1947 và kế hoạch viện
trợ tái thiết Tây Âu ít tháng sau của Ngoại trưởng George C. Marshall–được biết
như “Kế hoạch Marshall”– khiến chính phủ Ramadier nghiêng về phía loại bỏ Hồ,
“một cán bộ QTCS.” Tuy nhiên, dự định của Paris nhằm biến hoá cuộc tái xâm lăng
Việt Nam thành một điểm nổ của cuộc chiến tranh lạnh Tư Bản-Cộng Sản
(1947-1991)–hầu xin được viện trợ Mỹ và thiết lập chính nghĩa mới –không đạt
được tốc độ mong muốn. Oat-shinh-tân, dù không muốn thấy “một chế độ tay sai
của Mat-scơ-va thống trị bán đảo Ðông Dương,” và cũng không muốn bị mang tiếng
ủng hộ Pháp tái thiết lập chế độ thuộc địa kiểu tiền chiến tại thuộc địa này,
chỉ khuyên Pháp nên tìm ra một “chí sĩ quốc gia chân chính” lên cầm đầu cuộc
chiến chống Cộng. Bởi thế, suốt năm 1947, Bollaert gặp rất nhiều khó khăn trong
việc tìm một giải pháp cho Việt Nam. Dẫu vậy, Bollaert đặt xuống những nền tảng
cho việc thực thi thí nghiệm Bảo Ðại. Giai đoạn đầu là những bước ngoại giao để
loại bỏ Hồ.
Nguyên từ cuối tháng 12/1946, đầu tháng 1/1947, Hồ
nhiều lần xin nối lại thương thuyết. Ngày 20/2/1947, ít tuần trước ngày Ðại Hội
Các Quốc Gia Á Châu tại New Dehli, Ðài Việt Minh công bố một lá thư của Hồ gửi
Ramadier và Moutet, kêu gọi thương thuyết. Việt Minh cũng nhờ đại diện Hồng
Thập Tự Quốc Tế chuyển cho Lãnh sự Bri-tên một thư nghị hoà, nhưng viên chức
Pháp ở Paris đều nói không nhận được. Mãi tới ngày 26/3, viên chức Ngoại giao
Pháp mới nói với Ðại sứ Mỹ Caffery là nhận được thư này, nhưng không ai dám
khẳng quyết Hồ còn sống.( 60)
Cũng ngày này, tân Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh
Giám khẳng định muốn “độc lập trong Liên Hiệp Pháp.” Ngày 18/4/1947, Giám nhờ
Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế chuyển cho Miguel de Pereyra, tân Ủy viên Cộng Hoà Bắc
Việt, một công hàm yêu cầu ngưng bắn tức khắc và nối lại thương thuyết.( 61)
Hôm sau, 19/4, Giám lại tuyên bố sẵn sàng điều đình, nhưng vì Pháp đòi Việt
Minh phải nộp 50% khí giới, phóng thích tù binh Pháp, VM không chịu, vì như thế
là đầu hàng.
Việt Minh còn cử Thứ trưởng Ngoại Giao Phạm Ngọc
Thạch tới Bangkok và các nước Ðông Nam Á để vận động. Thạch hai lần bí mật tiếp
xúc Tùy viên Quân sự Toà Ðại sứ Mỹ ở Bangkok, Trung tá William Law, trao cho Mỹ
một số văn kiện, nhưng không đạt kết quả nào.( 62)
Tháng 5/1947, Bollaert cử Paul Mus, cố vấn kinh tế,
tìm cách liên lạc với Giám. Ngày 9/5, Mus gặp Giám ở Cầu Ðuống, rồi được dẫn đi
gặp Hồ ngay tại tỉnh lỵ Thái Nguyên. Tuy nhiên, khi nghe Mus đọc thuộc lòng các
điều kiện của Bollaert–tức Việt Minh phải buông súng đầu hàng–Hồ chẳng có lựa
chọn nào khác hơn từ chối.( 63)
Bollaert cũng xúc tiến mạnh hơn việc thành lập các
cơ cấu hành chính lâm thời tại vùng chiếm đóng. Khởi đi từ Ủy Ban Chấp Chánh
Lâm Thời [Comité administratif provisoire] ở Huế (12/4/1947) và Hội đồng An Dân
Bắc Việt [Comité provisoire de gestion administrative et d'action sociale] ở Hà
Nội (19/5/1947), các ủy ban hay hội đồng hàng tỉnh, hàng quận tiếp tục được
thiết lập.
Trong hai tháng cuối Xuân, đầu Hạ 1947, Hồ lại mở
chiến dịch kêu gọi thương thuyết. Ngày 19/6, Hồ tuyên bố muốn được độc lập
trong Liên Hiệp Pháp. Một tháng sau, ngày 19/7, Hồ cải tổ chính phủ. Hai nhân
vật “ôn hoà”–Hoàng Minh Giám và Tạ Quang Bửu, rất thân thiết với Võ Nguyên
Giáp–lên nắm Bộ Ngoại Giao và Quốc Phòng. Chu Bá Phượng, một lãnh tụ VNQDÐ vẫn
được “nắm” chức Cứu tế, Xã hội (dù trên thực tế đang bị giam lỏng). Nguyễn Văn
Tố, Ðặng Văn Hướng, Bồ Xuân Luật là ba Bộ trưởng không bộ nào. Vũ Ðình Tụng, Bộ
trưởng Cựu Chiến binh, và Ngô Tử Hạ, Thứ trưởng Cựu Chiến binh, đại biểu Giáo
dân Ki-tô. Tôn Ðức Thắng mất chức Bộ trưởng Nội Vụ; Giáp lên chức Tổng Tư lệnh
Quân đội.( 64)
Giới ngoại giao ghi nhận việc cải tổ chính phủ này
như một nỗ lực của Hồ để nối lại thương thuyết. Tuy nhiên, khi trở lại Paris
ngày 29/7, Mus tuyên bố khó thể có hoà bình vì cả hai bên đều không tin nhau.
Thực ra, Bollaert vốn có ý định cắt đứt liên hệ với Hồ; và bí mật thương thuyết
với Bảo Ðại cùng các phe phái chống Cộng. Mus là một trong những đặc sứ, nhưng
quan trọng nhất vẫn là Cousseau, nhân viên tình báo có nhiệm vụ kiểm soát và
nuôi dưỡng Bảo Ðại trong cảnh lưu vong. Nhưng ông vua cuối nhà Nguyễn, người
được Ðại diện Vatican ca ngợi như thân Pháp nhất tại Việt Nam, đã phần nào thay
đổi.( 65)
Bảo Ðại, và nhất là những cộng sự viên buổi đầu như
Kim, Thành, Diệm, Sâm mới trải qua một cơn sốt váng vất độc lập, thống nhất–và,
phần nào vì mặc cảm–đòi hỏi Pháp nhân nhượng nhiều hơn những gì đã nhân nhượng
với Hồ. Gặp Cousseau ở Hong Kong vào tháng 1/1947, chẳng hạn, Kim đưa ra 7 điều
kiện để hợp tác: 1/ thống nhất 3 kỳ; 2/ tự trị; 3/ định rõ vị trí của VN trong
Liên Hiệp Pháp; 4/ VN phải có quân đội; 5/ VN phải có cơ cấu tài chính; 6/ Pháp
nên định một hạn kỳ trao trả độc lập cho VN; 7/ VN có đại biểu ngoại giao với
các nước Á Ðông và buôn bán với các nước khác.( 66)
Tuy nhiên, người Pháp không chịu nhượng bộ ngay. Quá
tự tin ở sức mạnh quân sự–ít nữa đủ sức đánh tan quân đội chính qui Việt
Minh–ai nấy hy vọng chiến thắng không xa. Tình hình quân sự những tháng đầu năm
1947 phần nào thắp sáng ngọn lửa lạc quan. Ngày 17/2/1947, bộ đội Việt Minh rút
khỏi Hà Nội. Gần một tháng sau, ngày 11/3, Pháp làm chủ tình hình Nam Ðịnh. Tại
miền Trung, Pháp tái chiếm Hội An [Faifo] ngày 15/3, Quảng Nam ngày 16/3; rồi
đổ bộ Ðồng Hới ngày 27/3. Riêng Hòa Bình, ngày 15/4 Pháp làm chủ được tình thế.
Bởi vậy, Bollaert và cố vấn tìm cách kéo dài thời gian, chờ đợi kết quả chiến
dịch mùa khô 1947–một chiến dịch mà Tướng lãnh Pháp tin tưởng sẽ bẻ gãy xương
sống quân đội Việt Minh. Ðể chuẩn bị cho chiến dịch này, ngày 16/5 Bollaert cử
Tướng Raoul Salan–một nhân vật quen thuộc với Ðông Dương, từng tham gia cuộc
thương thuyết với Trung Hoa và Hồ năm 1946–làm Tư lệnh miền Bắc. Viện binh Pháp
cũng lục tục kéo tới, nhiều nhất là lính Lê-dương [Légions étrangères] gốc Ðông
Âu và lính da đen Phi Châu.
Bollaert cũng cho cải tổ những chính phủ “Tề” tại
miền Bắc và miền Trung. Ngày 19/5/1947, Y sĩ Trương Ðình Tri–nguyên Bộ trưởng Y
tế trong chính phủ Liên Hiệp 2/3/1946 của Hồ–được cử làm Chủ tịch Hội Ðồng An
Dân Bắc Việt. Tại miền Trung, Trần Văn Lý cầm đầu Ủy ban Chấp Chính Lâm Thời
Trung Kỳ. Nguyễn Khoa Toàn, Tỉnh trưởng Thừa Thiên từ năm 1946, nắm Hội đồng
Thẩm nghị [Tư vấn] Trung Kỳ. Tại miền Nam, mặc dù coi chính phủ Lê Văn Hoạch là
gánh nặng của mình, Bollaert biến hoá dần sản phẩm của nhóm Gaullist này. Ngày
19/5, Bollaert trả Dinh Thống Ðốc cho Hoạch. Ðồng thời, áp lực Hoạch cải tổ
chính phủ và tách biệt dần khỏi khuynh hướng tự trị.
Trong năm 1947 cũng có nhiều nỗ lực kết hợp các đảng
phái Việt Nam đang tập trung tại vùng “Tề.” Ngày 17/2, Mặt Trận Quốc Gia Thống
Nhứt Toàn Quốc (Front d'Union Nationale du Viet-Nam, hay MTQGTNTQ)–hậu thân của
Mặt Trận Thống Nhứt Toàn Dân–chính thức thành lập, qui tụ các đảng viên Việt
Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội
Ðảng, Việt Nam Quốc Gia Ðộc Lập Ðảng, Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Ðoàn, Cao
Ðài, Ðoàn Thể Dân chúng, và Liên Ðoàn Công Giáo.( 67) Ngày 29/3, MTQGTNTQ ra
Tuyên Cáo tại Hong Kong. Theo tuyên cáo này, mục tiêu của Mặt trận là thống
nhất tất cả các tổ chức cách mạng, đảng phái chính trị, đoàn thể tôn giáo và xã
hội để đấu tranh giành độc lập và thống nhất lãnh thổ, củng cố chế độ cộng hoà,
dân chủ, hợp tác toàn diện với tất cả các quốc gia trên thế giới trên căn bản
công bằng và tự do để vãn hồi trật tự thế giới. Về những biến cố ở Việt Nam,
Mặt Trận khẳng định cuộc kháng chiến hơn một năm qua không phải là công trình
của một đảng phái chính trị nào, mà là của toàn dân Việt. Mặt Trận cũng khẳng
định chính phủ Hồ không còn được nhân dân tin tưởng và đã mất vị thế trong thế
giới trong công cuộc tranh đấu dành độc lập. Bởi vậy, Mặt Trận ủng hộ cựu hoàng
Bảo Ðại Nguyễn Vĩnh Thụy để thành lập một chính phủ dân chủ thực sự.( 68) Thế
chống Cộng của các phe nhóm được tăng hơn nữa sau khi Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ
(1917-1947) của đạo Hoà Hảo bị Việt Minh sát hại ngày 20/4/1947.
Tại miền Bắc, nhóm Ðặng Vũ Lạc (1902-1948), Lê Thăng
(1901-1987?), Ðỗ Văn Năng (1915-1950) bắt đầu qui tụ các đảng viên Ðại Việt và
VNQDÐ, thành lập Ðại Việt Quốc Dân Ðảng hay Tân Ðại Việt. Nhượng Tống Hoàng
Phạm Trân cùng Ngô Thúc Ðịch và một số người khác tái tổ chức VNQDÐ.
Tại miền Trung, VNQDÐ và Ðại Việt tái xây dựng tại
vùng Tề. Tổ chức Ðại Việt Phục Hưng của Diệm cũng hoạt động trở lại. Do Nguyễn
Khoa Toàn đề xướng, Trần Văn Lý và Trần Thanh Ðạt lập nên Việt Nam Quốc Gia
Liên Hiệp làm cánh tay chính trị. Một nhân vật đang lên khác tại miền Trung là
Phan Văn Giáo (1901-1963?). Giáo, một Dược sĩ Ki-tô gốc Ninh Hoà từng nổi danh
là cây vợt tennis tên tuổi, bị Việt Minh bắt giữ vào tháng 8/1945 vì liên hệ
với VNQDÐ, và lên án 6 năm khổ sai, tịch biên gia sản vào tháng 2/1946. Thoát
ra Hà Nội tháng 11/1946, Giáo qua Hong Kong với Bảo Ðại. Tháng 3/1947, được Bảo
Ðại ủy về nước vận động thành lập chế độ quân chủ lập hiến.
Tại miền Nam, các phe nhóm tự trị thay đổi lập
trường, tuyên bố không chống đối việc thống nhất, miễn mỗi xứ vẫn có tự trị về
kinh tế và chính trị. Những nhóm chống Cộng khác tổ chức biểu tình khắp nơi.
Ngày 12/8, Huế biểu tình yêu cầu Bảo Ðại về nước chấp chánh. Ngày 1/9 và rồi
14/9, biểu tình được tổ chức ở Sài Gòn.
Các viên chức vùng Tề khắp ba miền cũng tới tấp đi
lại giữa Việt Nam và Hong Kong để “van xin” Bảo Ðại đứng ra nhận trách nhiệm.
Có những nỗ lực liên hiệp giữa Lê Văn Hoạch và MTQGTNTQ của Nguyễn Văn Sâm, sau
khi Hộ Pháp Tắc tuyên bố ủng hộ tổ chức này ngày 16/8. Ðiều kiện của Sâm là ghế
Bộ trưởng Nội Vụ hoặc Quốc Phòng. Sau đó, MTQGTNTQ ủy Hoạch tiếp xúc Bảo Ðại để
cầm đầu phong trào quốc gia và thống nhất đất nước. Ngày 5/9, Bảo Ðại tuyên bố
muốn tiếp xúc với các lãnh tụ VN để bàn luận thời sự. Cùng ngày, dù không được
mời, Sâm qua Hong Kong gặp Bảo Ðại.
Ngày 9/9, Bảo Ðại tiếp kiến 24 đại diện ba miền.
Trong số những đại diện này có Nguyễn Văn Tâm, Bộ trưởng Quốc Phòng của chính
phủ Hoạch. Bảo Ðại tuyên bố sẽ đứng ra hoà giải các phe phái sau khi đã thương
lượng với Pháp.( 69)
Giới giáo dân Ki-tô cũng âm thầm yểm trợ thí nghiệm
Bảo Ðại. Từ đầu năm 1947, Giám mục Từ đã cho một số các chính khách chống Cộng
vào ẩn náu tại Phát Diệm mà Hồ cho hưởng đặc ân tự trị. Vợ chồng Ngô Ðình Nhu
và Trần Văn Chương cũng một thời tá túc tại đây, trước khi bí mật vào Nam, rồi
cư ngụ ở Ðà Lạt. Các chi nhánh Ðại Việt Duy Dân, VNQDÐ và Ðại Việt cũng bắt đầu
được tái sinh. Trong khi đó, Từ mượn những chuyến thăm viếng giáo dân với danh
nghĩa vận động kháng chiến chống Pháp để tuyên truyền nhu cầu một cuộc thánh
chiến chống Cộng. Tại giáo phận Vĩnh Long, Giám mục Thục cắt dần liên hệ với
Việt Minh. Nhưng nhiệt tình chống Cộng hơn cả là các giáo mục tại vùng Bến Tre
và Mỹ Tho. Họ công khai yểm trợ các đơn vị lưu động bảo vệ giáo xứ [UMDC] của
Trung úy Jean Léon Leroy, thủ diễn vai trò “chính trị viên” cho các binh sĩ
thêu trước ngực hình thập tự giá. Tại các vùng Pháp mới tái lập kiểm soát như
Kẻ Sặt (Hải Dương), Quảng Bình, Quảng Trị, Kontum, v.. v... nhiều đơn vị tự vệ
của giáo dân Ki-tô cũng được tổ chức để chống Cộng. Pháp còn sử dụng các giáo
sĩ Ki-tô để móc nối với những cộng đồng giáo dân tại các giáo phận Việt Minh
kiểm soát. Khâm sứ Drapier không những ban phép lành cho phong trào thánh chiến
này mà còn đẩy mạnh hơn vai trò Diệm và họ Ngô trong thí nghiệm Bảo Ðại.( 70)
Mặc dù có kẻ thù chung là Cộng Sản, các tổ chức
chính trị và giáo phái không đạt được sự đoàn kết cần thiết. Màu sắc tôn giáo,
địa phương chi phối nặng nề, khiến phần đông hữu danh vô thực. Nguy hiểm nhất
là tệ nạn sứ quân.
Dĩ nhiên, phe Việt Minh không chịu bó tay. Ðài phát
thanh Việt Minh không ngừng đả kích những tên “Việt Gian” đang âm mưu lập nên
một “chính phủ bù nhìn tay sai” chống lại chính phủ hợp pháp VNDCCH. Tại miền
Nam, Nguyễn Bình (Nguyễn Phương Thảo) phát động chiến dịch khủng bố và ám sát.
Ðã có lúc, Việt Minh nghĩ đến việc gửi Phạm Khắc Hoè sang Hong Kong thuyết phục
Bảo Ðại. Và, khi công bố chính phủ đổi mới vào tháng 7/1947, Hồ vẫn liệt kê Bảo
Ðại như cố vấn tối cao.
Theo đúng kịch bản, ngày 10/9/1947, Bollaert đọc
diễn văn lần thứ hai tại Hà Ðông. Trong diễn văn này, Bollaert đưa ra khẩu hiệu
mới là “Ðộc lập trong tương trợ [L'Indépendance dans l'interdépendance].” Mục
đích chính không phải là hứa hẹn sẽ trao độc lập cho Việt Nam mà chỉ thỏa mãn
đòi hỏi của người Việt bằng cách tạo một tiền lệ nhắc đến hai chữ “độc lập”–từ
năm 1945, Pháp chưa hề nhắc đến hai chữ “quốc cấm” này, và chỉ có cặp
Ramadier-Bollaert mới không sợ hãi chúng. Việc này sẽ chứng tỏ tinh thần “cấp
tiến” của Paris.( 71)
Những đề nghị của Bollaert cũng được cân nhắc sao
cho Hồ không thể chấp nhận được; và như thế, tạo lý do chính đáng để phát động
chiến dịch mùa khô 1947 sắp tới nhằm cắt đứt trục tiếp vận của Việt Minh từ Hoa
Nam, tiêu diệt lực lượng võ trang Việt Minh, và bắt sống Hồ cùng những cán bộ
lãnh đạo.( 72)
Diễn văn của Bollaert cũng mở cửa cho Bảo Ðại. Mặc
dù chẳng trọng vọng gì cựu hoàng, Pháp miễn cưỡng chấp nhận cho Bảo Ðại về nước
cầm đầu một chính phủ thống nhất chống Cộng. Bollaert hy vọng rằng việc đả bại
Việt Minh sẽ khiến Bảo Ðại bớt cứng rắn trong những điều kiện hợp tác.( 73)
Ngày 18/9–tức 4 ngày sau cuộc biểu tình rầm rộ ở Sài
Gòn mời Bảo Ðại về nước–Bảo Ðại ra tuyên cáo chấp nhận sự ủy thác của quốc dân
và sẵn sàng thương thuyết. Ngày 20/9, cựu hoàng nói sẵn sàng gặp đại diện Pháp
ở Hong Kong hay Ðông Dương. Theo Giám đốc Mật Thám Ðông Dương, Perrier, nói với
Lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn ngày 22/9, Bảo Ðại đã đồng ý thương thuyết, nhưng tạm trì
hoãn để khỏi mang tiếng do Pháp dựng lên. Pháp chẳng kỳ vọng gì ở Bảo Ðại, chỉ
mong Bảo Ðại sẽ có một số người ủng hộ. Sợ rằng Bảo Ðại khó lôi kéo số lớn
người quốc gia trong hàng ngũ Hồ. Vậy mà Bảo Ðại đòi hỏi độc lập rộng rãi hơn
những gì Bollaert đã hứa.( 74)
Ngày 29/9/1947, Hoạch từ chức. Hai ngày sau, 1/10,
Xuân–mới từ Pháp về ngày 15/9–được Hội Ðồng Tư Vấn Nam kỳ ủy thác lập chính phủ
lâm thời. Một tuần sau, Xuân công bố danh sách chính phủ Lâm thời Nam Phần.(
75)
Ðây là bước chủ yếu để trao quyền thống nhất lãnh
thổ cho Bảo Ðại.
(Còn tiếp)
Chính
Ðạo
[Trích: Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng]
Phụ
chú:
Jean
Baptiste Ngô Ðình Diệm:
1. Department of Defense, US-Vietnam Relations,
1945-1967, 12 books, (Washington, DC: GOP, 1971), Bk 11, tr. 36-41. Xem thêm
chú 3 infra.
2. Xem, chẳng hạn, Bernard B. Fall, The Two
Vietnams: A Political and Military Analysis (New York: Praeger, 1965), tr.
235ff. Fall ghi nhận Khả là "Thượỳng thư Bộ Lễ" sau khi từ chức đã
cắt mọi liên lạc "với những kẻ xâm lăng đáng ghét," "ủng hộ Phan
Bội Châu," và truyền xuống cho các con như Khôi và Diệm một tinh thần quốc
gia nồng nhiệt;" Ibid., tr. 235. Fall, một học giả gốc Pháp viết khá nhiều
về Việt Nam và chết tại Việt Nam, nhận định: "Sự kiện Bảo Ðại là người kế
thừa của các hoàng đế yếu ớt trong việc chống lại Pháp cũng có thể gây ra sự
khinh thường ông ta trong Diệm" [The fact that Bao Dai was the descendant
of emperors who had been weak in their resistance to the French may also
account for Diem’s contempt for him]; Ibid., tr. 475n3. Một lời võ đoán dễ hiểu
trong thập niên 1950-1960. Thực ra, từ thời Ðồng Khánh (1885-1889), các vua nhà
Nguyễn do Khâm sứ và Toàn quyền Pháp lập nên, và chỉ còn công dụng của
"một vòng hoa," để hợp thức hóa chế độ "Bảo hộ" Pháp. Quan
lại thì được tuyển từ giới trung gian bản xứ mà đa số là giáo dân Ki-tô hay cựu
bồi bếp của viên chức, sĩ quan Pháp. Thành phần "tân trào" này hiểu
rất rõ vị thế "làm kiểng" của các vua Nguyễn. Ngoài ra, Khả còn có
liên hệ thân thiết với phòng Thành Thái (1889-1907), và từng nuôi tham vọng
biến Thành Thái thành một vua theo Ki-tô giáo đầu tiên. Sự khinh thường phòng
Khải Ðịnh (1916-1925) và Bảo Ðại (1926-1945) là điều dễ hiểu. Xem Vũ Ngự Chiêu,
Các vua cuối nhà Nguyễn, 1883-1945, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 1999-2000). [Sẽ
dẫn: Các vua cuối] Ngoài ra, Diệm không ưa Bảo Ðại vì đã hai lần ký Dụ đầy Diệm
ra Quảng Bình. Xem chú 18 infra.
3. Department of State, Office of Libraries and
Intelligence Acquisitions, "Biographic Report: Ngo Dinh Diem, President of
the Republic of Vietnam, To Visit Washington [May 8-10, 1957]," BR No. 203
(April 18, 1957); Richard Nixon Library (Yorba Linda, CA), Prepresidential
Papers, PPS 320.99.33.1-2. [Sẽ dẫn, Ngo Dinh Diem (1957)]
4. Direction des Services FrancỄais de Securité en
Indochine [DSFSI], "M. Jean Baptiste Ngo Dinh Diem, dit Nguyen Ba
Chinh;" SHAT (Vincennes), Indochine, [10H 4195]. Tài liệu này hiện vẫn
chưa giải mật. Xem phóng ảnh trong Nguyên Vũ, Paris Xuân 96 (Houston: Văn Hóa,
1997), tr. 165; Chính Ðạo, Cuộc thánh chiến chống Cộng (Houston: Văn Hóa,
2004), tr. 15-16. Những chi tiết không có phụ chú trong bài này đều trích dẫn
từ tài liệu trên. Xem thêm Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], tập III: Nhân
vật chí, tái bản có bổ sung (Houston: Văn Hóa, 1997), tr. 262. Sẽ dẫn: Nhân vật
chí, 1997.
5. Tình báo Mỹ ghi Diệm sinh trong mộỳt gia đình đã
theo đạo Ki-tô từ thế kỷ 17 và nhiều thế hệ đã sản xuất ra những bậc tu hành và
quan chức nổi danh. Cha là Thượng thư bộ Lễ và Lord Chamberlain cho vua Thành
Thái, từng du học ở Malaya; Ngo Dinh Diem (1957) [Giốạng tài liệu của Fall
& Sharplen]]
6. Theo Lansdale, Diệm "đã cắt bỏ mối tình với
người yêu đầu đời để dâng hiến cho tổ quốc" nên 60 tuổi vẫn còn độc thân.
Xem chú 1 supra. Nhưng nhiều người đương thời, như Tướng Trần Văn Ðôn André,
cho rằng Diệm thiếu khả năng tình dục.
7. Xem Ngô Ðình Diệm, "L’Encrier de S. M.
Tu-Duc: Traduction des Inscriptions [Nghiên mực của vua Tự Ðức: Bản dịch những
chữ khắc];" Bulletin des Amis du Vieux Hue [BAVH], Bộ IV, số 3 (Tháng 7-9/1917),
tr. 209.
8. Phỏng vấn ngày 2/11/1985 tại Paris; Ngô Ðình
Diệm, "L’Ambassade de Phan Thanh Gian (1863-1864);" BAVH, Bộ VI, Số
1bis và 2 (Avril-Juin 1919), tr. 161. Ở đầu bài, Diệm được giới thiệu là
"học sinh trường Hậu bổ," và bài này đã được đọc tại các buổi họp
[hôi thảo] ngày 27/8 và 3/12/1918, và 4/3/1919. Ibid. Diệm chỉ dịch một phần
tập tâu của Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứ, dưới sự hướng dẫn của Nguyễn Ðình
Hòe. Phần còn lại (thiếu đoạn đi sứ Espania) do Trần Công Tạn dịch; BAVH
(1921), tr. 147-187.Tác giả đa tạ ông Nguyễn Ðắc Xuân đã cung cấp phóng ảnh bài
viết này của Ngô Ðình Diệm.
9. Xem báo cáo về cuộc đàm thoại ngày 28/4/1955 giữa
Bảo Ðại với William Gibson, Ðệ nhất thư ký Tòa Ðại sứ Mỹ; FRUS, 1955-1957,
I:332-336; Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-C: 1955-1963
(Houston, TX: Văn Hóa, 2002), tr. 54-55.
10. Nguyên văn: "A year after his decision to
give up becoming a priest. Diem falsified his age and took competitive
examinations for the equivalent of a highschool diploma;" Robert Sharplen,
The Lost Revolution (New York: Harper & Row, 1966), pp. 106-107.
11. Xem tiểu sử Thục trong CAOM (Aix), GGI, CP 125;
Chính Ðạo, Nhân vật chí, 1997:312; Idem., Cuộc thánh chiến chống Cộng
(Houston: Văn Hóa, 2004), tr. 464-465. Tại Việt Nam, tưởng cũng nên ghi
nhận, có tục lấy tên "mẹ già," tức vợ chính thức, để khai sinh cho
các con ngoại hôn hoặc thê thiếp.
12. Xem Chính Ðạo, VNNB, Tập I-C: 1955-1963, tr.
110.
13. [After being instructed at home and attending
the Pellerin school in Hue, he studied briefly for the priesthood]. Ngo Dinh
Diem (1957)] Năm 1957, an ninh Mỹ chỉ ghi Diệm là "a devout
Catholic."
14. Theo Bernard Fall, niềm tin tôn giáo của Diệm là
một loại hiếu chiến tàn bạo của một Quan tòa Dị giáo [ruthless militancy of the
Grand Inquisitor]. Khi một người Pháp nói "tín ngưỡng chung của chúng
ta," Diệm thản nhiên trả lời: "Tôi tự cho tôi là một tín đồ Ki-tô
Spain [Tây Ban Nha]," tức cuồng đạo hơn là hòa hoãn theo kiểu Ki-tô Pháp;
Two Vietnams, 1965:236.
15. Xem Chính Ðạo, Hồ Chí Minh (1892-1969), Con
người & Huyền thoại, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 1993-1997), tập I:161-162;
Phụ bản 5, trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, 1883-1945, tập II:602-604. Trần
Trọng Kim, trong Việt Nam Sử Lược, đã dẫn lời "một đại quan về hưu"
để bài bác chi tiết trộn tro than Ngự sử Phùng bắn xuống sông Lam. "Ðại
quan về hưu" này chắc không thể biết rõ sự việc bằng Khâm sứ Huế, người
viết báo cáo vào tháng 2/1896, hay báo cáo của chính Nguyễn Thân. Ðó là chưa
nói đến thói quen chối tội của các phạm nhân chiến tranh [war criminals], hoặc
âm mưu ngụy tạo lịch sử để bảo vệ cho thượng cấp và đồng đạo (kiểu "Việt
Cộng ném lựu đạn trước đài phát thanh Huế tối ngày 8/5/1963," "nhân
viên an ninh Mỹ ném mìn plastic tối 8/5/1963," "toàn dân Việt Nam ghi
ơn Ngô Tổng thống"). Xem, Vũ Ngự Chiêu, "Vài Ý Nghĩ Về Thượng Tọa
Thích Quảng Ðức;" Ði Tới (Montréal, Québec), XII, số 83 (7-9/2005), tr.
4047; Hợp Lưu (Santa Ana, CA), số 84 (8/2005), tr. 194-206. Ðáng tiếc vì không
được huấn luyện về phương pháp nghiên cứu và viết sử, lại không có tư liệu,
Trần Trọng Kim khiến tập phổ thông lược sử của ông chứa nhiều dữ kiện và nhận
định lầm lạc.
16. Có tài liệu ghi Khả là Chưởng giáo đầu tiên của
trường Quốc Học; E. Le Bris, "Le Quoc Hoc;" BAVH (1916), số 1, tr.
80. Ðây có lẽ dựa theo Dụ năm 1896 của Thành Thái, nhưng Toàn quyền Pháp không
chấp thuận. Giám đốc trường này là một người Pháp. Về chức "Thượng
thư" của Khả, chúng tôi chưa thấy một tài liệu nào. Trong bài "Une
ascension sur l’écran du roi: Poésie de S. M. Tu Duc, traduite par Ngô Ðình
Khả, Ministre honoraire; BAVH, số 2 (4-6/1916), tr. 223-227–bản dịch một bài
thơ nói về chuyến du ngoạn của vua Tự Ðức–Ngô Ðình Khả chỉ ghi "hàm Thượng
thư," khác xa với chức Thượng thư thực sự, nói chi "Thượng thư đầu
triều." Trần Lục, hay cha Sáu [Père Six] ở Phát Diệm, một tay chân tín cẩn
của Giám mục Puginier, cũng được thưởng hàm Thượng thư và Bắc đẩu Bội tinh.
17. Lời chứng của Nguyễn Thi, cựu Ủy viên Hành Kháng
tỉnh Ninh Thuận, trên báo Nhân Dân ngày 16/7/1954, dẫn trong Trần Văn Giàu,
Miền Nam giữ vững thành đồng, 5 tập (Hà Nội: NXB Khoa Học, 1964-1978), tập I
(1964), tr. 36. Hai tác giả khác ghi là việc Diệm dùng đèn cầy đốt hậu môn tù
nhân CS khi làm Tri phủ Hòa Ða; Nguyệt Ðàm và Thần Phong, Chín năm máu lửa dưới
chế độ gia đình trị Ngô Ðình Diệm (Sài Gòn: 1964), tr. 18. Theo hai tác giả
này, nhân chứng là Cử nhân Nguyễn Trác, cựu Nghị viên trưởng An Nam. Xem thêm,
Bùi Nhung, Thối nát (Sài Gòn: 1969); Hoàng Trọng Miên, Ðệ nhất phu nhân (Los
Alamitos, CA: 1989), I:128-129. Theo tài liệu Bộ Ngoại Giao Mỹ, Diệm tốt nghiệp
thủ khoa năm 1921; năm 1929 đã làm quan đầu tỉnh. Khi ở Quảng Trị năm 1930-
1931, Diệm dùng những thủ đoạn nghiêm khắc để đàn áp, v.. v... ["From 1922
to 1929 he was a district chief in the territorial administration of Annam and
during the next four years he served as a province chief. While in Quang Tri
province during the 1930-1931 Communist-led insurrections he used drastic
methods in repressing agitators and revolutionaries, thus incurring the enmity
of left-wing nationalists. In 1932-1933 he headed a commission to investigate
charges of corruption in the upper echelons of the Annamese
administration;" Ngo Dinh Diem (1957) [p.5]].
18. Thư Ngô Ðình Thục gửi Decoux ngày 21/8/1944;
CAOM (Aix), PA 14, c. 2. Thư này do tác giả công bố lần đầu trong Luận án Tiến
sĩ tại Ðại học Wisconsin-Madison năm 1984, rồi trên báo Lên Ðường (Houston) năm
1989; in lại trong Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-A:
1939-1946, tr. 200. Vài cá nhân đặt nghi vấn là Pháp ngụy tạo tài liệu trên.
Nghi vấn này do sự thiếu hiểu biết về phương pháp bảo quản tài liệu văn khố.
Hơn nữa thủ bút và chữ ký của Thục khó thể giả mạo. Tưởng cũng nên ghi thêm
rằng một vài cá nhân (như Lê Trọng Văn, Bùi Kha) đã tự động tẩy xóa bút phê của
Decoux cũng như ghi chú của nhân viên văn phòng Toàn quyền và dấu cùng chữ ký
thị thực của Văn khố Aix-en Provence Pháp trên phóng ảnh tài liệu trên, in vào
sách họ.
19. Nguyên văn: "FrancỄais ne veulent pas de
nous, parce que nous sommes trop entiers, à fortiori Japonais qui préfèraient
souplesse PHAM QUYNH dont ils vantent talent." Báo cáo số 1806, A,B,C,D
ngày 18/8/1944, Surete gửi DirSurGe; CAOM (Aix), 14 PA, c.2, d.19; trích đăng
trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:856.
19bís. Thư Ngô Ðình Thục gửi Decoux ngày 21/8/1944;
CAOM (Aix), PA 14, c. 2.
20. Xem chi tiết trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối,
III:1111-1145.
21. Nói rộng hơn, nhóm Sarraut-Pasquier áp dụng
chính sách "hợp tác" [collaboration]. Giữa thập niên 1920, Pasquier
còn chiêu hồi những thành phần chống Pháp như Phan Bội Châu và sử dụng các văn
thân từng bị dính líu vào phong trào chống sưu thuế 1908 tại miền Trung. Huỳnh
Thúc Kháng, chẳng hạn, được cử làm Chủ tịch Hội đồng Dân cử Trung Kỳ, và xuất
bản tò Tiếng Dân bằng quốc ngữ để quảng bá chủ trương "thờ người Pháp để
cầu tiến bộ."( TTLTQG 2 (TP/HCM), RSA/HC, HS 1869.
22. "Ngôi sao" thứ hai của Pasquier là Bùi
Bằng Ðoàn (1890-1955), từ Tuần phủ lên chứÔc Thượng thư Bộ Hình. Ngày 6/5/1933,
năm tân Thượng thư mới có mặt đầy đủ tại Huế nhân dịp gắn huy chương cho Bài và
4 ngườợi khác. Ngày 17/5, Thibaudeau chủ tọa phiên họp Hội đồng Nội các đầu
tiên. Mười ngày sau, 27/5, tân Nội các họp dưới sự chủ tọa của Bảo Ðại và
Pasquier. Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập III:793, 1111-1129 (Phụ bản bài
tường thuật trên báo Nam Phong số 184 (5/1933). Ðoàn sau này hợp tác với Hồ Chí
Minh.
23. Theo Tổng Lãnh sự Hong kong, Diệm tuyên bố là
bạn lâu đời của Bảo Ðại, đã phục vụ như "Tể tướng" những năm cũ, và
hai gia đình có liên hệ gần gũi [Ngo Dinh Giem [Diem] claimed that he was an
old friend of Bao Dai, had served as his Prime Minister in former years, and
that their families enjoyed close relations"]; CÐ 450, 30/12/1947,
Hongkong gửi BNG; FRUS, 1947, VI:153. Việc tự đánh bóng để "bán mình"
[sell yourself] cho Mỹ này không được tài liệu văn khố Pháp chứng minh. Thực
tế, Diệm, như đã lược nhắc, chỉ được đặc cách lên hàng Thượng thư Bộ Lại, mà
phận sự và quyền lợi đồng đều với bốn bộ khác, và năm 1935, chỉ được Bảo Ðại
cho lại chức Thượng thư hàm. Xem chú 21 infra.
24. Báo cáo ngày 10/5/1933, Pasquier gửi Colonies;
CAOM [Aix], INF, c.366/d.2905; trích in trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập
III:785-809, 1111-1145. Xem Phụ bản báo Tiếng Dân trong sách này.
25. Báo cáo số 303-A.P., 22/7/1933, Gougal gửi
Colonies; CAOM (Aix), INF, c.366/d.2905; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối,
III:804-806.
26. Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:806-807. Gần ba
chục năm sau, Diệm tuyên bố với một viên chức Mỹ rằng sở dĩ Diệm từ chức, ngoài
tinh thần chống thực dân, còn vì không đồng ý với chính sách "chống
Cộng" của Pháp. Theo Diệm, Cộng Sản là sản phẩm của các chính phủ tả phái
Pháp. Xem Memorandum of a Conversation, Saigon, Jan 16, 1962; FRUS, 1961-1963,
II:41-42. Nội dung buổi nói chuyện này chứng tỏ Diệm, dù tự nhận đã nghiên cứu
về Cộng Sản từ năm 1922 qua các tài liệu Switzerland, chẳng biết gì vai trò của
địa bàn Trung Hoa cùng hoạt động của DALBURO Liên Sô Nga ở Vladivostok, Thượng
Hải hay Hong Kong. Ngoài ra, Diệm có vẻ "rất linh động và sáng tạo"
trong việc diễn giải thành tích dĩ vãng của mình. Năm 1963, Ðại sứ Henry Cabot
Lodge đi đến kết luận, không hẳn đã chủ quan, rằng Diệm và họ Ngô thuộc loại
"dối trá và tội phạm" (liars and criminals); Ibid., IV:tài liệu 69
(deception, IV:127),77 (medival view of life; IV:143), 221.
27. CAOM (Aix), INF, c.366/d.2905; Vũ Ngự Chiêu, Các
vua cuối, III:808.
28. Năm 1934, Thục cũng tìm cách đả kích Bảo Ðại
bằng cách áp dụng "giáo luật" vào đám cưới của Bảo Ðại với Nam Phương
hoàng hậu (tức bắt Bảo Ðại phải "rửa tội" trước khi làm đám cưới).
Pháp giải quyết bằng cách cho một linh mục Pháp cử hành lễ cưới trong bí mật.
29. Note số 2995-SP/C, Huế, 4/4/43; CAOM (Aix), 14
PA, c.1. Ít tháng sau, do sự dàn xếp của Thân Thị Nam Trân (1905-1986), vợ Luật
sư Trần Văn Chương (1898-1986), Nhu khiến gia đình Nguyễn Liên phải hủy bỏ cuộc
đính hôn để Nhu kết hôn với Lệ Xuân, con gái thứ hai của Nam Trân và Chương,
thua Nhu tới 14 tuổi.
30. Mối hiềm khích, nếu không phải hận thù, giữa họ
Ngô và Phạm Quỳnh, là điều bất cứ giới chức quan lại nào ở Huế đều rõ. Các viên
chức Pháp quyết định không ngả theo phe nào, theo đúng chủ trương chia để trị.
Theo an ninh Pháp, "những phần tử trong họ Ngô, đặc biệt là Khôi, nuôi
dưỡng lòng hận thù ngày một sâu đậm đối với Phạm Quỳnh người đã thụ hưởng nhiều
lợi lộc nhất trong ‘cuộc đảo chính ngày 2/5/1933.’ Từ một nhà báo, Quỳnh đã trở
thành Thượng thư Bộ Quốc Dân Giáo Dục, rồi thăng lên chức Tổng lý khá nhanh,
nắm giữ tước cao nhất của hệ thống quan lại (Tứ trụ triều đình) năm 1944. Từ từ
theo sự thăng tiến về danh vọng của Phạm Quỳnh, hận thù giữa họ Ngô với Phạm
Quỳnh càng gia tăng . . . .;" "M. Jean Baptiste Ngo Dinh Diem, dit
Nguyen Ba Chinh," tr. 2; SHAT (Vincennes), 10H 4195. Xem thêm chi tiết
trong Vũ Ngự Chiêu, "Social and Cultural Change in Vietnam Between 1940
and 1946," Ph.D. dissertation, December 1984, Univ. of Wisconsin-Madison,
Part I, chapters 3, 4 & 6. Báo Tiếng Dân trong tháng 5/1933 cũng có bài xa
gần nhắc nhủ "những người được cái của người khác đừng nên vội mừng"
(có lẽ ám chỉ Phạm Quỳnh) và kết luận rằng mọi việc đều do Pháp chủ xướng.
Huỳnh Thúc Kháng, tưởng nên nhấn mạnh, cùng chủ trương "thờ người Pháp làm
bậc thầy để cầu tiến bộ" như Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, v.. v...
31. CAOM (Aix), GGI, 7F 29, tr. 56. Matsushita [Tùng
Hạ] đã tới Ðông Dương từ thập niên 1920. Năm 1938, bị trục xuất; nhưng trở lại
Sài Gòn từ năm 1941. Matsushita thường tuyên bố là bạn thân và đại diện của
Cường Ðể.
32. Xem chú 13 supra. Anh em Diệm, thường rất thích
"thề trên thập tự giá" nhưng ít khi giữ những lời thề này, kể cả lời
thề "trung thành" với Bảo Ðại trước khi về làm Thủ tướng toàn quyền
dân và quân sự vào tháng 6/1954. Xem infra.
33. Thời gian này, Decoux như ngồi trên lửa. Một
mặt, phe Gaullist tăng gia hoạt động "kháng Nhật," và Paris hoàn toàn
im lặng trước nỗ lực xin qui phục của Decous. Mặt khác, Decoux đang đối diện
mối hiểm họa sẽ bị Nhật tước đoạt quyền lực. Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối,
III: 858-862.
34. Nguyễn Xuân Chữ, Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ
(Houston: Văn Hóa, 1996), tr. 243-249.
35. Vũ Ngự Chiêu, The Other Side of the 1945 Vietnamese
Revolution: The Empire of Vietnam (4-8/1945) / Phía bên kia cuộc cách mạng
1945: Ðế Quốc Việt Nam (4-8/1945) (Houston: Văn Hóa, 1996). Bản Anh ngữ tập
sách nhỏ này, trích ra từ luận án năm 1984, đã in trong Journal of Asian
Studies vào tháng 2/1986; Bảo Ðại, Le Dragon d’Annam (Paris: Plon, 1980), tr.
106. Mùa Thu 1945, Giám mục Thục cho rằng sở dĩ Diệm không nhận lời vì thấy chế
độ do Nhật lập nên khó tồn tại lâu dài; hơn nữa quanh Bảo Ðại có những thành
phần tả phái và franc-macỄon [tam điểm]. CAOM (Aix), GGI, CP 125. Lời chứng này
khó tin cậy. Mục đích của Thục là biện minh cho sự hợp tác với Nhật của Diệm,
một tội ác chiến tranh ở thời điểm này. Và có thể Thục cũng không biết đến,
hoặc tảng lờ quyết định của Tsuchihashi hay lời tuyên bố sẽ tống giam Cường Ðể
vào Côn đảo nếu Hoàng thân về nước. Nhân viên an ninh Pháp, năm 1954, cho rằng
Diệm từ chối lời mời lập chính phủ vì Nhật không chịu cho thống nhất ba miền
Bắc, Trung, Nam; SHAT (Vincennes), 10H 4195. Theo ký giả Sharplen, "Diem
refused, not because he objected to the Japanese but because he did not feel he
would be able to establish a free government–among other things, the
southernmost area of Cochin China was initially be excluded from it.
Furthermore, he now saw the handwriting on the wall and did not want to put
himself in the position of being declared a collaborator when the war was over.
He returned to Saigon and waited;" 1966:110.
Ngo Dinh Diem is thought to have spent a good deal
of time in Japan in the 1930’s, when he had many contacts with the exiled
nationalist Prince Cuong De. He returned to Vietnam before World War II broke
out. . . . Ngo Dinh Diem ( 1957)]
36. Cuối tháng 7, đầu tháng 8/1945, có những vận
động đón Cường Ðể hồi hương làm Cơ Mật viện trưởng cho Bảo Ðại, nhưng Cường Ðể
không về nước được vì chiến tranh chấm dứt đột ngột vào giữa tháng 8/1945.
37. Chủ tịch Ủy Ban Chính Trị Bắc Bộ bị bó buộc trao
chính quyền cho nhóm Nguyễn Khang-Nguyễn Quyết ngày 19/8/1945. Xem Chữ
1996:284-290. Tài liệu CS Việt Nam cho rằng đây là một cuộc "cách
mạng," nhưng chưa phải là "cách mạng vô sản." Xem những bài viết
trên Cờ Giải Phóng (Hà Nội) từ tháng 8 tới tháng 11/1945.
38. FRUS, 1952-1954, XIII:554.
39. FRUS, 1961-1963, II:42.
40. [In September 1945 he was arrested by the Viet
Minh and held until March 1946, being offered a cabinet post by Ho Chi Minh and
refusing it]; Ngo Dinh Diem ( 1957) [p.5]; Stanley Karnow, Vietnam: A History
(New York: Viking Press, 1983), tr. 216-217.
41. CAOM (Aix), GGI, CP 125; Nhân vật chí, 1997:313.
42. Vẫn theo Drapier, Nhu, lúc ấy đang làm việc tại
Hà Nội, không dám ra khỏi nhà vì sợ bị bắt cóc. Tại Huế cũng có tin Thục bị
Việt Minh bắt; CAOM (Aix), GGI, CP 125.
43. Giám mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm, 1945-1954 ,
tr. 117.
44. Trước đây, có tranh cãi về hai chữ "giải
pháp" [solution] và "thí nghiệm" [experiment]. Biến cố lịch sử
cho thấy lá bài Bảo Ðại không giải quyết được nhu cầu của phe chống Cộng, tức
tiêu diệt chế độ Hồ Chí Minh, nên không thể là một "giải pháp." Nó vẫn
nằm trong phạm trù một "thí nghiệm." Về cuộc tái xâm lăng của Pháp,
xem Vũ Ngự Chiêu, "Social and Cultural Change," Part III: "The
Brutality of World Politics" (1984); Georges Thierry d’Argenlieu,
Chronique d’Indochine (Paris: 1985); Général de Gaulle et l’Indochine (Paris:
1982).
45. Nguyên văn: "À mon avis, il serait
avantageux pour le calme de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9
mars." Ngày 28/12/1945, trong thư gửi một giáo sĩ Pháp, Drapier cho rằng
gia đình Bảo Ðại là "gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân Việt (la plus
francophile de tous les annamites); CAOM (Aix), CP 125.
46. Trần Trọng Kim, Kiến Văn Lục: Một Cơn Gió Bụi
(Sài Gòn: 1969), tr. 134ff. Sẽ dẫn: MCGB, 1969.
47. D’Argenlieu, Chronique, 1985:385-92.
48. Nguyên văn công điện số 2464/CI/142, ngày
23/1/1947, như sau: "Ne suis pas d'accord. Ne rien décider avant que
nouveau gouvernement ait formé directives;" d’Argenlieu, Chronique,
1985:387.
49. Số người chủ trương thương thuyết với Hồ chỉ có
Ðảng Cộng Sản Pháp và một số cá nhân như Léon Blum. Ngày 31/12/1946, trong phần
trích dịch dư luận báo chí ở Paris, L'Humanité đăng lại lời bình luận của Le
Parisien libéré [Người Paris Giải Phóng]: "Sẽ là một sự điên rồ khó tha
thứ khi mưu toan đặt lên một chính phủ bù nhìn nào đó sẵn sàng hợp tác với
chúng ta, nhưng không có nền tảng dân chúng. Một sự điên rồ mà trong tương lai
sẽ rất đắt giá cho chúng ta." (Nguyên văn: Ce serait une impardonable
folie que de susciter pour pouvoir comme partenaire, un quelconque gouvernement
fantoche prêt à la collaboration avec nous, mais sans fondement populaire. Une
folie qui dans l'avenir nous couterait fort cher).
50. Cầm đầu nhóm này là phe Gaullist. Xem infra.
51. Nguyên văn: "Chính trị với tôi đã hết. Dân
tộc tôi đã muốn dân chủ: tôi không có gì chống lại điều đó, bởi vì ngay từ đầu
tôi đã cộng tác với chính phủ mới.... Tôi rất kính trọng Chủ tịch Hồ Chí
Minh" [La politique est pour moi une chose morte. Mon peuple a voulu une
démocratie: je n'y ai fait aucune opposition, puisque j'ai même accepté, au début,
de collaborer avec le nouveau gouvernement.... J'ai beaucoup d'estime pour le
Président Ho Chi Minh....]; Combat (Paris), 15/10/1946; PA 28, Carton 7, d.
164; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:995-996.
52. SHAT (Vincennes), 10H 643.
53. AAN, 1946 [Séance du 20 décembre 1946]:196.
54. AAN, 1946, [2è Séance du 23/12/1946]:321.
55. AAN, 1947:882-883.
56. AAN, 1947:835.
57. AAN, 1947: 856, col 2.
58. Những tài liệu văn khố Nga và Trung Cộng mới
giải mật cho biết Hồ chỉ chính thức nối lại liên hệ với Liên Sô Nga từ tháng
2/1950. Nhưng Stalin giao cho Bắc Kinh cai quản Ðông Dương. Theo một viên chức
Trung Cộng, tối 16/2/1950, Stalin từ chối lời đề nghị của Hồ là Liên Sô và
VNDCCH ký Hiệp ước hữu nghị giống như Nga mới ký với Trung Cộng.
59. Blokov Ranh (1909-1952?), em trai Trần Phú
(1904-1931), Tổng thư ký đầu tiên của Ðảng CSÐD, từng theo học Ðại học Phương
Ðông [KUTV] Mat-scơ-va và một thời gian là "bạn đồng hành" của Nguyễn
Thị Vịnh (Minh Khai) (1910-1941) ở Trung Hoa; CAOM (Aix), SPCE, carton 367. Năm
1947, Ranh bị Pháp bắt giữ cùng Bourov Dương Bạch Mai (1904-1964), nhưng phải
trả tự do vì áp lực của Ðảng Xã Hội và báo Figaro; AAN, 1947, 833; Ibid., 1949,
II:1509. Năm 1949 Ranh qua Tiệp Khắc, sau bị khai trừ khỏi Ðảng CSÐD, khi tái
lập Ðảng Lao Ðộng Việt Nam năm 1951 (cùng Lê Hy); Hoàng Văn Hoan, Giọt nước
trong biển cả (Bắc Kinh: 1987), tr. 319-321.
60. CÐ số 1313, 27/3/1947, Caffery gửi BNG; FRUS,
1947, VI:81-82.
61. CÐ số 154, 7/5/1947, O’Sullivan gửi BNG; FRUS,
1947, VIII:94-95. De Pereyra, tưởng nên thêm, chủ trương thí nghiệm Bảo Ðại.
Nhưng từ năm 1950, de Pereyra hết hy vọng ở thí nghiệm chống Cộng này.
62. CÐ 289, 17/4/1947, Bangkok gửi BNG; FRUS, 1947,
VI:87-88; CÐ 361, 7/5/1947, Bangkok gửi BNG; Ibid., VI:92-93.
63. Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây (Hà
Nội: NXB QÐND, 2001), tr. ; CÐ 145, 7/5/1947, Bangkok gửi BNG; FRUS, 1947,
VI:93-94.
64. Thành phần chính phủ thứ tư của VNDCCH như sau:
Chủ tịch: Hồ Chí Minh; Cố vấn: Vĩnh Thụy; Ngoại Giao: Hoàng Minh Giám; Quốc
phòng: Tạ Quang Bửu; Tài chính: Lê Văn Hiến; Tư pháp: Vũ Ðình Hoè; Kinh tế:
Phan Anh; Canh Nông: Ngô Tấn Nhơn(?);Y tế: Hoàng Tích Tri; Lao động: Nguyễn Văn
Tạo; Cứu tế, Xã hội: Chu Bá Phượng (?);Giáo dục: Nguyễn Văn Huyên; Cựu chiến
binh: Vũ Ðình Tụng (Y sĩ, Ki-tô); Trong hàng Thứ trưởng, có: Trần Duy Hưng (Nội
vụ), Trần Văn Bính (Tài chính), Trần Công Tường (Tư Pháp), Nghiêm Xuân Yêm
(Canh Nông), Tôn Thất Tùng (Y tế), Nguyễn Khánh Toàn (Giáo dục), Ngô Tử Hạ (Cựu
chiến binh); Cù Huy Cận (Kinh tế Nhà nước).
65. Ngày 28/12/1945, trong thư gửi một giáo sĩ Pháp,
Tổng Giám Mục Drapier cho rằng gia đình Bảo Ðại là "gia đình thân Pháp bậc
nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophile de tous les annamites), và
theo ý ông ta, nên cho Bảo Ðại lên ngôi như trước ngày 9/3 (À mon avis, il
serait avantageux pour le calme de rétablir le Roi comme chef régulier avant le
9 mars); CAOM (Aix), CP 125.
66. Ngày 2/2, Kim xuống tàu thủy từ Hong Kong về
Việt Nam. Tới Sài Gòn, Kim tạm trú trong nhà Luật sư Trịnh Ðình Thảo, cựu
Thượng thư Tư pháp trong chính phủ Kim (4-8/1945). Pignon và nhiều người khác,
gồm cả cựu Khâm sai miền Nam Nguyễn Văn Sâm, hay tới thăm viếng. Nhưng chỉ hơn
một tháng sau, d'Argenlieu bị Dân biểu Bollaert thay thế. Tân Cố vấn chính trị
Michel chỉ ghé thăm Kim một lần ngày 8/5/1947, rồi từ đó biệt tín. Nhóm Quảng
và Ðán cũng xa lánh dần Kim, làm việc cho những "sứ giả" mới của Bảo
Ðại như Phan Văn Giáo và Trần Văn Quế; Trần Trọng Kim 1969:161-169,171-174,178.
Theo Phạm Khắc Hoè, ngày 8/2/1947, Phan Huy Ðán và Ðinh Xuân Quảng đưa Hoè tới
gặp Trần Trọng Kim và Nguyễn Văn Sâm ở nhà Trịnh Ðình Thảo; Phạm Khắc Hoè 1987,
tr. 312-4.
67. CAOM (Aix), INF, c.138-139, d. 1245.
68. Ibid; FRUS, 1947, VI:133.
69. SHAT [Vincennes], 10H 643.
70. Ibid., 10H 252?. Xem thêm Quang Toản & Nguyễn
Hoài, Những hoạt động của bọn phản động đội lốt Thiên chúa giáo trong thời kỳ
kháng chiến (1945-1954) (Hà Nội: NXB Khoa Học, 1965), Chính Ðạo, Việt Nam Niên
Biểu, 1945-1975, tập II-A: Các tổ chức tôn giáo (đang in).
71. FRUS, 1947, VIII:133-134.
72. FRUS, 1947, VIII:138-139.
73 . FRUS, 1947, VIII:140-141.
74. FRUS, 1947, VI:139-40.
75. Chính phủ Nguyễn Văn Xuân ngày 8/10/1947 gồm có:
Thủ tướng: Xuân; Phó Thủ tướng: Trần Văn Hữu; Bộ trưởng [BT] Tư pháp: Nguyễn
Khắc Vệ; BT Công chính: Nguyễn Văn Tÿ; BT Canh Nông: Trần Thiện Vàng; BT Thông
tin: Nguyễn Phú Khai; Thứ trưởng Thông tin: Trần Văn Ân.
76. Vào cuối chiến dịch Léa, hơn 1,000 lính Pháp tử
trận, và khoảng 3,000 người bị thương. Võ Nguyên Giáp ghi rằng VM chỉ chết 260,
168 bị thương; Chiến đấu trong vòng vây, 3rd rev. ed (Hanoi: QDND, 2001), tr.
170 [138-180]; Lịch sử, 1986:169-70.
77. Am Consul, Hanoi, to State Dept, 9 Feb 1948,
851G.00/2-948, RG 59; Ronald H. Spector, United States Army in Vietnam, Advice
and Support: The Early Years, 1941-1960 (Washington, DC: Center for Military
History, United States Army, 1983), tr. 90.
78. Từ Hong Kong trở về, ngày 17/9, Sâm nhân danh
MTQGTNTQ gửi thư cho TT Truman, yêu cầu can thiệp vào Ðông Dương; FRUS, 1947,
VI:142-143. Sâm cũng quyết định xuất bản báo Quần Chúng tại Sài Gòn để có cơ
quan ngôn luận trong tay. Cái chết của Sâm đã được cảnh cáo từ trước–Ngày
23/6/1947, báo L'Echo du Viet-Nam [Dư Luận] của Nguyễn Phan Long loan tin Sâm
đã bị Tòa án Mặt trận Quân Khu VII của Nguyễn Bình cho lệnh bắt giải ra xét xử
về tội vi phạm lệnh giải tán MTQGTNTQ.
79. CD 5398 ngày 16/12/1947, Caffery gửi BNG; FRUS,
1947, VI:151.
80. William C. Bullitt, "The Saddest War"
[Cuộc chiến buồn thảm nhất]; Life (29/12/1947); FRUS, 1947, VI:110.
81. CAOM (Aix), INF, Carton 154.
82. Văn khố Nga và Trung Cộng chưa công bố hết tài
liệu về những cuộc gặp gỡ giữa Hồ và Stalin trong tháng 2/1950, nhất là lý do
biện minh cho việc giải tán Ðảng Cộng Sản ngày 5/11/1945.
83. CÐ số 305, 5/12/1946, Acheson gửi Moffat; FRUS
1946, VIII:67-69; Department of Defense, US-Vietnam Relations, 1945-1947
(Washington, DC: GPO, 1971), Bk 8, tr. 85-86.
84. Ngày 18/12/1947, Tổng Lãnh sự Charles Reed đã từ
Sài-gòn điện trước cho Hopper rằng có thể "Giệm" [Diệm] sẽ ghé thăm;
FRUS, 1947, VI:152-155.
85. CAOM (Aix), 7F 27.
86. Theo tình báo Pháp, ngày 8/2/1848, Diệm đồng ý
với lập trường của VNQGLH: Ðộc lập - thống nhất. Năm Lửa Trần Văn Soái cùng lập
trường, và tỏ ý quí trọng Diệm. Ngày 11/2/1948, Tiết [Thiet], một người thân
cận Diệm và Nhu, từ chức Giám đốc báo Thống Nhất ở Huế, về Quảng Nam làm Giám
đốc trị sự công ty bảo hiểm Le Secours. Lý do chính là không đồng ý với Trần
Văn Lý. Ngày 12/2/1948, Diệm cử Ðông đi Hà Tiên, Sa Ðéc, Cần Thơ, Vĩnh Long gặp
một số linh mục kháng chiến cùng đại diện Cao Ðài, Hoà Hảo để vận động cho Bảo
Ðại. Theo Ðông, phần lớn giáo dân trong vùng Việt Minh ủng hộ kháng chiến;
nhưng sẽ ngả theo Bảo Ðại nếu được độc lập, thống nhất. Cũng định gửi một số
sách báo vào vùng Việt Minh, như cuốn Tôi Muốn Tự Do. Nhu sẽ lên đường qua Pháp
chừng hai tháng. Dự trù gặp Bảo Ðại, và xuống Roma; SHAT (Vincennes),10H 4201.
87. Tháp tùng Spellman có Fulton G. Green. Thời Sự
(Hà Nội), 7/3/1949.
88. CAOM (Aix), Indochine, 7F 29, tr. 57.
89. Nguyên văn: "Les aspirations du peuple
vietnamien dépassaient les termes de l'accord d'Halong [12/1947]." SHAT
(Vincennes), 10H 4138.
90. Ngày 12/5/1948, Ðại sứ Mỹ Caffery điện báo về
Washington là Vụ trưởng Á Châu Bộ Ngoại Giao Pháp tiết lộ rằng Paris đã cho
phép Bollaert chấp thuận việc thành lập một chình phủ lâm thời với Xuân làm Thủ
tướng. Tuy nhiên, chính phủ này phải đặt ở Hà Nội hay Huế. Việc thương thuyết
giữa Bollaert và Xuân sẽ dựa trên căn bản Hiệp ước Hạ Long ngày 7/12/1947. Bảo
Ðại sẽ ký tên vào Hiệp ước mới (5/6/1948) giữa Bollaert và Xuân.
91. Công báo Việt Nam [CBVN], I:1 (4/6/1948), tr. 4.
92. SHAT [Vincennes], 10H 642.
93. Công báo Nam phần Việt Nam, 3:22
[31/5/1948]:359; CBVN, I:1 [4/6/1948]:7. Cùng ngày, Xuân ban hành Nghị định thứ
2, công bố tổ chức và chức quyền của chính phủ này; SHAT (Vincennes), 10H 642.
94. CBVN, I:1 [4/6/48]:4.
95. Chủ tịch Hội đồng Tổng trưởng, kiêm Tổng trưởng
Quốc Phòng: Nguyễn Văn Xuân. QVK, Phó Chủ tịch, Tổng trấn Nam Phần: Trần Văn
Hữu. QVK, Tổng trấn Trung phần: Phan Văn Giáo. QVK, Tổng trấn Bắc phần: Nghiêm
Xuân Thiện. QVK, Tùng Bộ Quốc Phòng: Trần Quang Vinh. Lễ nghi, Quốc Gia Giáo
dục: Nguyễn Khoa Toàn. Nội vụ: Nguyễn Hữu Trí [không nhận] Tư pháp: Nguyễn Khắc
Vệ. Tài chánh/Kinh tế Quốc gia: Nguyễn Trung Vinh. Công tác & Kế hoạch:
Nguyễn Văn Ty. Thông tin, Báo chí & Tuyên truyền: Phan Huy Ðán, Y sĩ [sau
đổi tên thành Phan Quang Ðán] Canh Nông: Trần Thiện Vàng. Y tế: Ðặng Hữu Chí, Y
sĩ. Thứ trưởng tùng Dinh Chủ tịch: Ðinh Xuân Quảng. Thứ trưởng tùng Bộ Quốc gia
Giáo dục: Hà Xuân Tế (CBVN, I:1, [4/6/1948]:15-6). Vì Nguyễn Hữu Trí từ chối Bộ
Nội vụ, chức này do Xuân kiêm nhiệm. Ngày 25/9/1948, Trí được cử làm đại diện
VN tại Paris, với Vũ Quí Mão làm "Ðặc vụ viên." "Chỉ dụ"
ngày 9/6/1948 bổ nhiệm Ðỗ Quang Giai làm Thứ trưởng Nội vụ; và Ngô Quốc Còn,
Thứ trưởng Lao Ðộng & Hoạt động xã hội (CBVN, I:2 [18/6/1948]:23-4). Qua
ngày 28/6/1948, Lê Công Bộ làm Thứ trưởng Nội An (CBVN, I:3[31/7/1948]:35).
Ngày 2/6/1948, Xuân ký sắc lệnh thứ ba, ban hành "Pháp qui tạm thời"
(Statut Provisoire) của nước Việt Nam. Cờ vàng, 3 sọc đỏ. Quốc ca: Thanh niên
hành khúc [nhưng không nhắc tên tác giả Lưu Hữu Phước. (Ngày 7/6/1948, Xuân ký
sắc lệnh hủy bỏ pháp qui tạm thời này. Một tuần sau, ngày 14/6, Xuân ký Sắc
lệnh liên quan đến các tổ chức công quyền tạm thời. Việt Nam chia làm ba 3
miền, thủ đô là Hà-nội. Quốc kỳ là cờ vàng (chiều dọc bằng 2/3 chiều dài), giữa
có 3 sọc đỏ (dày bằng 1/15 chiều dọc của lá cờ và cũng cách nhau chừng ấy).
Quốc ca: Thanh niên hành khúc. Theo Nguyễn Văn Tâm, Tâm là tác giả lá cờ vàng 3
sọc đỏ và chọn bài hát của Lưu Hữu Phước làm quốc ca. Theo Nguyễn Khánh, lá cờ
vàng ba sọc đỏ là biến thể của lá cờ nền vàng ba sọc xanh của Cộng Hòa Nam Kỳợ.
96. Nguyên bản tiếng Pháp: "La France reconnait
solennement l’indépendance du Vietnam auquel il appartient de réaliser
librement son unité. De son côté, le Vietnam proclame son adhésion à l’ờUnion
FrancỄaise en qualité d’Etat associé à la France. L’indépendence du Vietnam n’a
d’autres limites que celles que lui impose son appartenance à l’ờUnion
FrancỄaise." CBVN, I:2 [18/6/48]:18; CAOM (Aix), GGI, Amiraux, 50062.
Ngoài ra, 2/Việt Nam bảo đảm tôn trọng những quyền lợi của công dân Pháp, tôn
trọng các nguyên tắc dân chủ, và dành ưu tiên cho các cố vấn và chuyên viên kỹ
thuật Pháp trong việc tổ chức nội bộ cùng kinh tế; 3/ sau khi thiết lập một
chính phủ lâm thời, các đại diện Việt Nam và Pháp sẽ ký những thỏa ước về văn
hoá, chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính và kỹ thuật.
97. FRUS, 1948, VI:25. Ngày 6/6/1948, tại Hà Nội, Báo
L’Entente, cùng hầu hết các báo chí loan tin về "Hiệp ước" (Accords)
Hạ Long. Theo các báo này, Bảo Ðại đã ký hiệp ước với Bollaert, dưới sự chúng
kiến của Nguyễn Văn Xuân. Theo Phó Lãnh sự Mỹ Edwin C. Rendall tại Hà-nội, cả
ba người cùng ký, và Bảo Ðại dùng thêm hai chữ "S.M." (Sa Majesté)
trước tên mình; FRUS, 1948, VI:24. Hôm sau, 7/6, Hồ phản đối việc "bọn bù
nhìn" (fantoche) ký kết hòa ước với bất cứ nước ngoài nào. Ngày 9/6/1948,
Tổng Lãnh sự Abbott gặp Xuân và Hữu. Theo Xuân cần đạt hoà ước gấp, nếu muốn có
cơ hội thành công. Việc thương thuyết sẽ tiếp tục ở cả Pháp và Việt Nam, do
"Siêu Ðại sứ" Bảo Ðại thực hiện. Có thể Bảo Ðại sẽ hồi hương, nếu đó
là kết quả của một cuộc trưng cầu dân ý. (Tướng Pierre Boyer de Latour du
Moulin, Tư lệnh Quân Pháp ở miền Nam thì cho rằng Bảo Ðại sẽ hồi hương trong
một thời gian ngắn). Xuân không mấy tin tưởng vào việc chiêu hồi những người
Quốc Gia trong hàng ngũ Việt Minh. Việt Minh đang áp dụng những thủ đoạn hung
bạo–kể cả chôn sống–để ngăn chặn phong trào về tề; FRUS, 1948, VI:25-6). Ngày
9/6/1948 này, Ferdinand Baeyens, Giám đốc Á Châu vụ Pháp, thông báo Ðại sứ
Bruce: Chính phủ Pháp rất bi quan về chính phủ Xuân. Bảo Ðại không ưa Xuân, chỉ
giữ Xuân cho tới lúc "tường đã khô." Bộ Ngoại Giao và Hải ngoại Pháp
đều muốn thay Xuân, chẳng hạn như Diệm; FRUS, 1948, VII:24-25.
98. Nghị định ngày 23/8/1948; CBVN, I:8
(4/9/1948):102. Bảy Viễn đặt bản doanh ở số 31, rue de Canton, Chợ Lớn
99. Ngày 3/7/1948, Ngoại trưởng Marshall điện cho
Woodruff Wallner, Phụ tá Vụ trưởng Tây Âu, đang có mặt tại Paris:
1. Mặc dù vấn đề thống nhất ba kỳ của Việt Nam cần
Quốc Hội Pháp phê chuẩn, nhưng Thủ tướng Robert Schumann cần công khai yểm trợ
chữ ký của Bollaert;
2. Liệu chính phủ Schumann có gặp trở ngại khi đưa
ra Quốc Hội biểu quyết việc thống nhất ba kỳ?
3. Mặc dù Schumann không dám đưa vấn đề ra trước
Quốc Hội, nhưng có lẽ cần những lãnh đạo cao cấp nhất–Schumann, Bidault, và
Coste-Floret–cùng ra sức;
4. Vấn đề sát nhập Nam Kỳ chỉ khó khăn trong hiện
tại? Nếu thế, lúc nào thuận lợi?
5. Cần có những nhượng bộ nào để chứng tỏ thành khẩn
khởi đầu?
Cuộc chiến ở Việt Nam đã kéo dài gần ba năm, và Pháp
khó đạt một chiến thắng quân sự. Cuộc chiến này làm suy yếu nền kinh tế của
Pháp và liên hệ của phương Tây với các sắc dân phương Ðông. Quan điểm của Bộ
Ngoại Giao Mỹ là sự tiếp tục cuộc biểu diễn những hình nộm mà Pháp đã sản xuất
suốt hai năm qua chỉ giúp HCM mạnh hơn, và bảo đảm việc xuất hiện một quốc gia
do Cộng Sản thống trị, ngả theo phe Liên Sô. Ðể tránh điều này, điều quan trọng
hơn cả là phải cho cái gọi là chính phủ trung ương hiện nay, hoặc bất cứ một
chính phủ chống Cộng nào, một cơ hội thành công bằng những nhân nhượng có thể
quyến rũ đại đa số những thành phần không Cộng Sản; FRUS, 1948, VI:30.
Ngày 9/7/1948, Bollaert nói đang đòi Quốc Hội phải
phê chuẩn Hiệp ước Hạ Long, như một điều kiện để trở lại Ðông Dương. Bollaert
đã yêu cầu chính phủ Schumann và Quốc Hội phải có hành động trước cuối tháng
7/1948, và hy vọng sẽ thuyết phục được Schumann đệ trình trước Quốc Hội toàn bộ
hồ sơ. Tại Quốc Hội, Bollaert cũng tin rằng sẽ thắng lợi với một đa số vừa
phải, để phê chuẩn thỏa ước Hạ-long cũng như chính sách của Bollaert tại Ðông
Dương. Quyết nghị của Quốc Hội cũng đương nhiên hủy bỏ Hiệp ước 1862 [đúng hơn,
hiệp ước 1874], theo đó Nam Kỳ được cắt nhượng cho Pháp. Tuy nhiên, việc sát
nhập Nam Kỳ trở lại với lãnh thổ Việt Nam cần một cuộc trưng cầu dân ý; nhưng
trong hoàn cảnh hiện tại không dễ tổ chức trưng cầu dân ý. Về những thỏa ước kỹ
thuật, Bollaert cho rằng có thể bắt đầu thảo luận từ mùa Thu 1948, không cần sự
chấp thuận của Quốc Hội. Thứ Hai, 19/7/1948: Bollaert khẳng định QH phải phê
chuẩn Hiệp ước Hạ Long. Không đồng ý với đề nghị "chấp nhận ngầm" mà
Coste-Floret đưa ra ngày 17/7/1948. Bollaert cũng lo ngại Bảo Ðại mải mê vui hưởng
lạc thú ở Âu Châu, không muốn trở lại Ðông Dương, và yêu cầu Mỹ can thiệp;
FRUS, 1948, VI:34-35. (Thứ Hai, 19/7/1948: Thủ tướng Schumann xin từ chức. Thứ
Tư, 21/7/1948: André Marie được cử làm Thủ Tướng. Thứ Hai, 26/7/1948: Chính phủ
Marie nhiệm chức. Schumann, cựu Thủ tướng, nắm Bộ Ngoại giao. 5/8/1948: Ðại sứ
Caffery báo cáo: Bollaert không chịu trở lại Ðông Dương nếu Quốc Hội không thảo
luận về vấn đề thỏa ước Hạ-long. 19/8/1948: Thủ tướng Marie tuyên bố ủng hộ
Tuyên Ngôn Chung Hạ Long. Tuy nhiên, chưa có một quyết định chính thức nào của
Quốc Hội Pháp. ỳ Bollaert muốn được phê chuẩn chính thức như một hiệp ước, và
trở thành Hiến chương của nền bang giao Pháp-Việt (Charte des rapports
franco-vietnamiens).
100. FRUS, 1948, VI:25-26.
101. FRUS, 1948, VII:42. Ngày 9/7/1948, Bollaert ăn
trưa với Bảo Ðại. Khi Bollaert hỏi về việc hồi hương, Bảo Ðại nói là còn tùy
hoàn cảnh. Bảo Ðại muốn đạt được càng nhiều nhượng bộ của Pháp càng tốt; FRUS,
1948, VI:32-33.
102. FRUS, 1948, VI:32-33. Ngày 14/7, Marshall chấp
thuận đề nghị của Wallner, chỉ thị cho Ðại sứ Caffery tiếp xúc chính phủ
Truman. Ngày 15/7, Caffery thông báo đã hoàn tất nhiệm vụ, nhưng nhân viên Bộ
Ngoại Giao Pháp cho biết vấn đề cực kỳ khó khăn; Ibid., tr. 33-34. Nhưng năm
ngày sau, 19/7, chính phủ Schuman bị đổ.
103. CAOM (Aix), INF, c. 154/1354.
104. Ngày Chủ Nhật, 17/1/1949, Lovett, XLTV Ngoại
trưởng Mỹ, gửi công điện cho Ðại sứ tại Pháp: Mỹ muốn thấy Pháp đi đến thỏa
thuận với Bảo Ðại hay bất cứ một "nhóm quốc gia chân chính" nào khác
có khả năng lôi kéo đa số dân chúng, và không thể cam kết yểm trợ một chính phủ
không vận động được dân chúng ủng hộ, sẽ biến thành một chính phủ bù nhìn, tách
biệt khỏi dân chúng, và sự hiện hữu chỉ dựa vào binh lực Pháp. Caffery sẽ được
thông báo về hành động phối hợp Mỹ, Bri-tên và Pháp để chống Cộng Sản sau khi
nhận được báo cáo của Bri-tên; FRUS, 1949, VII:5. Ngày Thứ Tư, 20/1/1949, Ðại
sứ Caffery điện báo là Pignon cho biết đã đạt được các điểm căn bản. Hai bên
đồng ý rằng cần Quốc Hội Pháp phê chuẩn việc thống nhất Nam Kỳ trước khi chính
thức công bố các điểm thỏa thuận để bảo đảm rằng dân chúng sẽ chấp nhận giải
pháp Bảo Ðại. Vấn đề chủ quyền gồm 2 lãnh vực: Ngoại giao và nội bộ. Về nội bộ,
việc bàn giao cơ cấu hành chính có thể thực hiện bất cứ lúc nào, nhưng về tư
pháp, cần sắc luật của Quốc Hội. Chính phủ Pháp đang nghiên cứu thời điểm cho
Bảo Ðại hồi hương, và chuẩn bị hồ sơ chuyển qua Quốc Hội. Quốc Hội sẽ bàn thảo
về việc này trước ngày bầu cử hàng tổng (canton) ngày 15/3/1949. Nếu chính phủ
thay đổi lập trường, hay Quốc Hội không phê chuẩn, Pignon sẽ từ chức; FRUS,
1949, VII:6.
105. FRUS, 1949, VII:7.
106. FRUS, 1949, VII:10. Thư ngày 8/3/1949 của
Auriol gửi Bảo Ðại gồm 7 mục chính: Việt Nam thống nhất (Unité du Vietnam); Vấn
đề ngoại giao (Question diplomatique); Vấn đề quân sự (Question militaire):
Việt Nam sẽ có một quân đội riêng để duy trì trật tự, an ninh nội địa và bảo vệ
đế quốc (la défense de l'Empire). Trong trường hợp tự vệ, có thể được các lực
lượng Liên Hiệp Pháp yểm trợ (appuyé par les forces de l'Union francaise). Quân
đội VN cũng tham dự vào cuộc bảo vệ biên cương của toàn Khối Liên Hiệp Pháp;
Vấn đề chủ quyền trong nước (Souveraineté interne); Vấn đề tư pháp; Vấn đề văn
hóa; Vấn đề kinh tế và tài chính (CP 290).
107. AAN, 1949:1545-6. Phụ bản các điều thỏa thuận
chỉ công bố vào ngày 18/6/1949.
108. Nguyên văn: "La solution militaire n'est
pas obtenue; Bao Dai ne jouit d'aucune autorité au Viet Nam. Le Viet Nam est
derrière Ho Chi Minh. Il faut traiter en premier lieu avec Ho Chi Minh; AAN,
1949:1521.
109. AAN, 1949:1522-1523.
110. AAN, 1949:1523, col 3.
111. AAN, 1949:1523, col 3.
112. CAOM (Aix), PA 19, Carton 4/68; AAN, 1949:1590,
col1; FRUS, 1949, VII:11.
113. SHAT (Vincennes), Indochine, 10H 642.
114. FRUS, 1949, VII:35-36.
115. FRUS, 1949, VII:27,31.
116. FRUS, 1949, VII: 21-22, 38-45.
117. FRUS, 1949, VII:19-20.
118. FRUS, 1949, VII:24-25; Pentagon Papers, Gravel,
I:63.
119. FRUS, 1949, VII:29-30.
120. Irving 1975:69. Ngày Thứ Hai, 6/3/1949, tình
báo Pháp báo cáo: Việt Minh triệu tập một buổi họp các cấp chỉ huy quân sự cấp
trung đoàn tại Ðồng-Tháp-Mười, hoạch định kế hoạch tấn công trả đũa việc Bảo
Ðại hồi hương, tức vào dịp không trăng từ 22 tới 28 tháng 3 (CP 208). Thứ Tư,
8/3/1949, Việt Minh thành lập Ðặc khu Sài-gòn/ Chợ-lớn, gồm các tỉnh Gia-định,
Chợ-lớn, và khu Ðông-thành cũ (?).Quyết định này do Nguyễn Bình, Lê Duẩn và
Phạm Ngọc Thuần ký. Ban chỉ huy của Ðặc khu: Chủ tịch: Tô Ký, Phó Tư lệnh Khu
7; Phụ tá: Nguyễn Văn Công, Phó Chủ tịch, Ủy viên quân sự đặc khu Sài-gòn /
Chợ-lớn; Bí thư: Ta Nhut Tu (?),Thanh tra chính trị và công an Ðông Nam Bộ; Chủ
tịch UBHC Sài-gòn/ Chợ-lớn; Chính ủy: Xung, Trưởng phòng chính trị Khu 7. Khu 7
cũ tiếp tục hiện hữu. Bộ Chỉ huy gồm có: Chỉ huy trưởng, Huỳnh Văn Nghệ; Phụ
tá: Nguyễn Van Dung; Chính ủy: Nguyễn Văn Tri. (CP 208) Ngày 26/4/1950, nhân
cuộc biểu tình chào mừng Bảo Ðại hồi hương tổ chức linh đình tại Hà-nội, Việt
Minh ném một quả lựu đạn, khiến một em bé tử thương. Theo Lãnh sự Gibson, Pháp
kiều bắt đầu bán các cơ sở kinh doanh, chuẩn bị hồi hương; FRUS, 1949, VII:21.
121. Thủ Tướng: "Ðức" Bảo Ðại, Quốc
trưởng. Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng: Trung tướng Nguyễn Văn Xuân.
Tổng trưởng Ngoại Giao: Nguyễn Phan Long; Tư Pháp: Nguyễn Khắc Vệầ; Quốc Gia
Kinh tế và Kế hoạch: Trần Văn Văn. Bộ trưởng Phủ Thủ tướng kiêm Nội vụ: Vũ Ngọc
Trản; BT Tài chánh: Dương Tấn Tài; BT Ngoại Giao: Lê Thăng; BT Quốc Phòng: Trần
Quang Vinh; BT Thương Mại & Kỹ nghệ: Hoàng Cung; BT Canh Nông, Xã hội, Lao
động: Phan Khắc Sửu; BT Công tác, Giao thông & Kiến thiết: Trần Văn Của; BT
Quốc Gia Giáo dục: Phan Huy Quát; BT Thanh niên: Nguyễn Tôn Hoàn; BT Y tế:
Nguyễn Hữu Phiếm; BT Thông tin: Trần Văn Tuyên. TTK Chính phủ: Ðặng Trinh Kỳ;
CBVN, II:2 [13/8/1949]:14. Ngày 3/7/1949, Bảo Ðại ký sắc lệnh 4-CP, bổ nhiệm
Nguyễn Hữu Trí làm Thủ hiến Bắc Việt; Phan Văn Giáo, Thủ hiến Trung Việt, và
Trần Văn Hữu, Thủ hiến Nam Việt; CBVN, II:1 [6/8/1949]:6.
122. Ngày 24/3/1950, Luật tiết lộ với cơ quan tình
báo Pháp (SEHAN) rằng Diệm không thân cận được với Bảo Ðại vì bản tính nhu
nhược (faible) và thiếu cương quyết (indécis) của Bảo Ðại. Nếu lên nắm quyền,
Diệm sẽ chống Cộng thẳng tay, mà muốn thế cần có sự tín nhiệm và yểm trợ tuyệt
đối của Bảo Ðại. Ðiều này chắc không có. Ngoài ra, lập trường chính trị của
Diệm cũng khác biệt. Thứ nhất Diệm muốn biết chắc thể chế độ chính trị của Việt
Nam sẽ được tương tự như India trong Liên Hiệp Bri-tên. Nhưng sự bảo đảm chắc
chắn này không được chứng tỏ qua thực tế, như việc bàn giao chủ quyền, hay qua
sự tiến hoá của các khuynh hướng chính trị tại Pháp. Luật thêm rằng tại miền
Bắc, Diệm chẳng có bao nhiêu người ủng hộ, ngoại trừ phe Ki-tô chịu ảnh hưởng
Phát-diệm. Tại Hà-nội, theo Luật, có thể có Trần Văn Lai, Trần Trung Dung và
Nguyễn Xuân Chữ. SHAT (Vincennes), Indochine, 10H 1039.
123. Một trong những biên khảo xuất sắc về liên hệ
giữa QTCS với Ðảng CSÐD do học giả Anatoli Sokolov thực hiện. Ấn bản Việt ngữ
của tác phẩm này, theo Sokolov, không được chính xác. Một số phụ chú đã bị cắt
bỏ. Tác phẩm Ho Chi Minh: The Missing Years, 1924-1941 (2003) của Quinn-Judge
và tuyển tập Lê Hồng Phong (Hà Nội: 2002) cũng chứa đựng nhiều tài liệu Nga giá
trị. Xem thêm những công bố của học giả Việt như Ðỗ Quang Hưng, Trần Văn Hưng,
v.. v... trong Tạp chí Lịch Sử Ðảng (1999-2000).
124. Hầu hết các chi tiết trên đã được công bố từ
thập niên 1950. Tuy nhiên, ngày tháng và chi tiết mới được tài liệu văn khố
Trung Cộng xác tín từ thập niên 1990. Một trong những tác phẩm nên đọc: Qiang
Zhai, China & The Vietnam Wars, 1950-1975 (Chapel Hill: Univ. of North
Carolina Press, 2000), tr. 15-20. Xem thêm Võ Nguyên Giáp, Ðường tới Ðiện Biên
Phủ (Hà Nội: NXBQÐND, 2001), tr. 10-16.
125. Ðại tướng Giáp, trong tập hồi ký Ðiện Biên Phủ
(1994) và trong các ấn bản mới của hồi ký (2001) đã ghi nhận sự thực lịch sử
cay đắng này.
126. Ngày 21/6/1954, Churchill viết thư cho
Eisenhower, đề nghị thành lập một chiến tuyến chống Cộng trong vùng Thái Bình
Dương ["establishing a firm front against Communism in the Pacific
sphere]. Churchill cũng tán thành việc thành lập một Liên Phòng Ðông Nam Á,
giống như Liên Phòng Bắc Ðại Tây Dương tại vùng Ðại Tây Dương và Âu châu [We
should certainly have a SEATO, corresponding to NATO in the Atlantic and
European sphere]. Churchill nhấn mạnh: "In no foreseeable circumstances,
except possibly a local rescue, could British troops be used in Indochina, and
if we were asked our opinion we should advise against United States local
intervention except for rescue;" FRUS, 1952-1954, XIII:1728-1729.
127. Sau đó, có tin đồn Cường Ðể về Bangkok, được một
cán bộ CS tên Quy hết sức chiều đãi. Tuy nhiên, hiện chưa có tài liệu nào minh
chứng việc này.
128. FRUS, 1950, VI:884-886. Tối ngày 25/10/1950,
Acheson điện cho Heath về việc thành lập QÐGVN. Theo Acheson, viên chức Pháp
nghĩ rằng có thể đưa các lực lượng giáo phái vào, tổng số chừng 75,000 người.
Thục, Chi và Diệm cũng muốn biến lực lượng Ki-tô Giáo thành một phần quân đội;
Ibid., VI:909-10. Ý kiến của Thục, thực ra, chẳng có gì mới lạ. Từ năm 1947,
quan tướng Pháp đã khéo léo sử dụng các sứ quân tôn giáo, và ngay cả băng đảng,
để ngăn chặn Việt Minh. Các Ðơn Vị Lưu Ðộng Bảo Vệ Ki-tô Giáo của Leroy [UMDC]
hoạt động không xa giáo phận của Thục. Tháng 7/1950, Bộ Chỉ Huy UMDC rời về
tỉnh lÿ Bến-tre. Trung tá Leroy được làm Tỉnh trưởng tỉnh này [cho tới ngày
25/11/1952; SHAT (Vincennes), 10H 643.
129. Ngày Thứ Tư, 24/1/1951, XLTV Ðại sứ Mỹ Gullion
báo cáo là Bảo Ðại đã nhận được thư của Diệm. Nhưng Bảo Ðại không ưa Diệm vì
Diệm từng nhiều lần từ chối hợp tác. Phần anh em Diệm và Thục chủ trương giải
pháp lập Bảo Long lên ngôi, với Nam Phương và Cường Ðể làm Nhiếp Chính; FRUS,
1951, VI:359-61.
130. FRUS, 1951, VI:348.
131. Ngày 21/6/1954, Diệm nói với Ðại sứ Heath:
"I am best known figure in Vietnam after Ho Chi Minh;" FRUS,
1952-1954, XIII:1727. Khi đại ngôn điều này, Diệm quên mất Bảo Ðại, Nguyễn Thế
Truyền, Nguyễn Tường Tam, v.. v... Phê bình về lời hợm hĩnh của Diệm, một viên
chức ngoại giao Mỹ nhận xét Diệm là "nhân vật thứ hai, cách rất xa, Hồ Chí
Minh."
132. FRUS, 1952-1954, I:134-41.
133. FRUS, 1952-1954, I:522-523.
134. Thương thuyết bắt đầu từ ngày 8/3/1954. Ngày
4/6/1954 [28/4/1954], Laniel và Nguyễn Trung Vinh ký thoả hiệp "kiện toàn
[perfection] nền độc lập của Việt Nam." Hiệp ước này chỉ được
"paraphé" [ký tắt]; SHAT (Vinvennes), 1K 233, d. 40.
135. Xem chi tiết về tổ chức này trong Chính Ðạo,
VNNB, Tập I-C: 1955-1963 (Houston: Văn Hóa, 2000) & Tập II-B: Các tổ chức
chính trị (Houston: Văn Hóa, đang in). Xem thêm Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi,
I:333-342. Nên lưu ý, trong Chính Cương của Cần Lao, không hề đề cập đến thuyết
"sáng tạo" hay "tạo hóa" mà đôi lần đề cập đến thuyết
"tiến hóa." Ðiều này chứng tỏ Nhu có thể là một tín đồ Ki-tô, nhưng
"chống Giáo sĩ" [anti-clerical] như Nhu thú nhận với Phái đoàn điều
tra LHQ vào ngày 28/10/1963; UNGA, Agenda Item 77, Doc. A/5630, 7/12/1963.
Copyright
2007, by Chieu Ngu Vu & Van Hoa Publishing. All Rights Reserved.
No comments:
Post a Comment