Ngô Minh
04 November, 2013 05:10
Ba tôi là ông Ngô Văn Thắng, một ngư dân có chữ ở
làng Thượng Luật. Tôi không biết ông học ở đâu và học đến cấp nào, nhưng tôi
thấy, mỗi khi rỗi việc , ông ngồi lấy bút lông chấm mực tàu , cặm cụi
viết chữ Nôm (hay Hán ?) lên những tờ giấy bổi, rồi cất vào cái tráp sơn
mài đen láng. Ông giữ chức lý trưởng làng Thượng Luật thời Chính phủ Lâm
thời của Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng, trong hai năm, từ năm 1947- 1948.
Hồi đó làm lý trưởng phải được sắc phong . Ông hay nhâm nhi rươụ nói
chuyện văn chương thời cuộc cùng các cụ trong làng. Mới 53
tuổi mà ông đã để râu trắng dài, nói cười vuốt râu như lão trượng.
Mỗi bữa ăn, ông ngồi một mình hoặc với khách một mâm trên sập gụ. Năm mạ con
tôi ngồi mâm trải chiếu dưới sàn nhà. Phong độ, vóc dáng nho nhã , trí
thức thế nhưng ông lại làm nghề đánh cá chuyên nghiệp. Ông là người đi biển
giỏi .Thời ba mươi tuổi ông đi biển suốt ngày đêm, nên có tiền để
mua thuyền lưới thuê bạn chài cùng đi biển. Ngày đi biển, đêm về
ông thắp đèn dầu ngồi đọc sách.
Ông làm
lý trưởng cho chính phủ thân Pháp nhưng ông lại ủng hộ Việt Minh. Thời
sau cải cách, các anh tôi thường khai trong lý lịch việc ông làm lý trưởng là
để nguỵ trang việc ủng hộ Việt Minh. Vì thời chống Pháp, ông có một căm hầm bí
mật nuôi bộ đội, cán bộ kháng chiến xã Hưng Đạo ( tức ba xã
Hưng Thuỷ, Ngư Thuỷ, Sen Thuỷ thuộc huyện Lệ Thuỷ, Quảng Bình bây giờ) ngay ở
trong nhà. Có lần cả trung đội Việt Minh về ở ngày trong hầm nhà tôi để đi đánh
đồn Hoà Luật ở xã Cam Thuỷ trên đường Quốc lộ 1A, hay đồn Sen Bàng, đồn Dốc
Sỏi. Mạ tôi ở trong Hội mẹ chiên sĩ, cùng ba bốn mẹ nữ như mẹ
Thiệt, Mẹ Nồng, Mẹ Tá …thường gánh chổi rèng ( một loại cây có mùi
thơm, mọc nhiều trên cát , người ta chặt về đạp cho rụng hết lá rồi bó
thành chổi quét sân, đem bán) , cùng ba bốn anh Việt Minh quân báo đóng
giả con gái cùng gánh chổi rèng đi với các mẹ . Dưới chổi
rèng là súng lục và lựu đạn , về chợ Cưỡi để tiêu diệt tên ác ôn tên là Tao, là
đứa chuyên cướp bóc bà con đi chợ , ăn chặn và hãm hiếp phụ nữ. Phục kích
mấy tuần liền cuối cùng Việt Minh đã diệt được tên Tao khốn nạn, làm chấn động
cả vùng.
Từ giữa năm 1952 cho đến cuối năm 1953, căn nhà của ba mạ tôi như một trạm quân
y dã chiến. Bộ đội, thương binh, bệnh binh thường được chuyển về trong
nhà tôi điều trị, an dưỡng. Ba anh em tôi là Thạnh, Thường,
Cường được đi học trường tư thục ở làng . Ba tôi cùng mấy ông
gọi là có của trong làng bỏ tiền ra thuê thầy, nuôi thầy ngay ở trong nhà
để dạy học. Một tuần thầy ở và dạy ở nhà này, tuần khác thì
thầy dạy ở nhà khác. Bộ đội Việt Minh ở trong nhà tôi thường chép
tặng ba anh em tôi những bài hát kháng chiến. Các anh còn
tặng chúng tôi ảnh của lãnh tụ như Malencốp , Hồ Chủ tịch, Mao
Trạch Đông cắt từ các báo. Tất cả những bài hát, ảnh tặng đó ba anh em
đều bỏ trong các xắc đựng sách vở chung . Vào khoảng trung tuần
tháng 7 năm 1953, bọn Pháp mở trận càn lớn về làng tôi . Lúc đó trong nhà tôi
có một tiểu đội bộ đội ta bị thương đang điều trị. Khoảng 12 giờ đêm, các
anh quân báo đã báo có địch, nhưng các anh bộ đội chủ quan, cứ ngủ
yên. . Khoảng 4 giờ sáng chị Ngô Thị Vượng cuả tôi dậy để lo cơm
nước cho các anh và gia đình . Chị vừa ra suối lấy nước, thì phát
hiện ra bọn địch đang càn vào làng. Tiếng chó sủa khắp
cả xóm. Chị hốt hoảng chạy vô nhà đánh thức các
anh thương binh dậy. Một tiếng sau thì địch đã vây làng. Lúc đó ở
nhà tôi các lại trang phục vủa Việt Minh như quần áo ướt ,
vòng nguỵ trang, súng ống, ruột tượng gạo … vứt bừa bãi. Ba tôi
thức dậy, ra đứng gác tước cửa để các anh chuẩn bị súng ống, lưu đạn để đối phó
với địch. Sàn nhà tôi lát bằng ván gỗ, nên ba tôi cạy ván lên bảo các anh
ném tất cả những thứ quần áo ướt, ruột tượng gạo… và những gì không
mang theo xuống dưới ván rồi đóng lại như cũ. Ba tôi hướng dẫn cho tiểu
đội thương binh rút khỏi nhà tôi, ra sau bờ dứa cách đó cây
số. Chị Vượng trong lúc hoảng loạn đã mang cả các xắc đựng sách vở cùng
với các bài hát Việt Minh và anh lãnh tụ cộng sản của ba em , chạy ra đầu
làng tránh giặc. Địch bán rát, chị hoảng quá, vứt luôn cả cái
xắc bên đường. Thế là bọn địch nhặt được.
Anh Dũng, người
Cảnh Dương, Quảng Trạch, tiểu đội trưởng cùng anh em rút ra sau làng. Tiểu đội
thương binh đã gặp địch và hai bên đánh nhau tới hai tiếng đồng hồ . Nhưng
vì là thương binh, sức yếu , vũ khí chỉ có hai khẩu súng
trường và năm qưả lựu đạn , cuối cùng các anh Phúc, Doan và Cẩn hi
sinh ( mộ các anh hiện đã được quy tập về Nghĩa trang Liệt sĩ huyện lệ Thuỷ ở
xã Mai Thuỷ ) còn lại bị địch bắt. Anh Dũng, tiểu đội trưởng bị cụt
một cánh tay ở làng Thượng Luật quê tôi . Sau khi bắt được mấy
người Việt Minh, bọn địch bắt dân tập trung lên Động Cao là động cát phía tây làng. Chứng giơ
cái xắc chị Vượng đã vứt bên đường , hỏi dân làng nhà ai có
cái xắc này . Một cái xắc của ba học sinh mới lớp một ,
lớp bốn mà đã chứa đầy tài liệu Việt Minh . Chúng thề
là sẽ tìm ra ba thằng Việt Minh nhóc này. Nhưng cả làng không ai
nói gì, nên doạ nạt một hồi rồi chúng rút về, cầm theo cái
xắc.
Năm 1980, anh Dũng, tiểu đội trưởng bị bắt trong trận càn 1953 ở làng
tôi dẫn một đoàn tàu đánh cả từ Cảnh Dương, Quảng Trạch gần
Đèo Ngang về cập bến làng tôi. Anh hỏi thăm nhà mẹ Vượng ( tức nhà tôi,
quê tôi thường xưng danh theo tên con đầu) . Gặp mạ tôi, anh đã
khóc. Anh cụt một tay, đang là huyện uỷ viên Huyện Quảng Trạch trực
tiếp chỉ đạo nghề cá, đang dẫn đoàn tàu của huyện đi tìm ngư trường thí
điểm . Anh kể rằng , năm 1953, mấy anh trong tiểu đội anh cùng với anh
bị địch bắt đem về giam ở đồn Hoà Luật . Một năm sau
thì được trao tả tù binh sau chiến thắng Điện Biên Phủ .
Ba tôi không vô đảng công sản, nhưng ông cỏ tiền mua lựu đạn, súng để cho bộ
đội đi đánh đồn Hoà Luật, lại bảo mạ tôi giấu dưới cá, mắm
gánh lên chợ Chè ( xã Hồng Thuỷ) giao cho bộ đội đánh đồn. Ông bỏ tiền ra mua
hai khẩu móc-chê 60 ly ( súng cối) tặng cho du kích xã Hưng Đạo. Do
việc ủng hộ tiền của , súng ống cho Việt Minh mà trong Cải cách ruộng
đất, Đội đã quy cho ba tôi là ủng hộ Quốc dân Đảng. Thật vô lý. Y như các ông
Đội này không phải là Việt Minh vậy. Các ông Khuyên, ông
Đồng, người Sen Thuỷ là lãnh đạo xã Hưng Đạo, rất nhiều thời gian ở
nhà tôi, sau này một thời làm lãnh đạo chủ chốt của Khu vực Vĩnh Linh đã nhiều
lần kể lại việc đó. Ông Khuyên , ông Đồng trong Cải Cách ruộng đất cũng
bị quy là địa chủ, bị đấu tố cực nhục. Ở xã Sen Thuỷ , Đội nêu khẩu hiệu
:” Toàn dân căm ghét Khuyên , Đồng”. May là hai ông không bị xử bắn. Sau
này, nhờ thành tích kháng chiến đó , mạ tôi đã được Chính phủ tặng “Huy chương
Kháng chiến chống Pháp hạng ” do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký.
Có lẽ vì thế mà các anh tôi khai ba làm lý trưởng là để nguỵ trang, đóng kịch
với giặc . Nhưng tôi lại nghĩ, lý trưởng thời đó phải có trình độ mới được sắc
phong. Ba tôi thường cho người nghèo trong làng thóc, gạo, tiền.
Ông sắm xe đạp, đèn pin cho hai anh Khương, Ninh lên vùng tự do ở Dương
Thuỷ cách làng bảy cây số học văn hoá. Ông có một ngôi nhà rường ba
gian hai chái lợp tranh, hai chiếc thuyền đánh cá cho khoảng 20 bạn nghề
đi biển kiếm ăn hàng ngày. Khi thiếu người đi biển, ông cũng
đi với các bạn nghề. Khi đủ người thì ông suốt ngày đi quăng
chài ven biển bắt cá đối, cá buôi, cá ong…Tôi nhớ có lần ông xách về cả đạy
( cái túi lưới) đầy cá đối cho mạ tôi chạy chợ. Ba tôi là người rất hăng hái
trong việc cúng Miếu thờ Thành Hoàng làng, Âm Hồn làng, cúng miếu thờ Cái
Voi ở Cồn Dinh… cầu mong thần linh cho làng xóm yên ổn, dân làng làm ăn
ngày càng khấm khá.
Nói đến tín ngưỡng thờ cúng, ở làng Thượng Luật của tôi từ năm 1957 trở
về trước có miếu thờ Thành Hoàng làng và nhiều loại miếu thờ thần khác ở
Rú Mạ, Rú Con. Đó là những khu rừng trên cát xanh tốt rậm rạp, nhiều cây
gỗ to và dây leo chằng chịt như rừng nguyên sinh ở phía bắc làng. Tuổi
thơ chúng tôi hay ra chui vào rừng để tìm tổ chím, hay háí
củi. Cứ rằm tháng Bảy, bà con ngư dân làng tôi thường có lễ cúng thắp nhang ở các
miếu thờ này. Nhưng lớn nhất là Âm Hồn và miếu thờ cá Voi ở Cồn
Dinh. Âm Hồn là một khoảnh đất vuông vắn ở đầu làng, có bệ thờ, bàn cúng
dùng để làng cúng tế những người chết thiêng, chết đường chết chợ, chết trôi
trên biển…, nghĩa là chết không có mồ mả, nên hồn lang thang khắp nơi , quấy
rối cuộc sống trần gian. Mỗi năm cứ đến ngày xá tội vong nhân ( rằm tháng Bảy)
là cả làng đóng góp tiền bạc gạo thịt để cúng tế. Còn Cồn Dinh là một cái
cồn đất cao to đắp bằng đất thịt gánh từ trong miền nông ra, do
triều đình Nhà Nguyễn sức dân đắp để làm trạm thông tin liên lạc đường biển.
Khi có tình hình gì đặc biệt xuất hiện, hay có giặc giã thì đốt lửa báo
hiệu. Từ Huế ra rất nhiều Cồn Dinh như thế. Thông tin từ cồn này
truyền qua cồn khác. Triều đình đốt lửa báo cho địa phương, hay địa
phương đốt lửa báo về triều tình, theo ám hiệu sẽ biết chuyện dữ hay
lành. Nhờ đó mà triều đình biết sớm để đối phó. Đường bộ cũng có các Dinh để
làm trạm ngựa chạy thư. Như Dinh 10 ở huyện Quảng Ninh quê nhà thơ Nguyễn Xuân
Sanh là một trạm ngụa triều đình mà cái tên còn đến hôm nay. Năm đó
ở làng tôi có con cá voi lớn dạt vào mắc cạn rồi chết. Cá voi , gọi là Cá Ông
là loại cá thiêng, ngư dân không bao giờ ăn thịt mà làm lễ tang chôn cất
đàng hoàng. Trưởng thôn phải đội mũ rơm, chống gậy đi trước như đưa đám
ông bà vậy. Vì thế ở Cồn Dinh có một cái mộ Cá Ông và làng lập cái miếu
thờ. Nghe nói miếu thiêng lắm. Nhưng thiết chế văn hoá tín ngưỡng tâm linh đó
tạo ra những quy tắc, tập tục sống và ứng xử của cộng đồng dân làng
Thượng Luật rất chặh chẽ. Nhưng rồi chính quyền cách mạng lúc đó cho là
mê tín dị đoan nên cho dân quân đập phá tan tành tất cả các miếu thờ, Âm Hồn
cũng không cho cúng nữa. Những Miếu thờ thần linh chôn vùi xuống
cát. Làng tôi vô thần từ đó. Tôn ti trật tự theo thiết chế tín ngưỡng
tâm linh bị đảo lộn. Vô thần nên lũ ma cô không còn sợ ai. Và làng
tôi cũng tan nát, xác xơ từ đó ! Rú Mạ, Rú Con bị chặt phá tan tành, bây
giờ không còn dấu vết.. Cồn Dinh, Mộ Cá Voi không ai lo trồng cây bảo vệ
nên bị sóng biển tấn công sạt lở, rồi biến mất ! Làng tôi mất dần
màu xanh, cộng thêm máy bay Mỹ ném bom huỷ diệt mấy lần, làng trở
nên xác xơ hoang lạnh như trên sa mạc.
Trở lại chuyện ba tôi. Ông coi tử vi , đoán vận hạn , biết mình sắp bị
nạn lớn vào tuổi 53 , nên ba rôi lặng lẽ lên xã xin đổi tên bốn anh
em tôi là Ngô Văn Thạnh, Ngô Văn Thường, Ngô Văn Cường, Ngô Văn Cần ( ông là
nhà nho, đặt tên con theo chữ nho, Thạnh-Thường-Cường Cần - tức là
gia đình khả giả là nhờ lao động cường cần mà có ) thành Ngô
Văn Khương, Ngô Văn Ninh, Ngô Văn Khôi, Ngô Văn Phục . Khương – Ninh-
Khôi- Phục – nghĩa là hai anh đầu phải vững vàng chắc chắn để hai em
sau tựa vào đó mà phục hồi danh dự gia đình. Tôi tên khai sinh là Ngô Văn
Cường, sau đổi là Ngô Văn Khôi . Khi đi học tôi học theo bọn trẻ trong
làng đổi thành Ngô Minh Khôi. Thế mà sau này thấy tôi học giỏi, thành đạt, là
người đi đại học đầu tiên của xã, lại là nhà văn , nên mấy thế hệ
con cháu của tám nhánh họ Ngô ở làng tôi sau này đều lấy chữ lót
khi làm giấy khai sinh là Ngô Minh…cả.
Năm 1956 , quả nhiên ba tôi bị đại nạn thật. Ông bị nạn lúc 53 tuổi. Bốn
chín chưa qua, năm ba đã tới. Một buổi chiều, một tốp dân quân
súng ông giương lê , mặt sát khí đằng đằng đến nhà bắt trói giật
khuỷ tay ba tôi và anh Khương dẫn đi cùng với các ông Ngô Văn Thung, Ngô
Văn Dung , Ngô Văn Toản ở xóm Thượng Nam, là những người chẳng phải giàu có gì,
nhưng tương dối có của ăn của để và có chữ nhất làng. Sau này tôi mới hay
họ bắt địa chủ theo chỉ đạo của Đội Cải cách Trung ương theo tỷ lệ 5% dân
số. Họ xô ba tôi về phía trước. Ba vừa đứng thẳng lại để giữ thăng
bằng họ lấy báng súng thúc , quát nạt:” Thằng địa chủ cường hào ni, mày chống
cự hả !”. Tôi lúc đó mới bảy tuổi, không thể hiểu được tại sao ba tôi
hiền lành và đàng hoàng thế lại bỗng dưng tai ương ập đến khủng khiếp như
vậy. Anh Khương lúc đó mới 17 tuổi cũng bị bắt trói khuỷ tay dẫn đi. Họ bảo là
bắt bọn địa chủ cường hào ác bá theo Quốc Dân Đảng. Họ lấy
luôn tất các tấm ảnh ba tôi chụp đây đó và cả cái tráp đựng các tập
giấy bổi ghi chữ Hán của ông . Họ cho đó là tài liệu phản động Quốc Dân
Đảng. Sau này lớn lên tôi nghĩ đó có khi là những bài thơ ông
sáng tác. Từ đó đến nay gia đình tôi không có ảnh ông để thờ. Họ
giam ba và anh tôi trong một căn nhà tranh lụp xụp cuối xóm trong. Mỗi
người bị bắt họ giam một nơi . Sau một thời gian họ tha cho anh Khương về . Có
lẽ vì anh lúc đó mới 17 tuổi, chưa đến tuổi vị thành niên.
Tôi đến thăm ba, thấy ba bị cùm cả hai chân, ngồi một chỗ không đứng lên được.
Ba nhìn tôi nước mắt lưng tròng. Ông quàng tay ôm tôi vào lòng liền bị
tên đội quát :” Đụ mạ, thằng địa chủ cường hào kia…”. Cái cùm cùm ba tôi là một
thanh ván gõ lên nước đỏ au, khoét hai lỗ thò bàn chân vào được,
rồi họ xẻ dọc, một phía đóng chốt, một phía bắt khoá. Người ta làm
ăn thì đói rách, ngu đần, nhưng nghĩ ra cách hại người thì vô cùng giỏi.
Người bị cùm phải mở được khoá mới co chân lại được. Tôi đọc sách Tàu
nghe nói đến gông-cùm mà chưa hình dung ra nó như thế nào. Đi bới cơm cho ba bị
bắt, tôi mới biết hình thù cái cùm . Cùm là thứ để xích chân, còn gông là
thứ để xích cổ, dành cho người tù khi bị giải đi . Một lần mạ
tôi vắt cơm để tôi đi bới cho ba. Mạ dặn là trưa đứng bóng mới đi . Nhưng tôi
nhớ ba, muốn đi sớm. Thế là xách mo cơm chạy. Đến cửa , thằng lính Đội đứng gác
đỏ mặt dang tay quát :
-
Mày đi mô ?
- Dạ
con mang cơm cho ba?
- Đồ
con địa chủ, chưa tới giờ . Đến để tiếp tế tài liệu cho bọn phản động cường hào
hả ?
Nói rồi nó tung chân đá mo cơm
trong tay tôi bay xuống cát. Những hột cơm, những con cá nục mạ tôi kho bay
tung toé trên cát. Tôi ôm mặt khóc chạy về nhà sà vào lòng mạ. Thế là hai
mạ con cùng khóc. Tôi không biết thái độ ba tôi như thế nào khi ông ngồi
trong chỗ giam nhìn ra sân thấy cảnh con bị đá như thế. Chắc là ông
đau lòng lắm.
Trong tuổi thơ tôi đó là lần đầu tiên tôi biết thế nào
là cái ác, thế nào là người ác. Không phải người ác làm sao lại thất nhân
tâm đến vậy ? Ký ức đó tạc vào tâm khảm, đến già cũng không phai. Mỗi lần nhớ
lại là nổi gai ốc. Ngôi nhà rường ba gian hai chái ba tôi đổ bao
nhiêu công sức, tiền của để làm bị Đội tháo dở, chia “quả thực” cho bần cố
nông. Người kèo, người cột, kẻ xuyên, trếng, rồi bàn khoa, cửa đố,
rồi đôi câu đối sơn son thếp vàng trên gỗ..., họ giành nhau từng
tấm phản, tháo ra vác chaỵ như vớ được vàng . Làng tôi nghèo, chỉ nhà tôi
cùng vài nhà nữa mới có sàn nhà bằng ván gỗ , còn cả làng là nhà gỗ
dương lợp cỏ rười, trong nhà toàn cát, nên cướp được tấm phản họ mừng
lắm. Họ tranh nhau xúc sạch cả rương thóc, gạo nhà tôi. Mạ tôi van lạy “ Lạy
các ông các bà, Xin các ông các bà cho mạ con tui lại một ít cấu
(gạo) để sống…”, mà chẳng ai thèm nghe. Mấy thùng đựng muối họ cũng khuân
ra sân chia nhau vung vãi. Còn các loại nồi đồng, mâm đồng, thạp đồng,
mâm thau, chậu thau, bát sứ Giang Tây, rồi mấy bức hoành phi, câu đối
treo ở cột nhà.v.v… Cả bộ ngũ sự trên bàn thờ tiên tổ nhà tôi hàng
trăm bần cố nông xông vào cướp giật, tranh giành, đánh nhau chí choé. Tay
nào là rễ, chuỗi ( từ chỉ cơ sở nồng cốt của Đội cải cách, từ cội rễ
mới xâu chuỗi ) thì được chia nhiều thứ hơn. Đội bắt mạ con
tôi phải xuống ở nhà bếp . Hai chiếc thuyền lưới thì bị
tịch thu đưa cho bần cố nông đi biển . May họ không biết chữ , nên tủ
sách ba tôi để lại họ chỉ vứt lung tung chỏng chơ đầy sân cát để
lấy cái kệ tủ , phá ra từng mảnh chia nhau. Sau khi họ đi rồi, mạ tôi
nhặt lên vuốt ve từng cuốn sách rồi xếp vào những cái thúng rách…Hồi đó
ba tôi mua sách nhiều lắm. Những Hồng Lâu Mộng, Rừng thẳm tuyết dày,
Tam quốc diễn nghĩa... của Trung Quốc, những Dế mèn phiêu lưu ký
của Tô Hoài, Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, Người người lớp lớp của
Trần Dần, Bỉ Vỏ của Nguyên Hồng, Đoạn Tuyệt của Nhất Linh, Tố
Tâm của Hiàng Ngọc Phách, Bức Tranh Quê của Anh Thơ, Truyện Kiều
, rồi những cuốn truyện thơ Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa.v.v..
Những sách đó ba tôi mua mỗi khi đi chơi Đồng Hới, hay đi họp lý trưởng ở Huế.
Nhìn cảnh đi tranh giành quả thực, tôi cứ nghĩ đến một lũ ăn mày đói khát
lâu năm đang vớ được cái ăn trên trời rơi xuống. Thật khốn khổ cho những kiếp
người ! Sau này hỏi các ông già trong làng tôi mới biết, Đội trưởng Đôị Cải
cách ruộng đất là do Trung ương cử về, không qua tỉnh, huyện. Họ có
toàn quyền giết ai, tha ai, ngủ với cô nào.... Họ vẫy tay là con
gái nhà lành tối tối phải hiến thân cho họ. Đúng là trên Đội dưới Trời ,
không có ai to hơn.
Sau đó ba tôi bị dẫn đi hết nới này đến nơi khác đấu tố. Đội Cải cách mở lớp
“học tập”, dạy cho các“chuỗi rễ” cách chỉ tay vào mặt, cách tát, cách giơ nắm
đấm và từng câu đấu tố địa chủ để học thuộc. Người này thì đấu tố
nội dung này, người khác thì chửi bới nội dung khác. Tất cả các câu hỏi
và đấu tố đều được Ban Cải cách Trung ương soạn sẵn từ Hà Nội. Những người đấu
tố toàn lũ trẻ hai lăm bốn mươi tuổi. Các ông bà già bảy tám chục ,
hiểu sự đời, thì nhìn ba tôi bị đấu tố là quay mặt đi. Mà toàn bọn
tố điêu, vu khống. Tôi không hiểu tại sao họ lại dạy cho con người lấy chuyện
điêu toa, dối trá, vu khống trắng trợn người khác làm lẽ sống như thế ?
Chuyện đấu tố địa chủ đã làm cho cuộc sống làng quê ngàn đời bình yên,
thân thuộc bỗng dưng bị tan tác, chia rẻ, nghi kỵ, thù oán lẫn nhau . Cả
làng tôi từ ngày có Đội bỗng tắt ngóm tiếng cười đùa , tiếng hát. Cả làng như
có tang. Đêm đêm gió nồm thổi qua rặng dương liễu ù ù như
ngoài chiến địa. Bọn con trai thì tố “mày bóc lột tao”, “mày đánh
đập tao”,” mày là thằng chó đẻ”… Con gái thì tố “mày cho tao ăn cơm thiu thối”,
“mày hiếp tao lần này lần khác”, dù mặt mũi , thân hình họ không mảy may làm
cho bất cứ người đàn ông xúc động. Có đứa phụ nữ còn tốc váy lên
vừa vỗ bôm bốp vào hĩm vừa chỉ vào mặt ba tôi rủa :” Dòng họ nhà mày răng
bằng cái l. của bà ! Trí , phú , cương , hào đào tận gốc, tróc tận
rễ…”…Những người mà cả gia đình họ hàng mấy chục năm sống nhờ vào thuyền
lưới , cơm cá nhà tôi cũng tố :” Mày bòn rút xương tuỷ nhà tao”, “tao nghèo là
do mày “.v.v..Điêù kỳ lạ là những đứa tố điêu, vu khống chẳng hề biết ngượng
ngùng, xấu hổ là gì. Họ tố điều gì ba tôi cũng bị Đội bắt phải cúi
đầu xưng :“Dạ. Thưa ông . Con biết”. Mỗi lần ba tôi im lặng không
nói tức thì báng súng thúc vào hông :” Đồ địa chủ ác bá, sao mày không
đội ơn ông nông dân đi con !”. Ba tôi khi bị dẫn đi gặp ai Đội cũng bắt
phải cúi đầu thưa “ Thưa ông , thưa bà nông dân”. Những ngày đó mạ con tôi
chẳng dám ra đường.
Sau năm tháng gông cùm, tra khảo, đấu tố, sáng ngày mùng 6
tháng 5 âm lịch năm 1956, họ đưa ba tôi ra đầu làng xử bắn. Có người chứng
kiến cuộc xử bắn “địa chủ” kể lại rằng : Đội bắt người đi
chặt cây tre to làm cọc chôn sâu xuống cát. Họ trói ba tôi vào cột, bịt
mắt. Một tiểu đội du kích 12 người cầm súng trường đứng cách mấy mét. Không có
bản án tử hình được công bố, không có bản luận tội. Phạm nhân không được
tự bào chữa, hay thuê luật sư bào chữa. Sau mười hai phát đạn nổ định
tai, cha tôi gục xuống. Máu tươi lênh láng cát làng. Lúc đó mạ con tôi ở
nhà, vì Đội cấm không cho ra nơi xử án. Nghe tiếng súng nổ, mạ tôi khóc
nấc lên, ngất lịm đi rồi bỗng khóc gào thật to, hai tay bới cào tay
xuống cát. “Ôi ông ơi, sao ông sống hiền hậu, nhân đức thế mà người ta nỡ
giết ông, ông ơi”, “Trời ơi sao trời lại sinh ra bọn quỷ mặt người độc ác
như thế, trời ơi , Trời có biết không ?” Hình như mạ tôi muốn gào
bới cho Trời Đất nghe thấy nỗi đau đớn oan khiên này.
Sáng hôm sau thì người chạy thư trên huyện đưa
về cái lệnh ”dừng việc xử bắn địa chủ”. Thế là mấy cụ bị bắt cùng ba tôi
như hai ông Huyên, Hứa ( Ngô Văn Thung, Ngô Văn Dung), ông anh con cô con cậu
với tôi là Ngô Văn Toản thoát án xử tử hình. Từ đó tôi đến trường
với cái biệt danh: “con địa chủ bị bắn trong CCRĐ”. Đội Cải cách bắn ba
tôi xong họ bó vào mảnh chiếu rách rồi chôn lấp sơ sài ở một góc đồi cát. Sau
khi dừng chuyện cải cách, bắn giết, mấy ông anh con bác và anh Khương
mới đưa hài cốt ba tôi về chôn ở cuối khu mộ của các cố tôi.
Nghĩa là ba tôi chết không có một mảnh ván quan tài, không có điếu văn, tang
lễ, không có trống kèn đánh thổi, không có con cháu khóc lóc tiễn đưa như
tất cả những đám tang ở làng tôi hồi ấy. Sao sô phận của ba tôi lại bi thảm đến
thế hỡ trời!. Sao lại có bọn người gọi là “cách mạng” mà lại giết hại cả những
người từng hết lòng ủng hộ sự nghiệp của mình như vậy ? Cho đến tận bây
giờ tôi vẫn không thể hiểu nổi.
Những ngày đó ai tiếp xúc với gia đình tôi đều sợ bị
liên luỵ. Bà con họ hàng nội thân nhà tôi như gia đình anh Thiểu, anh Hiểu, chỉ
Hổ, chị Hỷ… đêm đêm thường lén lút cho con cháu mang sang cho mạ tôi khi
năm ba lon gạo, khi vài củ khoai, khúc sắn, khi chục con cá nục. Phải lén lút
đợi khuya mới ném vào góc lều, vì Đội cấm. Lính của Đội canh gác, rình
mò ghê lắm. Ai mà tiếp tế cho địa chủ cường hào cũng là kẻ thù của
giai cấp, sẽ bị tiêu diệt, gia đình sẽ bị bắt ngay. Anh Ngô Tấn Ninh, lúc đó 12
tuổi hỏi mạ:” Tại sao gia đình mình có tí thuyền lưới hơn người, lại bị
giết hở mạ ? Có phải họ ghen tức vì không được như nhà mình ?”. Mạ
bảo :” Đội thì biết gì mà ghen với tức. Đội muốn giết ai thì giết
!”
Làng tôi có anh Hảo. bà con gọi là Hảo Điên. Do thất tình với một người
đẹp trong làng anh bị điên. Đêm ngủ , anh mơ gì đó , thế là bấu, rựt đứt
luôn con cu của mình, phải đi viện cấp cứu . Từ đó suốt ngày anh cởi
truồng đi khoe con cu cụt khắp xóm Thượng Bắc, Thượng Nam, múa hát và
đái. Mỗi lần anh đái phải ba tiếng đồng hồ mới xong, vì lỗ đái bị
tịt. Theo tôi thì anh Hảo không hoàn toàn điên. Vì có một buổi sáng
đàn ông cả làng tôi ra biển. Không hiểu lửa củi thế nào mà nhà tay xã đội
trưởng bốc cháy đùng đùng. Đúng lúc đó anh Hảo đi ngang qua. Thấy lửa ,
anh liền xông vào khuân hết súng và cả thùng lựu đạn ra bỏ dưới gốc
cây dương liễu, rồi lại đi xăng xái múa hát như không có chuyện gì
xảy ra. Không có anh hôm ấy, lựu đạn mà nổ thì nhất định không ít người
trong xóm thương vong. Mỗi khi đi ngang sau lưng lều tranh của mẹ con tôi
bao giờ anh cũng cười khanh khách , rồi chửi lớn :” Tiên sư bọn ngu dốt,
người giỏi bây giết thì ai bày cho cách làm để có cái mà đút vào
mồn hả !”.Anh vung tay chửi đi chửi lại rồi lại cười hực hực.
Chửi xong anh lại vắt chiếc quần nâu lên vai, ngồi bệt
bên lối đi đái tới chiều. Vì anh điên nên Đội Cải cách chẳng làm gì được
anh cả. Bảo đi đấu tố anh cũng chẳng đi.
Lại
có anh tên là Chắc, một tay thơ phú vần vè, nói lối giỏi nhất làng, khi vừa có
lệnh “ngừng bắn địa chủ”, đã không còn đấu tố nữa , anh đi đường hát
nghêu ngao mấy câu đồng dao tự anh ứng tác :
Người giỏi thì giết
Thằng đần lên ông
Rồi thì bốc cứt
Mà ăn ơi làng…
Người giàu thì giết
Thằng bần thì nuôi
Rồi thì chết đói
Cả làng mất thôi…
Người giaù giết hết
Cả nước bần hàn
Đời chi lạ rứa
Ơi giống Lạc Hồng…
Cũng phải nói thêm điều này: Đáng lẽ diệt được địa chủ cường hào
rồi, ruộng đất, thuyền lưới về tay nông dân rồi thì họ sẽ no đủ hoặc
giàu có lên mới phải chứ. Nhưng không . Tất cả những người đã hăng
hái đấu tố, được chia nhiều quả thực từ gia đình tôi , sau
đó họ không giàu lên mà cứ nghèo dần đi. Nghèo quá phải
mang mấy thứ quả thực Đội chia cho đi chợ bán kiến tiền đong
gạo nấu cháo ăn qua ngày. Nghèo đến độ chỉ năm sau họ lại đến nhà xin mạ
tôi từng lon gạo. Thuyền lưới nhà tôi bị tịch thu đưa cho bần cố nông, nhưng họ
không biết quản lý, không có vốn để sữa chữa, đại tu, không tiền để mua
lưới mới rồi thuyền trở thành củi mục , lưới thành tả rách từ bao
giờ không ai biết nữa. Thế là Cải cách ruộng đất bị biến thành cuộc sát
phạt những trí thức, người giàu có, chứ chẳng có ý nghĩa “người cày
có ruộng” gì cả !. Sau này đọc sách báo, tôi mới biết cuộc sát phạt
này bắt nguồn từ tư tưởng “đấu tranh giai cấp” của Quốc Tế Ba do Stalin chi
phối. Sau chiến thắng phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới thứ II, Stalin đã
ra lệnh giết hại hoặc bắt đi đày tận Xibêri cho đến chết hàng chục
vạn trí thức ưu tú của Nga vì ông nghi ngờ trí thức luôn đối lập, không
theo đường lối đấu tranh giai cấp của mình. Rồi đến Mao Trạch Đông
ở Trung Quốc với hàng chục cuộc thanh trừng như “Cải cách ruộng
đất”, “chống phái hữu” rồi “Cách mạng văn hoá” đẫm máu và nước mắt. Hàng
mấy chục triệu trí thức Trung Quốc bị giết, bị đưa đi cải tạo lao động
rồi chết dần chết mòn ở các vùng nông thôn hẻo lánh. Tư tưởng độc tài này
phát triển cực điểm ở Cămpuchia khi Đảng gọi là Cộng sản của tên đồ tể Ponpot
lên nắm chính quyền sau năm 1975. Hơn hai triệu trí thức, người dân thành thị
Cămphuchia đã bị tàn sát thảm khốc bằng cuốc, xẻng, dao rựa đập vào đầu, tạo
nên những cánh đồng chết, những hồ chôn người tập thể. Thật khủng khiếp. Ở nước
ta bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên là “địa chủ” bị xử bắn đầu tiên năm 1953. Bà
Năm là một địa chủ giàu có nhưng vô cùng yêu nước. Bà đã giúp
đỡ cách mạng nhiều tiền ,vàng. Bà nuôi trong nhà rất nhiều cán bộ
là lãnh tụ của Việt Minh. Rứa mà Đội Cải cách đem bà Năm ra xử bắn. Chủ tịch Hồ
Chí Minh can :” Chẳng lẽ cách mạng ruộng đất lại mở đầu bằng việc giết một phụ
nữ, lại là người đã giúp đỡ cách mạng ?” . Đội lĩnh ý Cụ Hồ, mang
hỏi các ông cố vấn Tàu. Cố vấn phán :” Giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Thế là
bà Năm bị tử hình. Câu chuyện này tôi đã nghe nhiều người kể , và mới đây
đã được nhà văn Nguyễn Khắc Phê đã viết ở trong tiểu thuyết Biết đâu địa
ngục thiên đường vừa xuất bản của ông. May mà Cụ Hồ đã phát hiện ra sai
lầm, ra lệnh dừng việc đấu tố bắn giết địa chủ đang làm tan nát nông thôn
. Sau đó tiến hành mấy đợt sửa sai. Sửa sai cũng chỉ hô hào,
rồi đổi thành phần là địa chủ xuống trung nông, chứ nhà
cửa, tài sản, danh dự chẳng ai trả lại cho ba mạ tôi cả. Phải nói
rằng, ba năm CCRĐ, nông thôn miền Bắc đã mất đi hàng vạn người giỏi : lao
động giỏi , kinh doanh giỏi, học hành giỏi, là chỗ dựa vững chắc
cho cuộc mưu sinh của bà con nông dân ở các làng quê. Vì cả
miền Bắc lúc đó có hàng vạn làng, mà mỗi làng như làng Thượng Luật quê
tôi có tới 4 người bị quy là địa chủ , bị bắt giam cầm và đấu tố
đều là người giỏi, trí thức của làng. Nếu không dừng việc đấu tố, mà cứ
nghe theo lời các cô vấn , chắc chắn nông thôn miền Bắc sẽ hàng vạn người
làm ăn giỏi bị giết. Cầu mong Trời Phật làm sao trên đất nước thân yêu này
không sinh ra bọn Đội quyền cao hơn Trời ấy một lần nữa !
Điều tâm linh nữa là tất cả những người du kích đã cầm súng
bắn vào ba tôi trong cuộc xử án hôm đó, sau này hầu hết đều
chết vì bị bom đạn chiến tranh. Có người bị chết cả nhà một lúc. Có người
sống đến hoà bình lại chết vì cá mập trên biển. Hương hồn ba tôi nhân
hậu, thương người chắc là ông không bao giờ trả thù ai. Nhưng lưới trời lồng
lộng. Những kẻ ác không bao giờ thoát khỏi lưới trời trừng phạt.
Người ta gọi đó là “quả báo” hay “ác giả ác báo”. Trong số những người du
kích cầm súng xử bắn ba tôi thời đó, có một người còn sống đến hôm nay,
lại trở thành sui gia với gia đình anh Ngô Tấn Nình. Hai bên gả con cho
nhau và sống hoà thuận, sinh cháu ngoan hiền vui vẻ. Có giỗ chạp gì hai
nhà lại đến cùng nhau. Có lẽ lúc đó ông ta đã bắn không trúng hoặc
chỉa súng bắn lên trời chăng ? Điều đó minh chứng rằng, anh em
chũng tôi không hề lấy việc đau thương mất mát của gia đình làm thù oán. Nhưng
cuộc sống bao giờ cũng có quy luật của nó : Ở hiền gặp lành ! Đó là
điều mạ tôi thường dạy anh em tôi mỗi tối.
Những tháng ngày khổ đau buồn bã đó,
đêm về mạ tôi thường mời anh Yêng , một người có giọng ngâm thơ rất tốt
vào nhà cùng anh Khương đọc Truyện Kiều, truyện thơ Phạm Tải Ngọc
Hoa, Tống Trân Cức Hoa hay Lục Vân Tiên cho mạ nghe. Mạ
vừa nghe thơ vừa bỏm bẻm nhai trâù. Dường như thơ đã an ủi chia
sẻ với mạ những tang thương gia đình. Nhưng lúc đó tôi luôn
ngồi bên mạ. Những âm điệu buồn của giọng ngâm thơ của anh Yêng đã ngấm
vào tâm hồn tôi từ bao giờ…
( trích sách 100 NGÀY VƯỢT TRƯỜNG SƠN)
No comments:
Post a Comment