10/29/2013 02:38:00 PM
Việt
Nam có hai ông Võ Nguyên Giáp. Một ông Võ Nguyên Giáp đã chết từ năm 1984 và
một ông Võ Nguyên Giáp khác vừa mới qua đời. Hai ông Võ Nguyên Giáp về thịt
xương chỉ là một ông nhưng trong quan điểm của lãnh đạo CS lại là hai. Khi Võ
Nguyên Giáp còn sống đảng xem như đã chết nhưng khi Võ Nguyên Giáp tắt thở đảng
lại quyết định ông ta phải sống như một “anh hùng dân tộc”.
Ngày ông Giáp qua đời, các trang mạng “lề dân”, các
hãng tin quốc tế trong đó có BBC loan tin sớm nhất. Hai mươi bốn giờ đầu tiên,
tờ Nhân Dân và cả Thông Tấn Xã Việt Nam, hai cơ quan ngôn luận chính thức của
đảng CSVN không đưa tin ông Giáp từ trần. Lý do, Bộ Chính trị cần phải họp để
quyết định có nên cho phép ông Giáp chết chưa, chết như thế nào, chết ngày nào
và an táng ra sao.
Hơn một ngày sau, đảng quyết định Võ Nguyên Giáp “nguyên
Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Quân ủy Trung ương, nguyên Phó Thủ tướng
Thường trực Chính phủ; nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội
nhân dân Việt Nam; Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII…đã từ trần hồi 18
giờ 9 phút, ngày 4-10-2013 (tức ngày 30 tháng 8 năm Quý Tỵ), tại Bệnh viện T.Ư
Quân đội 108; hưởng thọ 103 tuổi.”
Thông cáo chỉ dài một trang nhưng cố tình viết sót.
Thông thường trong cáo phó hay tiểu sử, chức vụ cuối cùng là chức vụ chính thức
và các chức vụ khác trước đó được viết sau hay bỏ sót cũng không sao. Chức vụ
về mặt nhà nước cuối cùng trước khi nghỉ hưu của ông Giáp không phải là Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam mà là Phó Thủ
tướng kiêm Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ Có Kế hoạch chiếu theo
quyết định bổ nhiệm số 58/HĐBT do Phạm Văn Đồng ký ngày 18 tháng 4 năm 1984.
Khi đó ông đã rời chức Bộ Trưởng Quốc Phòng đến bốn năm. Một chức vụ cả thế
giới đều biết mà đảng còn giấu được nói chi những chuyện khác. Việc xóa đi chức
vụ lo phần sinh đẻ của ông Giáp là một cách thừa nhận chức vụ đó chẳng qua là
vết chàm nhục nhã do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đóng lên trán của ông Giáp.
Dù sao ông Võ Nguyên Giáp là một người may mắn. Khi
còn sống ông có nằm mơ cũng không nghĩ mình được ca ngợi, vinh danh và thương
tiếc nhiều đến thế. Ngoại trừ Hồ Chí Minh, những lãnh tụ CS cùng thế hệ không
ai được ca ngợi như ông. Việc chọn được an táng ở một nơi vắng vẻ thay vì nghĩa
trang Mai Dịch cho thấy tâm trạng của Võ Nguyên Giáp là tâm trạng của kẻ thua
cuộc và từ lâu đã bị bỏ rơi. Ngoài ra, chắc ông cũng cảm thấy khó chịu khi nghĩ
đến việc phải nằm cạnh Lê Duẩn, Văn Tiến Dũng, Trường Chinh. Nếu Võ Nguyên Giáp
chết vào đầu thập niên 1980 khi Lê Duẩn còn sống hay khi Đỗ Mười làm tổng bí
thư có lẽ cũng không hơn gì những sĩ quan cấp tướng khác như Lê Trọng Tấn
(1914-1986), Hoàng Văn Thái (1915-1986). Trường Chinh so với Võ Nguyên Giáp còn
cao hơn cả đảng tịch lẫn chức vụ nhưng khi chết cũng không được tổ chức đình
đám hơn.
Dưới
chế độ CS, khóc thương, nguyền rủa, ca ngợi hay phê bình kiểm thảo cũng đều có
chủ trương, có chính sách chứ không phải là một tình cảm tự nhiên. Tận diệt kẻ
thù còn sống nhưng lợi dụng mọi ảnh hưởng có lợi của kẻ thù đã chết cũng là một
trong những đặc điểm trong bộ máy cai trị CS khắp thế giới. Stalin khóc Sergey
Kirov, Fidel Castro khóc Ernesto “Che” Guevara, Đặng Tiểu Bình khóc Mao Trạch
Đông. Tình đồng chí trong giới lãnh đạo đảng CS chỉ có trong các điếu văn.
Cùng phát xuất một nguồn nên CSVN cũng chẳng tốt hơn
Liên Xô, Trung Cộng. Ca tụng kẻ chết không gây tác hại gì. Xác chết không nghe
được lời ca tụng, không nếm được mỹ vị cao lương, không sống trong các biệt thự
có kẻ hầu người hạ, chỉ có đám độc tài đang thống trị đất nước mới thật sự là
những kẻ hưởng thụ quyền lực, sống trong chiếc bóng những người đã chết. Họ đối
xử nhau còn tệ hơn giới giang hồ đâm thuê chém mướn. Danh vọng và quyền lực đã
làm mờ nhân tính trong con người họ. Lê Duẩn liên minh với Lê Đức Thọ để loại
Võ Nguyên Giáp, rồi Lê Đức Thọ tính hại Lê Duẩn ngay cả khi y đang nằm trên
giường bịnh vì không chịu viết di chúc truyền chức tổng bí thư. Đoàn Duy Thành
kể trong hồi ký Làm người là khó
, khi Lê Duẩn sắp chết con cái y còn lo cánh Lê Đức Thọ sẽ giết chết
hết cả gia đình.
Nhưng tại sao
lãnh đạo CSVN lại muốn Võ Nguyên Giáp tiếp tục sống như một “anh hùng dân tộc”
trong giai đoạn này?
Lãnh đạo CS cố dựng lại tấm bình phong chính danh lịch sử.
Như người viết đã trình bày trong bài Cách mạng dân tộc dân
chủ trong tình hình mới trên talawas trước đây, một câu hỏi
thường được đặt ra, tại sao các nước Cộng Sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ mà Cộng
Sản tại các nước Á châu như Trung Quốc, Việt Nam không sụp đổ. Mặc dầu mỗi nhà
phân tích chính trị có thể giải thích nguyên nhân một cách khác nhau tùy theo
góc độ họ đứng và mục đích nghiên cứu, đa số đã đồng ý rằng các nước Cộng Sản
tại Á Châu có một điểm mà các nước Cộng Sản Đông Âu không có, đó là sự liên hệ
lịch sử giữa dòng sống của đảng Cộng Sản và dòng sống của đất nước nơi đảng ra
đời. Đảng Cộng Sản Trung Quốc được thành lập 1921 trong cuộc kháng chiến chống
Nhật, đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời 1930 trong cuộc kháng chiến Pháp. Lãnh đạo
Trung Cộng và CSVN đã vận dụng tối đa mối liên hệ này.
Tại Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo CS
tại Trung Quốc biết rõ hơn ai hết, cây cột duy nhất có thể giữ chế độ CS khỏi
sụp đổ là tính chính danh lãnh đạo của đảng CS. Giáo sư Peter Hays Gries, một
chuyên gia về Trung Cộng, viết “Thiếu vắng tính hợp luật dựa theo thủ tục để
bầu ra các chính phủ theo các nguyên tắc dân chủ, và đối phó với sự sụp đổ của
hệ tư tưởng Cộng Sản, đảng Cộng Sản Trung Hoa gia tăng phụ thuộc vào các tiêu
chuẩn dân tộc để cai trị đất nước.”
Lãnh đạo CSVN sao chép toàn bộ lý luận của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc kể cả việc lợi dụng mối liên hệ lịch sử ngắn ngủi giữa đảng CS
và dân tộc để giải thích tính chính danh của đảng trong tương lai lâu dài của
dân tộc. Đừng quên, trong thời điểm chống thực dân Pháp, không phải chỉ có đảng
CS mà rất nhiều đảng, nhiều phong trào cách mạng khác ra đời từ nam đến bắc để
cùng đánh đuổi thực dân. Tuy nhiên, không có một phong trào nào, một đảng phái
nào trong cương lĩnh tự cho rằng vì họ đánh Pháp nên đảng của họ có đặc quyền
lãnh đạo cách mạng, đặc quyền lãnh đạo đất nước, không chỉ hôm nay và mãi mãi
về sau như đảng CSVN. Đó là lý luận của kẻ cướp nước.
Sau 38 năm cai trị, chưa bao giờ đảng CSVN bị phải
đương đầu với nhiều khó khăn như hôm nay. Ngoài sự phân hóa nội bộ và một nền
kinh tế suy sụp, những thành phần từng nhiệt tình ủng hộ đảng, chấp nhận chiến
đấu dưới sự lãnh đạo của đảng đang lần lượt ra đi. Nhiều trong số đó đang công
khai thách thức quyền cai trị của đảng. Hơn bao giờ hết, đảng cần sự ủng hộ của
quần chúng, và muốn vậy, phải hâm nóng lại chiêu bài yêu nước. Võ Nguyên Giáp
là những que củi cần thiết để đốt lên lò lửa “chống thực dân và đế quốc” đã
nhiều năm nguội lạnh. Giới lãnh đạo CS dùng chiếc khăn chính danh lịch sử để
bịt mắt nhân dân và đã nhiều lần chứng tỏ thành công. Giáo sư Archie Brown
thuộc đại học Oxford, Anh, cho rằng sở dĩ các chế độ CS tại Việt Nam, Trung
Quốc còn tồn tại vì khái niệm tình cảm dân tộc nhiều giai đoạn đã có lợi cho
CS.
Lãnh đạo CSVN đánh giá đúng trình độ của các thành phần bị tẩy
não.
Nếu so sánh Việt Nam, Trung Cộng và Bắc Hàn, Việt
Nam còn quá nhiều người bị tẩy não, mê muội và lạc hậu hơn cả Trung Cộng và Bắc
Hàn. Người dân Trung Hoa ít ra đã chứng tỏ cho thế giới thấy khát vọng dân chủ
của họ qua biến cố Thiên An Môn với một triệu người vùng dậy chiếm cứ khuôn mặt
của thủ đô Bắc Kinh suốt gần một tháng. Chế độ Cộng Sản tại Trung Hoa đang đi
trên lưỡi dao cạo, chỉ cần mất thăng bằng, mất kiểm soát sẽ bị đứt chân và rơi
xuống vực sâu. Khi dựng bức tượng Nữ Thần Tự Do làm biểu tượng cho cuộc đấu
tranh, các lãnh đạo của phong trào Thiên An Môn đã chọn dứt khoát một con
đường, đó là con đường tự do dân chủ và không có một con đường nào khác.
Bắc Hàn chìm đắm trong tăm tối, hoàn toàn bị cô lập
nhưng từ 1952 đến nay, mỗi năm vẫn có hàng ngàn người dân vượt thoát được khỏi
địa ngục Bắc Hàn bằng những cách vô cùng nguy hiểm. Một người Bắc Hàn vượt biên
bị bắt, nếu bị bắn ngay tại chỗ, là một may mắn. Không, phần lớn phải trải qua
những trận tra tấn vô cùng dã man, bị bỏ đói dần dần cho đến khi thân thể chỉ
còn máu và mủ. Hầu hết người bị bắt lại hay bị Trung Cộng trao trả về Bắc Hàn
đều bị giết. Tuy nhiên, những người dân Bắc Hàn đó đã chứng tỏ khát vọng tự do
là một quyền bẩm sinh trong mỗi con người từ khi mới chào đời, không ai ban cho
và cũng không cần ai chỉ dạy. Harvard International Review phỏng vấn anh Ji
Seong-ho, người đã vượt sáu ngàn dặm qua các nước Trung Quốc, Thái Lan, Lào và
Đài Loan để tìm tự do năm 2006 và được anh cho biết chế độ CS Bắc Hàn đã đánh
mất niềm tin trong lòng dân, và khi tôi còn ở đó người dân đã nghĩ đến sự thay
đổi. Họ sợ thảo luận nơi công cộng nhưng trong riêng tư họ đã bàn đến. Áp bức
vẫn tiếp tục, nhưng sự yêu chuộng cũng như uy tín của chế độ đã giảm nhiều.
Việt Nam thì khác. Để tồn tại, từ 1981 đến nay, giới
lãnh đạo CS buộc phải hé cửa và tự diễn biến hòa bình qua các chính sách đổi
mới kinh tế. Ánh sáng văn minh nhân loại đã theo những kẽ hở đó lọt vào. So với
Bắc Hàn, người Việt Nam có nhiều điều kiện hơn để nhìn ra thế giới. Lẽ ra,
người dân, nhất là thành phần trí thức, có cơ hội học hỏi, so sánh các chế độ
chính trị, sở hữu một nhận thức chính trị và chọn lựa một lập trường chính trị
phù hợp với xu hướng phát triển thời đại, nếu không công khai chống lại chế độ
độc tài ít ra cũng biết tự trọng làm im.
Khi còn sống, những lá thư của ông Võ Nguyên Giáp
lên tiếng về chủ trương xây dựng Nhà Quốc Hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu hay
ít nhất ba lần về Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên cũng bị ném vào sọt rác.
Ngoại trừ một số rất nhỏ, không ai binh vực ông. Thế nhưng, khi đảng cho phép
tiếc thương, nhiều bồi bút tận dụng cơ hội để lập công, khẳng định sự trung
thành và chứng tỏ mình luôn đi sát với lập trường, quan điểm của đảng. Trên mấy
trăm tờ báo đảng, bấm vào là đọc một mẫu chuyện về “cuộc đời”, “sự nghiệp” và
“chiến công” của Võ Nguyên Giáp. Đọc những bài thơ, bài văn tâng bốc Võ Nguyên
Giáp mà cảm thấy tội nghiệp cho tiếng Việt. Những cây đinh tuyên truyền tẩy não
lại tiếp tục đóng vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam chẳng khác gì thời
chiến tranh. Tang lễ của Võ Nguyên Giáp cho thấy nhiều người vẫn còn bị lừa gạt
một cách quá dễ dàng và thành phần xu nịnh trong xã hội Việt Nam còn quá đông.
Thì ra, dù nhân loại đã bắt đầu thám hiểm những vì sao xa nhiều triệu dặm,
chiếc đồng hồ báo thức tại Việt Nam 60 năm vẫn chưa gõ lên một tiếng nào.
Như đã viết trong bài Bàn về tẩy não, sau 38 năm,
tầng lớp có học thức, nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà báo không ít người
vẫn còn nghĩ rằng nói gì thì nói đảng CS trong suốt dòng lịch sử của đảng đã
đồng hành với dân tộc, nói gì thì nói chỉ có đảng CS mới có khả năng đưa đất
nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, nói gì thì nói đảng CS là đảng nắm trong tay
ngọn cờ chính nghĩa, nói gì thì nói Việt Nam vẫn cần ổn định để phát triển và
mọi thay đổi đột biến sẽ dẫn đến hỗn loạn; nói gì thì nói các lãnh tụ CS vẫn là
những người yêu nước, những anh hùng dân tộc và xứng đáng được kính trọng khi
họ sống và tôn thờ, tiếc thương, than khóc khi họ chết. Đảng không từ chối đã
phạm nhiều sai lầm trong quá khứ nhưng đó là những sai lầm khách quan. Đảng
không từ chối đang có nhiều tình trạng tiêu cực xã hội nhưng đó chỉ là hiện
tượng không phải bản chất của chế độ. Từ những năm đầu ăn bo bo sau 1975 cho
đến gần bốn chục năm, một học sinh cho đến các “tiến sĩ” cũng đều bị tẩy não
bằng những lập luận như vậy qua các lớp chính trị.
Đảng biết rất rõ thành phần “nói gì thì nói” là ai
và quá khứ xuất thân của từng người trong số họ. Họ yêu nước không? Có. Họ muốn
đất nước Việt Nam giàu mạnh không? Có. Họ muốn xã hội Việt Nam trong sạch
không? Có. Họ muốn điều kiện chính trị tại Việt Nam được nới rộng nhưng đảng CS
vẫn tiếp tục lãnh đạo đất nước không? Cũng có luôn. Nhà tâm lý học Michael
Langone mô tả đó tình trạng tâm thần của những người đang trôi giữa hai bờ, bờ đúng
và bờ sai, bờ thực và bờ ảo, bờ chánh và bờ tà. Họ thoạt trông như có tinh thần
cách mạng nhưng trong thực tế là vật cản cho một cuộc cách mạng xã hội toàn
diện và đắp đập để giữ cho cơ chế độc tài tồn tại lâu dài hơn.
Những nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ đó có bao giờ
nửa khuya thức dậy pha một bình trà thật đậm, vừa uống và vừa tự hỏi những
những nhận thức chính trị của mình từ đâu mà có? Những kiến thức về lịch sử của
mình do ai cấy vào? Ông Võ Nguyên Giáp thực sự là nạn nhân hay cũng chỉ là kẻ sát
nhân thất thế như nhiều lãnh đạo CS khác? Ông Võ Nguyên Giáp là anh hùng dân
tộc hay là một trong những người đưa đất nước vào vòng nghèo nàn, độc tài, lạc
hậu hôm nay? Nếu ông Võ Nguyên Giáp là anh hùng dân tộc rồi ai sẽ là người chịu
trách nhiệm cho cái chết của hàng triệu đồng bào miền Nam từ 1954 đến 1975,
chẳng lẽ những nạn nhân vô tội kia không phải là một bộ phận của dân tộc Việt
Nam sao? Và cứ thế, hãy đặt ra những câu hỏi ngược với những khẳng định và kết
luận mà đảng đã trang bị, không chỉ riêng về ông Võ Nguyên Giáp mà cả một giai
đoạn lịch sử dài từ khi đảng CSVN có mặt. Phải biết hoài nghi, so sánh và đặt
vấn đề một cách khách quan và độc lập để thấy những gì được gọi là “chân lý” và
“sự thật” dưới chế độ CS chỉ là những bùa ngải tuyên truyền.
Giải tẩy não
Bác sĩ Robert J. Lifton là nhà nghiên cứu tiên phong
về tẩy não dưới chế độ CS. Trong tác phẩm Cải tạo tư tưởng và tâm lý
học về chế độ toàn trị: Một nghiên cứu về “Tẩy não” tại Trung Quốc (Thought
Reform and the Psychology of Totalism: A Study of “Brainwashing” in China) ông
đã đưa ra 8 đặc điểm về cải tạo tư tưởng của CS: (1) Kiểm soát
môi trường (Giới hạn tối đa sự liên lạc giữa nạn nhân và thế giới bên ngoài,
giữa nạn nhân và xã hội chung quanh và cả giữa nạn nhân và chính nhận thức cũ
của nạn nhân); (2) Vận dụng huyền bí (Vận dụng cá nhân bằng
mọi cách và không giới hạn ở một phương tiện nào); (3) Đòi hỏi
sự thuần khiết tuyệt đối (Một quá trình phấn đấu liên tục để đạt đến trình độ
tự giác); (4) Tự thú công khai (Con người trong xã hội CS phải
phô bày mọi suy nghĩ, quan tâm và lo âu một cách công khai, không có riêng tư
về thể chất cũng như tinh thần); (5) Chủ thuyết là tuyệt đối
đúng (Chủ thuyết CS được đảng lý luận như đồng nghĩa với khoa học và phê bình
chủ thuyết CS chẳng những sai lầm về đạo đức mà còn vi phạm các nguyên tắc
“khoa học”); (6) Khẩu hiệu chuyên chở ngôn ngữ (Những vấn đề
phức tạp, khó hiểu và sâu xa nhất của con người được cô đọng thành những khẩu
hiệu có sức cám dỗ cao, dễ giải thích, dễ hiểu và dễ nhớ); (7) Giá
trị của chủ thuyết đặt cao hơn giá trị con người (Kinh nghiệm quá khứ của một
người sẽ không giá trị gì nếu kinh nghiệm đó mâu thuẫn với chủ thuyết, lịch sử
của dân tộc được viết lại, sửa đổi hay cắt xén để phù hợp với chủ
thuyết); (8) Thành phần cần thiết và không cần thiết tồn tại
trong xã hội (Có hai hạng người trong xã hội CS, một hạng thuộc giai cấp ưu
việt gồm công nhân, nông dân, buôn bán lẻ có quyền tồn tại và thành phần khác
gồm tư sản, địa chủ, phản động không cần phải tồn tại).
Các điểm mà Bác sĩ Robert J. Lifton trình bày về
chính sách tẩy não tại Trung Cộng, đã và đang được áp dụng tại Việt Nam, cho
thấy chính sách tẩy não CS vô cùng thâm độc, tận gốc rễ và có hệ thống tinh vi.
Chính Mikhail Gorbachev cũng gián tiếp thừa nhận
mình từng bị tẩy não. Lần đầu tiên được đi ra nước ngoài vào những năm 1970, xã
hội Tây phương đã giúp ông ta sáng mắt. Những chuyến đi trong thập niên 1980,
trong tư cách Ủy viên Bộ Chính trị, đã củng cố quyết tâm thực hiện các chính
sách đổi mới sau này. Gorbachev kể lại, một lần, khi tháp tùng phái đoàn đảng
CS Liên Xô tham dự tang lễ của lãnh đạo CS Ý Enrico Berlinguer, ông ta ngạc
nhiên khi thấy hầu hết các chính trị gia thuộc các đảng dân chủ kể cả Tổng
thống Ý Alessandro Pertini cũng đến cúi chào tiễn biệt trước quan tài của
Enrico Berlinguer. Đảng CS Ý trong thập niên 1980 đóng vai trò tích cực trong
đời sống chính trị Ý và có hậu thuẫn rộng lớn trong quần chúng. Gorbachev thán
phục tính đa nguyên và cách cư xử văn hóa trong chính trị Tây phương. Ông nghĩ
điều đó không thể nào xảy ra với chủ thuyết CS mà ông được đào tạo.
Nhiều người Việt Nam tự hào học cao, hiểu rộng, đọc
nhiều sách Anh, sách Mỹ, du học tại các trường đại học nước ngoài, nghĩ rằng
mình không bị tẩy não. Không phải. Quan điểm lịch sử và nhận thức chính trị của
họ bị tẩy từ trong bào thai cho đến tuổi trưởng thành để chấp nhận những kết
luận phản khoa học như là chân lý. Áp dụng ví dụ của Yuri Alexandrovich
Bezmenov trong bài trước vào điều kiện Việt Nam, dù có mang những người này ra
tận các “trại cải tạo” Suối Máu, Cổng Trời và chỉ họ những nơi CS đã bỏ tù hàng
trăm ngàn sĩ quan, công chức VNCH chưa hẳn họ tin cho đến khi chính họ bị nhốt
vào trong các thùng sắt, bỏ đói và chịu rét, lúc đó họ mới tin.
Tiến trình giải tẩy não vì thế là một tiến trình hết
sức khó khăn và chỉ có thể thành công nếu nạn nhân can đảm đối diện với
sự thật, thừa nhận tình trạng bị tẩy não và giải
tẩy não liên tục.
Can
đảm đối diện với sự thật.
Mọi hành trình bắt đầu từ chính con người. Nếu những
người bị tẩy não còn đủ khôn ngoan để hiểu rằng những kiến thức mình đang có là
kiến thức một chiều, là thuốc độc được nhỏ từng giọt vào nhận thức và thấm dần
qua thời gian, từ thuở còn thơ cất tiếng đầu đời cho đến trường mẫu giáo, tiểu
học, trung học, đại học, trường đoàn, trường đảng, hãy đem những kiến thức đó
trả lại cho chủ nhân của chúng. Không nên tự kết án vì người bị tẩy não chỉ là
nạn nhân chứ không phải là kẻ gây ra tội ác. Hàng ngàn người khóc vật vã trên
đường phố trong tang lễ của ông Võ Nguyên Giáp không quan trọng vì ngày mai
đảng bảo cười họ cũng sẽ cười, nhưng các nhà văn, nhà thơ, nhà báo thì khác. Họ
là những tiếng nói gây ảnh hưởng và được ví như là những phát ngôn nhân của thế
hệ và thời đại. Không nên tiếp tục bị nô lệ tri thức. Nô lệ vật chất chỉ thiệt
hại bản thân nhưng nô lệ tri thức thiệt hại cho những người chung quanh, người
đọc và nhiều thế hệ con cháu sau này. Hãy nhổ mũi tên độc ra khỏi vết thương và
tiếp tục cuộc hành trình xây dựng một nhận thức mới, độc lập, khách quan và tự
do.
Thừa
nhận tình trạng bị tẩy não.
Con người thường bất đồng với những điều nghịch lý
nhưng khó chống lại những điều rất hiển nhiên và hợp lý. Người bị tẩy não
thường không thừa nhận bị tẩy não và luôn sống trong tình trạng từ chối. Tuyên
truyền tẩy não CS không kê súng vô đầu một người để buộc người đó phải tin
nhưng thuyết phục bằng một lý luận rất hợp với nhân tính. Những tù binh Mỹ bị
bắt trong chiến tranh Triều Tiên không bị tra tấn về thể xác và không bị kết án
giết người. Các cán bộ tuyên truyền Trung Cộng xác định họ là những người tốt,
chỉ vì phải có mặt tại Triều Tiên trong một thời điểm sai để làm một công việc
trái với đạo lý con người do chính phủ Mỹ chủ trương. Người tù binh cũng là
“nạn nhân” như những người dân Triều Tiên vô tội bị bom đạn Mỹ giết chết. Người
tù binh được tiếp đãi tử tế, được cấp các tiêu chuẩn ăn uống cao hơn những tù
binh khác. Sau đó, anh ta được có trao cơ hội để giải phóng khỏi niềm tin cũ và
xây dựng một niềm tin mới.
Tiến
trình giải tẩy não là một tiến trình liên tục.
Tẩy não dưới chế độ CS nhằm thay đổi tận gốc rễ,
diễn ra có hệ thống và tập trung vào mục đích thuần hóa con người. “Trăm năm
trồng người” là mục tiêu đầu tiên và tối hậu của đảng CS. Tuyên truyền CS diễn
ra như sóng vỗ vào bờ, hết đợt này đến đợt khác. Khác với các tù bình Mỹ trong
chiến tranh Triều Tiên bị tẩy não trong một giai đoạn ngắn, phần lớn sau khi
khi về lại nhà, thay đổi môi trường giáo dục, thông tin và tình cảm, họ nhanh
chóng trở lại bình thường. Những người sống ngay giữa lòng chế độ, việc giải
tẩy não khó hơn nhiều. Họ phải chiến đấu liên tục về mặt tư tưởng để chống lại
các thông tin tẩy não bằng mọi hình thức và trong mọi lãnh vực của đời sống xã
hội. Chống lại chính sách tẩy não là một nỗ lực vô cùng khó khăn, đòi hỏi ý chí
quyết tâm cao và tinh thần bền bỉ.
Sự thật sẽ thắng
Để trả lời câu hỏi tại sao Liên Xô sụp đổ, người
viết tin rằng phần lớn người có kiến thức chính trị căn bản sẽ nghĩ ngay đến
vai trò của cựu Tổng bí thư đảng CS Liên Xô Mikhail Gorbachev, người đã đã đưa
ra hai chính sách quan trọng Perestroika (cải cách kinh tế) và Glasnost (cải
cách văn hóa xã hội); một số người khác sẽ nghĩ đến vai trò của Tổng thống Mỹ
Ronald Reagan, người đã tăng cường chạy đua vũ trang đến mức làm nền kinh tế
Liên Xô kiệt quệ; một số có thể nghĩ đến vai trò của Đức Giáo Hoàng John Paul
II, người với câu nói “Các con đừng sợ hãi” đã là chỗ dựa tinh thần của phong
trào Công Nhân Đoàn Kết Ba Lan và phong trào dân chủ tại các nước Đông Âu; một
số có thể nghĩ đến cố thủ tướng Anh Margaret Thatcher, người “phụ nữ sắt” như
báo chí Liên Xô mô tả và đã được tác giả John O’Sullivan xem như là một trong
ba người (Roldnald Reagan và Đức Giáo Hoàng John Paul II) đã góp phần quan
trọng vào việc làm sụp đổ phong trào CS châu Âu.
Tất cả những người nêu trên thật sự đã có đóng góp
quan trọng vào việc làm tan rã hệ thống CS. Tuy nhiên, họ chỉ là những giọt
nước tràn ly và ly nước không thể tràn bằng vài giọt nước. Lý do chính làm tan
vỡ các chế độ CS châu Âu phát xuất từ chỗ nhân dân các nước Đông Âu và Liên Xô
đã vượt qua được căn bịnh tẩy não. Các chính sách tuyên truyền tẩy não từ thời
Lenin, Stalin đã không còn hiệu quả, không thuyết phục và cũng không làm người
dân sợ hãi, không còn ai kể cả các lãnh đạo đảng tin tưởng vào chủ nghĩa Cộng
Sản. Một khi chính sách tuyên truyền không tác dụng, chế độ độc tài sẽ sụp đổ.
Như một định luật của phát triển xã hội, ở đâu có áp
bức ở đó có đấu tranh. Khát vọng tự do trong con người chưa bao giờ chết dù
giữa mùa đông tuyết giá trong các trại tập trung Siberia hay trên đường phố
Budapest ngập máu trong tuần lễ từ ngày 4 đến ngày 10 tháng 11, 1956. Sau hơn
70 năm đối kháng trong âm thầm nhẫn nhục giữa lừa dối và chân thành, giữa bạo
lực trấn áp và khát vọng tự do, giữa độc tài và dân chủ, giữa cổ võ chiến tranh
và yêu chuộng hòa bình, giữa hận thù và tình yêu, cuối cùng, sự thật đã thắng
tại châu Âu và sẽ thắng ở Việt Nam. George Orwell đã viết “trong xã hội đầy lừa dối, cất lên một tiếng
nói thật là một hành động cách mạng”, hơn bao giờ hết, Việt Nam đang cần những
con người làm cách mạng bằng cách sống thật và nói thật.
Trần
Trung Đạo
điêu khắc chân mày
ReplyDeleteday dieu khac chan may
dieu khac chan may
học diêu khắc chân mày
dieu khac chan may 6d o dau dep
dieu khac long may
dieu khac tham my nam
dieu khac phun xam
khóa học điêu khắc chân mày
điêu khắc lông mày