Sat, 10/12/2013 - 10:43 —
ledienduc
Cây cổ thụ cuối cùng của thế hệ Hồ Chí Minh đã đổ. Không
phải vì một trận cuồng phong, bão tố, mà vì đã sống mòn mỏi quá lâu, sang năm
thứ 102. Không bất ngờ. Cái bóng hoàng kim phủ rợp một thời của ông cũng đi
theo xuống mồ.
Nhất tướng công thành vạn cốt khô
Đại tướng Võ Nguyên Giáp gắn
liền tên tuổi mình với chiến thắng Điên Biên Phủ chấn động địa cầu,
buộc thực dân Pháp phải ra khỏi Đông Dương, trở thành bài học quân sự của
thế giới.
Những năm 50-75 của thế kỷ
trước là một thời rực rỡ của một danh tướng không thông qua trường lớp quân sự
nào, từ một trí thức bình dân trở thành đại tướng. Ông là biểu tượng của chủ
nghĩa dân tộc, bất khuất chống ngoại xâm, với kẻ thù mạnh hơn nhiều lần vẫn
quyết tâm "chiến thắng bằng mọi giá".
Học giả, chính khách nước ngoài
đã có những đánh giá tích cực về ông, nhưng bên cạnh cũng có những phân tích
khác.
Hãng thông tấn AP:
"Võ Nguyên Giáp, vị tướng
tự đào tạo tài ba, người đã đánh đuổi quân Pháp ra khỏi Việt Nam, giải phóng
nước này khỏi chế độ thực dân và sau đó khiến người Mỹ phải từ bỏ nỗ lực cứu
vãn Việt Nam khỏi chủ nghĩa cộng sản, đã qua đời. Ở tuổi 102, ông là người vệ
binh cách mạng cuối cùng thuộc thế hệ cũ của Việt Nam".
Chia buồn trước sự ra đi
của tướng Giáp, ngày 5/10, Ngoại trưởng Pháp Laurent Fabius ca ngợi ông
là "một người yêu nước vĩ đại", "một người lính vĩ
đại" và "một con người phi thường" trong công cuộc đấu
tranh giành độc lập cho dân tộc.
Tờ New York Times mô tả ông là
"một người rất lôi cuốn và hoạt bát, một nhà quân sự uyên bác và một người
theo chủ nghĩa dân tộc quyết liệt. Ông có thể dùng sức hút của bản thân để lên
tinh thần cho quân sĩ, làm bùng cháy trong họ sự sẵn sàng cống hiến cho đất
nước. Những người hâm mộ ông đặt ông ngang hàng với MacArthur, Rommel và những
chỉ huy quân sự vĩ đại khác của thế kỷ 20".
Edward
Miller, Phó Giáo sư, khoa Lịch sử, Damourth Collage, Hoa Kỳ:
"Đại tướng Võ Nguyên Giáp
từ lâu được ca ngợi ở Việt Nam và cả trên thế giới như thiên tài quân sự. Không
thể phủ nhận các thành tích chiến trường của ông thật phi thường. Ông đóng vai
trò chủ chốt khi Việt Minh giành quyền lực hồi Cách mạng tháng Tám 1945. Đó là
cuộc cách mạng cộng sản thành công thứ hai trong lịch sử, sau Cách mạng Nga
1917".
"Bên cạnh đó, thắng lợi
của ông Giáp ở trận Điện Biên Phủ năm 1954 là sự kiện bước ngoặt không chỉ
trong lịch sử Việt Nam hiện đại mà cả trong lịch sử phi thực dân hóa của các nước
miền nam (chỉ châu Phi, châu Á và Mỹ Latin)".
Trong khi đó, Jay Elwes trong
bài "Võ Nguyên Giáp" trên Prospect
Magazine, Anh quốc:
"Giáp là một chiến lược
gia quân sự tự học tài năng bao la và nhà một lãnh đạo, người đã giành chiến
thắng và giải pháp chính trị vào năm 1954, tạo các tình huống dẫn đến cuộc
chiến tranh với Hoa Kỳ 1965-1975. Như vậy, ông là trung tâm của cuộc xung đột
mạnh nhất, gây nên tổn hại và tranh cãi của Chiến tranh Lạnh.
Ông cũng là một nhà tư tưởng
tàn bạo, người đã nướng một số lượng lính rất lớn trong việc áp dụng chiến
thuuật biển người hoang phí. Cuộc sống của tướng Giáp được làm nên bởi cuộc
cách mạng, chiến tranh và sự mất mát và đau khổ gần như không thể tưởng tượng.
Nhưng ông cũng là người chiến thắng".
Tờ Wall Street Journal:
"Võ Nguyên Giáp là một bậc
thầy về hậu cần, nhưng danh tiếng của ông thì còn bắt nguồn từ nhiều thứ khác.
Những chiến công mà ông giành được là nhờ vào một chiến lược kiên trì mà ông và
Hồ Chí Minh tin chắc là sẽ thành công – một quyết tâm sắt đá là chấp nhận tổn
thất khổng lồ và sự tàn phá gần như toàn bộ đất nước để đánh bại mọi kẻ thù,
bất kể chúng hùng mạnh đến đâu. “Các bạn giết 10 người của chúng tôi thì chúng tôi
cũng giết một người của phía bạn”, ông nói, “nhưng cuối cùng, các bạn sẽ mệt
mỏi với điều đó trước chúng tôi”.
Cũng Phó Giáo sư, Khoa lịch sử,
Hoa Kỳ, Edward
Miller:
"Chúng ta nên nhớ rằng
Tướng Giáp, giống như nhiều viên tướng vĩ đại trước ông, đã mua các chiến thắng
với giá khổng lồ, và cũng suýt thất bại. Nghiên cứu gần đây cho thấy lực lượng
Việt Minh chịu thương vong to lớn ở Điện Biên Phủ và suýt nữa bị đánh bại tại
đó, giống như trong trận tấn công thất bại mà ông Giáp tiến hành ở đồng bằng
Sông Hồng năm 1951".
Tiến sĩ François
Guillemot, sử gia Pháp:
"Võ Nguyên Giáp với nhiều
người Việt Nam khác, những người chống cộng và lưu vong, xuất hiện như kẻ chủ
mưu của một cuộc chiến nhắm vào các đảng phái quốc gia dân tộc cạnh tranh với
Việt Minh trong giai đoạn 1945-1946".
"Chiến lược quân sự của
ông vốn tiêu tốn nhiều sinh mạng phụ nữ (cần nhấn mạnh điều này) và nam giới,
ngày nay vẫn được thế hệ trẻ đặt dấu hỏi. Bởi vì Điện Biên Phủ, bất chấp chiến
tích, là một cuộc xay thịt với cả hai bên và người Việt Nam đã trả một giá đắt
cho trận chiến này...".
"Chiến lược của ông không
phải là "chiến lược hòa bình" như ông đã nói với Dominique Bari, một
nhà báo của tờ Nhân Đạo (l’Humanité, tờ báo của Đảng Cộng sản Pháp) vào năm
2004, mà chiến lược của ông là để giành chiến thắng trong dài hạn cùng với một
cái giá về hy sinh nhân mạng cao không gì có thể so sánh được".
Tướng William C.Westmoreland
cho rằng, ông Giáp thành công vì "ông ta sẵn sàng chịu tổn thất lớn để
theo đuổi chiến thắng". "Bất kỳ một tổng tư lệnh nào của Hoa Kỳ mà
chịu tổn thất lớn như Tướng Giáp đều sẽ bị cách chức ngay tức khắc",
Westmoreland nói.
Dù thế nào đi nữa, bất luận có
nhờ trợ giúp của các cố vấn Trung Quốc, Nga, hay quyết định tập thể của lãnh
đạo đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) hay không, là Tổng tư lệnh tối cao, Võ
Nguyên Giáp đã đạt kết quả cuối cùng trong cuộc chiến. Danh vọng của ông cao
hơn cả núi xương máu của dân tộc. Cuộc chiến chống Mỹ 1954-1975 mà thực chất là
cuộc đỏ hoá miền Nam, kết thúc vào ngày 30/04/1975 với cái chết của khoảng 3,5
triệu lính và dân thường, cùng với nửa triệu người khác đã bỏ mình trên biển từ
hàng triệu người chạy trốn khỏi chế độ mà ông đã góp phần tạo dựng.
Một thời nhẫn nhục
Năm 1967, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ
muốn dùng “hiểm họa xét lại” để hạ bệ tướng Võ Nguyên Giáp.
Trong tiểu luận “Lê Duẩn, the
American War, and the Creation of an Independent Vietnamese State” Judith Stowe
nói rằng "do quá nguy hiểm nếu công kích cá nhân ông Giáp, nên ông Lê Duẩn
nhắm đến đội ngũ ủng hộ tướng Giáp, đặc biệt những người thân cận và trung thành
nhất trong hàng ngũ cấp cao của đảng và chính phủ".
Năm 1982 ra ông Giáp bị ra khỏi
Bộ Chính Trị, năm 1983 được phân công làm Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và
Sinh đẻ có kế hoạch và về hưu năm 1991.
Từ 1983, suốt 30 năm cuối cuộc đời, tướng Giáp sống cam phận, bị gạt ra
ngoài mọi quyết định quan trọng nhất của ĐCSVN.
Thực ra ông hoàn toàn có thể
khước từ chức vụ "coi đẻ" để giữ nhân cách và khí phách. Nhưng không,
ông vẫn muốn tồn tại, được yên thân trong những mưu mô và thủ đoạn tranh giành
ảnh hưởng quyền lực của đồng chí mình. Ông im lặng trước sự bất công đối với
các chiến hữu, xa lánh họ, dù họ rất cần đến tiếng nói bảo vệ của ông khi hoạn
nạn.
Bởi vì ông biết rằng, bất kỳ sự
kháng cự nào cũng sẽ bị phản công kịch liệt bởi các đối thủ chính trị, và vòng
nguyệt quế của ông sẽ bị tước bỏ. Thân phận ông sẽ thảm hại chằng kém gì các
chiến hữu bị đày đoạ trong lao tù mà không biết nguyên do, không án, thời gian
vô định. Chí ít ông cũng sẽ như trung tướng Trần Độ, một người bị khai trừ ra
khỏi đảng và trong lễ tang bị gỡ đi chữ "vô cùng thương tiếc" trên
các vòng hoa viếng. Ông
đã lựa chọn cách sống nhẫn nhục đến mức hèn nhát.
Tiến sĩ François
Guillemot đã viết:
"Ông cúi mình trước tất cả
các thử thách của đảng để không bao giờ phản bội Hồ Chí Minh. Đó là đường lối
hành xử của ông cho đến hết đời, gần như một nỗi ám ảnh. Sống đúng với giá trị
và cam kết của mình".
Vào lúc cuối đời, tướng Giáp có
trăn trở với những sự kiện xảy ra trên đất nước, ông ủng hộ kinh tế thị trường
theo định hướng chủ nghĩa xã hội.
Ông tỏ ra mềm mỏng hơn sau khi
chấm dứt cuộc chiến và Việt Nam thống nhất, ủng hộ cải cách kinh tế và bắt tay
với Hoa Kỳ, đồng thời công khai cảnh báo về ảnh hưởng lan rộng của Trung Quốc
và cái giá phải trả về môi trường cho công nghiệp hoá ở Việt Nam. Vì thế ông đã
ba lần viết thư gửi quốc hội đề nghị không khai thác bauxite Tây Nguyên. Ông
cũng không tán thành việc mở rộng thành phố Hà Nội ra Hà Tây và phá bỏ Hội
trường Ba Đình lịch sử. Tuy nhiên những đề nghị của ông đã bị bỏ ngoài tai.
Chẳng ai nghe ông. Người ta vẫn làm khác ý ông để trục lợi.
Bi kịch đất nước
Phóng viên Hoa Kỳ Tim Karr nói:
"Thật đáng tiếc là ông đã
không sử dụng uy tín vững như bàn thạch trong lịch sử dân tộc để đôi khi chỉ
trích hay đi chệch khỏi đường lối của đảng. Có vẻ như một phần đáng kể của lịch
sử hiện đại Việt Nam đã mất đi cùng với sự ra đi trong yên lặng của ông".
Ban lễ tang với những lãnh đạo
đảng và nhà nước cao nhất cũng không thể nào bù được sự hành xử bạc bẽo và
thái độ coi thuờng của họ với tướng Giáp.
Nhưng họ cũng đã khôn ngoan tận
dụng cơ thể khô héo của ông những ngày nằm viện và làm quốc tang ầm ĩ, tốn kém
chẳng phải tử tế gì với ông, mà muốn được chú ý tới thành tích chống Pháp-Mỹ
trong quá khứ và gỡ gạc tính chính đáng của mình trong bối cảnh uy tín của
ĐCSVN đang rệu rã.
Trong dòng người xếp hàng viếng
tướng Giáp tại Hà Nội, tôi tin rằng rất nhiều người bị u mê bởi chính sách tuyên
truyền về huyền thoại tướng Giáp, nhưng chắc chắn cũng có nhiều người khác quý
trọng ông thực sự, tiễn ông đi và nhớ lại ký ức của một khoảng thời gian lý
tưởng chẳng bao giờ còn nữa.
Sau chiến tranh gần 40 năm, đất
nước bị cai trị bởi một tập đoàn sâu mọt tham nhũng, làm hao mòn sinh lực nền
kinh tế, còn chủ quyền bị Trung Quốc đe doạ nghiêm trọng.
ĐCSVN hiện tại đã phản bội lại
mọi giá trị mà tướng Giáp đã chọn. Ông là vị tướng thất bại cay đắng trong thời
bình. 30 năm cuối cuộc đời ông là bi kịch, như bi kịch của dân tộc. Ông sống
khắc khoải đến chết và để lại bi kịch này.
Vĩnh biệt ông, vĩnh biệt
"Napoleon đỏ", một nhân vật bi hùng của lịch sử Việt Nam đau thương!
© Lê Diễn Đức - RFA
No comments:
Post a Comment