Wednesday 27 November 2013

VIỆT NAM : NHỮNG TRANH LUẬN VỀ DÂN CHỦ HÓA & PHÁP QUYỀN HÓA (Zachary Abuza - Thời Đại Mới # 28 tháng 8, 2013)




Zachary Abuza

thời đại mới,  Số 28,  tháng 8, 2013

Sau thi kChiến tranh Lnh, các lc lưng bên ngoài luôn tìm cách thúc đy quá trình dân chhóa và ci cách chính trti Vit Nam. Ly ví d, trong bài phát biu ca Tng thng Bill Clinton tuyên bthiết lp
quan hngoi giao vi Vit Nam, ông công khai đng cơ chyếu là thúc đy tăng trưng kinh tế , tđó sdn ti nhng đòi hi ln hơn vquyn tdo và chính trtrong dân chúng Vit Nam. Rõ ràng là áp lc tbên
ngoài đã có nh hưng nht đnh đến vic đi xvi mt sngưi bt đng chính kiến như Đoàn Viết Hot, Dương Thu Hương, và Nguyn Thanh Giang. Mặc dù chính quyền luôn bác bỏ việc phóng thích họ là do
sức ép bên ngoài,2 Việt Nam rõ ràng trông chờ động thái này sẽ giúp giành được một số nhượng bộ kinh tế từ Mỹ. Nhân quyền, dù Việt Nam có đồng ý hay không với cách hiểu của Phương Tây, phải nằm trong chương trình nghị sự của các nhà hoạch định chính sách. Có một số dấu hiệu cho thấy điều này đang diễn ra. Ví dụ, tờ Far Eastern Economic Review cho biết trong giai đoạn 1992-1993, một nhóm liên cơ quan cấp cao với các đại diện đến từ Bộ Nội Vụ (tức Bộ Công an hiện nay –Người hiệu đính), Ban Chấp hành Trung ương và các cơ quan khác của Đảng, Tòa án tối cao, và Bộ Ngoại giao đã gặp gỡ để thảo luận về vấn đề nhân quyền.3Mặc dù có áp lực bên ngoài kêu gọi cải cách chính trị và nới lỏng quyền lực của Đảng, nhưng sức ép đòi hỏi dân chủ hóa và cải cách chính trị lại đến từ trong nước. Các lực lượng bên ngoài đơn giản chỉ được coi như một nguồn cơn gây khó chịu hơn là một lực lượng đưa tới thay đổi. Hơn nữa, sức ép đòi tự do hóa chính trị đến từ chính trong nội bộ Đảng. Tranh luận về dân chủ hóa bắt nguồn từ sau Đại hội Đảng VI năm 1986 với việc Nguyễn Văn Linh được bầu làm tổng bí thư Đảng và mở ra kỷ nguyên cải cách và đổi mới kinh tế. Chương 3 sẽ thảo luận nguồn gốc của cuộc tranh luận về dân chủ trong Bộ Chính trị, cuộc đàn áp năm 1989, sự thiếu vắng một phong trào chính thức đòi cải cách chính trị cho đến khi các cuộc biểu tình của nông dân tỉnh Thái Bình nổ ra năm 1998. Sau đó, chương này sẽ phân tích những yêu cầu của Quốc hội, những quan điểm khác biệt về dân chủ và đa nguyên, và những quan ngại của Đảng về tư tưởng hệ và kinh tế trong những năm 1990.

. . . . . . . .



Kết luận

Phát triển kinh tế cần có sự song hành của luật pháp và các quy định điều tiết; sẽ không thể quản lý nổi nếu chỉ dựa vào nghị quyết của Đảng.

Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa được chuẩn bị để thiết lập một chế độ pháp trị đúng nghĩa bởi những nguyên do cả về cơ cấu lẫn chính trị. Mặt khác, Việt Nam đã nhanh chóng công bố nhiều luật, nhưng thay vì tạo ra một xã hội được cai quản dựa trên pháp luật, những luật này có mục đích củng cố quyền lực chính trị. Luật được soạn thảo với mục đích chủ yếu là phục vụ lợi ích của Đảng thay vì lợi ích của xã hội, và tạo ra nhiều lỗ hổng để đặt chế độ lên trên pháp luật. Mặc dù vai trò của Quốc hội đã được tăng cường nhưng Đảng vẫn hạn chế quyền lực và sự độc lập của Quốc hội. Với tư cách là cơ quan lập pháp của quốc gia, nó sẽ có nhiều vai trò hơn. Quan trọng hơn, nó sẽ sẵn sàng đảm nhận vai trò là cơ quan giám sát, phê phán những yếu kém và tình trạng tham nhũng của chính phủ và các quan chức chính quyền, và phản biện các chính sách của Đảng và chính phủ. Sự hình thành các nhóm và phe phái trong Quốc hội có thể là tiền đề cho những đảng phái chính trị non trẻ. Chúng không cần thiết phải là những đảng đối lập, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam rồi sẽ phải làm quen với khái niệm đối lập trung thành và cởi mở hơn để sẵn sàng lắng nghe những ý kiến của các nhà kỹ trị và những trí thức không phải là đảng viên. Điều trớ trêu là sự cởi mở của Đảng về lâu dài lại có lợi cho Đảng vì những sự kiện như tại Thái Bình, việc công khai những phiên tòa xét xử tội phạm tham nhũng cấp cao, hay những vấn đề như điều 4 Hiến pháp tiếp tục là điểm tập hợp của những người bất đồng chính kiến. Bằng cách có được lực lượng đối lập trung thành với tư cách là bộ phận giám sát và cho phép có nhiều chính sách để lựa chọn, Đảng có thể khôi phục tính chính danh và tiếp tục vai trò chính trị áp đảo của mình. Tuy nhiên, giới lãnh đạo đảng lại lo ngại hậu quả trái ngược sẽ xảy ra.

Điều gây hoang mang cho các đảng viên cấp cao là một khi được khuyến khích, các trí thức gia và các nhà kỹ trị lại đòi hỏi tự do ngôn luận nhiều hơn để tiếp tục đối thoại, đưa ra những ý tưởng mới, phê phán các chính sách hiện hành, thu hút được những cá nhân có cùng tư tưởng, và tạo ra những nhóm và các đảng chính trị độc lập. Đảng sẽ còn tiếp tục kiểm soát các luồng thông tin để duy trì quyền lực độc tôn và ra sức ngăn cặn sự phổ biến của các kênh tin tức phi chính thống và hạn chế tự do tri
thức.


1 comment:

View My Stats