Chỉ
có những người bị hội chứng hoang tưởng, bị các loại tâm thần phân liệt hay nói
theo ngôn ngữ bình dân là điên nặng mới mất khả năng nhận thức, tư duy theo lý
lẽ thông thường của cuộc sống đời thường và những người phát triểntự nhiên với
bộ óc bình thường, ai cũng có thể nhận ra một điều rất đơn giản, là không ai
hiểu ta, thương ta bằng chính bản thân ta. Từ đó suy rộng ra, mọi người lương
thiện đều tương đối ít nhiều có thể hiểu được mức độ năng lực, khả năng cũng
như chiều sâu tâm lý yêu thương, giận ghét thật sự của cá nhân mình, và đương
nhiên nếu mình không yêu thương mình, không yêu thương người thân cật ruột, bạn
bè lối xóm, những người anh em đồng bào cùng khóc cười theo mệnh nước nổi
trôi…không thương nhớ cây đa cũ, bến đò xưa, con đường quê ngày hai buổi đến
trường với nhiềukỷ niệm vui buồn, nhục vinh gắn bó…thì những điều đại loại như
chuyện sống chết vì lý tưởng độc lập, tự do…vì thế giới đại đồng hay bài tỏ
lòng thương yêu tổ quốc xa xăm, nhớ thương khóc lóc ông tây bà xẩm xa lạ không
quen biết…hẳn ai cũng thấy rõ “ý đồ”, thấy có cái gì đó trái lẽ tự nhiên thiếu
lương thiện, nếu không nói là gian manh, giả tạo!
Cách
lý giải về hiểu biết, về yêu thương của bản thể lẫn khách thể vừa diễn giải chỉ
ra rằng, chắc không ai hiểu cộng sản Việt Nam bằng người Việt Nam và không
người Việt Nam nào hiểu cộng sản bằng những người cộng sản đã rời bỏ hàng ngũ
cộng sản. Cũng như để vạch trần dối trá, tội ác cộng sản Việt Nam một cách
chính xác, thuyết phục không ai làm hay hơn người Việt Nam, những người đã từng
là nạn nhân, đã từng tin, nghe theo cộng sản, phục vụ cho đảng, chochế độ cộng
sản và không ai yêu thương, sống chết với đất nước Việt Nam hơn con người Việt
Nam. Vì thế muốn giải trừ kiếp nạn cộng sản, muốn xây dựng phát triển Việt Nam
hiệu quả, không ai khác là phải do chính con người Việt Nam, những người đủ
trải nghiệm hiểu biết cộng sản, đủ tâm huyết yêu thương, khao khát, cống hiến
cho đất nước Việt Nam.
Nội
dung bài viết này sẽ không bàn đến chuyện quá khứ bởi không ai thay đổi được
quá khứ, dù biết rằng quá khứ là bài học hữu ích, là nền tảng điều chỉnh hành
vi hiện tại để hoàn thiện, định hình cho cuộc sống tương lai và nội dung bài
viếtchỉ bàn đến một số điểm then chốt về xây dựng, phát triển đất nước trong
giai đoạn được gọi là đổi mới của đảng cộng sản Việt Nam.
Phải
nói rằng trong giai đoạn được gọi là đổi mới về phương diện kinh tế của nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thựcchất chỉ là bắt chước, mô phỏng làm theo
cái cũ của nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam trước năm 1975 nhưng được
lãnh đạo cuồng tín, trí tuệ có vấn đề, ngờ ngệch bảo rằng “có đảng cộng sản
mới có đổi mới” (?) và đổi mới song song tồn tại cả hai mặt tiêu cực lẫn
tích cực - mặt tích cực được đảng, nhà nước thổi phồng phô trương, tuyên
truyềnkhông tiếc lời nhằm làm giảm nhẹ lẫn che dấu những mặt tiêu cực gây hậu
quả nghiêm trọng khó khắc phục cho nhu cầuphát triển quốc gia theo hướng giàu
đẹp, bền vững và cho cuộc sống người dân được tự do, ấm no, hạnh phúc.
Chẳng
hạn như khi hô hào đổi mới, cộng sản Việt Nam tháo gở được cấm vận, thoát khỏi
vòng vây cô lập của thế giới tự do, thu hút đầu tư nước ngoài, nhận viện trợ
tài chánh không hoàn lại, nhận được hỗ trợ nguồn vốn ưu đãi với lãi suấtthấp,
giao lưu thương mại thuận lợi, tiếp cận nền khoa học kỹ thuật hiện đại của các
nước dân chủ giàu mạnh…giúp chobộ mặt Việt Nam sáng sủa hơn, cuộc sống vật chất
có phần khá lên, nhất là thuận lợi trong công tác tuyên truyền, quabộ mặt hào
nhoáng phồn vinh giả tạo thiếu thực chất, không bền vững nhằm che dấu, khỏa lấp
những công trình, dự án, chính sách xây dựng, phát triển thiếu tầm nhìn chiến
lược lẫn chiều sâu thực chất, khó nhận ra với cái nhìn hời hợt, lạc quan tếu
của không ít người, rằng đảng lãnh đạo “tài tình, sáng suốt...”
Bên
cạnh bộ mặt hào nhoáng tích cực của đổi mới là những tiêu cực như nợ nần nước
ngoài chồng chất trên đầu người dân ngày càng cao, khoảng cách giàu nghèo ngày
càng xa và các quan tham vô đạo đức cấu kết, tạo điều kiện cho các nhóm lợi ích
hình thành xâu xé các nguồn viện trợ nước ngoài, xẻ thịt tài nguyên quốc gia vô
tội vạ, tạo nên bất công trong xã hội, bất bình trong nhân dân là nguồn gốc của
bất ổn kinh tế – xã hội, là nguyên nhân của bạo động lật đổ, làm cách mạng như
lịch sử cách mạng của loài người đã từng diễn ra chứ không có thế lực thù địch
nào gây ra mối đe dọa cho chế độ!
Hiện
nay với những bất cập, lạc hậu, tồi dở do nhiều nguyên nhân hiện hữu, tồn tại
trong nhà nước cộng sản Việt Nam và trong thời gian dài mấy mươi năm đã có rất nhiều
chuyên gia quốc tế ở mọi lãnh vực ngành nghề bày tỏ thiện chí phân tích tình
hình, tích cực đóng ý kiến cải cách thiết thực hữu ích cho đất nước, con người
Việt nam. Có người tìnhnguyện làm cố vấn không công bán thời, có người làm việc
toàn thời có nhận lương làm việc cho đảng, nhà nước cộngsản nhưng vẫn chưa có
dấu hiệu tiến bộ khả quan. Bộ máy nhà nước Việt Nam vẫn như con tàu rệu rã đắp
vá chỗ này lại gặp phải thủng vỡ chỗ khác nghiêm trọng hơn, vẫn lững lờ chìm
nổi giữa giòng xoáy “luẩn quẩn” khủng hoảng, suy thoái không lối thoát.
Có
thể những chuyên gia tài năng, hàng đầu của quốc tế “cố vấn” không hiệu quả
trong hệ thống tổ chức chính trị ViệtNam, là bởi họ chưa hiểu được, chưa hiểu
hết bản chất không trong sáng, thiếu thiện chí đổi mới, thậm chí đổi mới chỉ là
chiêu trò giả vờ, mang tính đối phó để nhận được viện trợ, đầu tư nước ngoài
của đảng cộng sản - đảng cầm quyền lãnh đạo toàn diện kinh tế, xã hội và các
chuyên gia quốc tế với đầu óc quen nếp suy nghĩ trung thực, ngây thơ trong xã
hội trong sáng, minh bạch đã chết ngộp với các bản báo cáo láo của các quan
chức vừa gian, vừa bất tài của đảng cộng sản thì làm gì họ có được những lời cố
vấn, những bản văn nghiên cứu chính xác để hoạch định những kế hoạch hữu
hiệucho cải cách, đổi mới kinh tế - xã hội Việt Nam?
Hẳn
ai cũng thấy trong những năm đầu đổi mới đã thu hút đầu tư lẫn viện trợ nước
ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam giúp nâng cao mức sống tạo niềm tin, niềm hy vọng
không nhỏ trong lòng người dân Việt Nam nhưng rồi sau một thời gian hứng khởi
của đổi mới thì trong lòng kinh tế - xã hội, xã hội chủ nghĩa phát sinh các
liên minh ma quỷ chằng chịt, chồngchéo lên nhau như: quan tham cấu kết với nhóm
lợi ích; nhóm lợi ích hợp tác với băng đảng xã hội đen; băng đảng xãhội đen bắt
tay với tham quan. Và chuỗi tam giác “tham quan – nhóm lợi ích – xã hội đen”
như vòng tròn khép kín dựadẫm vào nhau cùng tồn tại, cùng ra tay tàn phá đất
nước, cùng gây tội ác kinh hoàng hơn những gì đổi mới đem lại cho mặt bằng
chung của đời sống người dân, cho đất nước tiến lên hùng cường, thịnh vượng.
Đã
hơn hai mươi năm được gọi là đổi mới, bộ mặt vật chất bề nổi của đất nước Việt
Nam có sáng sủa hơn như đường xá cầu cống, nhà ở sang trọng, chung cư cao tầng,
khu nghỉ dưỡng, khu vui chơi giải trí phục vụ du lịch “hoành tráng”, đằng sau
nó là những thân phận của không ít con người Việt Nam sống vô gia cư, chết vô
địa táng…và các khu công nghiệp, vùng nông nghiệp nhà máy, công trường thi nhau
mọc tràn lan vô tổ chức của những kẻ chân mang dép lốp, tóc còn bốc phèn, mộng mơ
bay vào vũ trụ! Song song với lớp son chưng diện bề ngoài của nền kinh tế phát
triển trên hoang mạc cát không thực chất, là những món nợ nước ngoài không hề
nhỏ và chính sách phát triển kinh tế, xã hội thiếu chiều sâu, chỉ nhờ vào các
khoản viện trợ không hoàn lại lẫn vốn vay ưu đãi có thời hạn cùng với những mục
tiêu, chương trình phát triển được Liên Hiệp Quốc hổ trợ.
Có
lẽ không ít người biết viện trợ, hổ trợ của nước ngoài, kể cả của người Việt
hải ngoại gởi về giúp thân nhân hơn hai mươi năm qua không hề nhỏ nhưng không
có thống kê công bố chính thức của nhà nước cộng sản nên tạm sử dụng nguồn tính
toán không chính thức của một chuyên gia ẩn danh ước chừng như sau:
-
ODA không hoàn lại: 6,67 tỷ đô la Mỹ.
-
Vay ODA ưu đãi: 30,83 tỷ đô la Mỹ.
-
Các khoản vay ưu đãi từ nước ngoài: 21,27 tỷ đô la Mỹ.
-
Các khoản vay được chính phủ bảo lãnh: 14 tỷ đô la Mỹ.
-
Trái phiếu địa phương: 0,7 tỷ đô la Mỹ.
-
Tổng dư nợ của doanh nghiệp nhà nước: 62 tỷ đô la Mỹ.
-
Tổng đầu tư nước ngoài FDI: 222 tỷ đô la Mỹ.
-
Đầu tư gián tiếp của nước ngoài: khoảng 30 tỷ đô la Mỹ.
-
Người Việt hải ngoại: trên dưới 200 tỷ đô la Mỹ.
Tất
cả trợ giúp gián tiếp hay trực tiếp đều có nguồn gốc từ việc ký kết các công
ước quốc tế, hứa hẹn tuân thủ về nhân quyền, về thương mãi minh bạch công bằng,
về bảo vệ môi sinh môi trường, về phục vụ mục tiêu hòa bình, về lợi ích chung
của cộng đồng nhân loại…Thế nhưng sau hơn hai mươi năm đổi mới, với nguồn vốn
khổng lồ, với sự giúp đỡ nhiệt tình của các nước dân chủ tiến bộ, giàu mạnh tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho Việt Nam hội nhập vào đời sống chính trị văn minh
nhưng nhà nước cộng sản Việt Nam không những không tiến bộ mà còn thực hiện
những bước lùi đáng lo ngại, đáng thất vọng, là củng cố độc tài, gia tăng đàn
áp, phát triển tội ác và quyền con người cơ bản không được cải thiện trong thực
tế đời sống, ngày càng đi xuống cuối bảng danh sách hạng mục kém “chất lượng
sống” của thế giới.
Thời
gian hơn hai mươi năm đủ dài cho thực hiện đổi mới, giờ nhìn lại kết quả đổi
mới hay nói cách khác là tổng kết thực trạng đổi mới phơi ra trần trụi những
bước lùi đáng sợ như: chính trị đầy dẫy bạo lực khủng bố; kinh tế hiển hiện dấu
hiệu chết lâm sàng; văn hóa nằm dưới vùng trũng vô hồn mất dần bản sắc; xã hội
băng hoại bất công tràn lan đáng kinh sợ…Tất cả đã đủ cơ sở để kết luận rằng,
đảng cộng sản Việt Nam không thực tâm đổi mới cũng như không có khả năng tự đổi
mới mà phải cần có lực đẩy tác động mạnh từ bên ngoài mới có thể tạo được
chuyển đổi tích cực để đổi mới tốt đẹp hơn cho Việt Nam.
Hơn
hai mươi năm, thiện chí của các chuyên gia quốc tế, các tổ chức lợi nhuận phi
lợi nhuận, các tổ chức chính phủ phi chính phủ dần dần nhận ra bản chất đổi mới
với nhiều cam kết quốc tế của đảng cộng sản Việt nam chỉ là “hứa hẹn”, là lừa
đảo khiến nhiệt tình hợp tác, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Việt Nam xây
dựng, phát triển đổi mới phai nhạt, không còn hăm hở như lúc ban đầu, dù trong
thực tế vẫn còn một số không nhiều cá nhân, tổ chức, chính phủ ngoài Việt nam
bám vào mục tiêu hô hào “đổi” nhưng không tạo ra điều gì “mới” có thực chất
trên mọi phương diện tổ chức đổi mới để làm bệ phóng cho bước chuyển đổi từ độc
tài sang dân chủ của đảng cộng sản Việt Nam. Qua đó, không loại trừ khả năng,
các cá nhân, tổ chức có yếu tố nước ngoài đến thời điểm này vẫn còn ủng hộ, đi
theo phục vụ đổi mới giả tạo của chế độ độc tài cộng sản, không có lý do nào
khác là vì quyền, lợi ích cá nhân, tổ chức lẫn tổ quốc của họ, cũng là hợp lẽ
tự nhiên không có gì đáng chê trách?
Điều
quan trọng khác cũng cần nên hiểu là chính trị dân chủ phải đi đôi với kinh tế
tự do, thị trường tự do và kinh tế thị trường là vùng tự do cạnh tranh, là nơi
thi thố tài năng, là chỗ thể hiện năng lực lành mạnh của cá nhân tập thể, của
địa phương vùng miền, của quốc gia quốc tế...Tâm lý chung của mọi người thường
theo thứ tự ưu tiên là ai cũng nghĩ đến mình, gia đình mình, làng xóm mình,
quốc gia mình rồi mới đến thế giới, đến vũ trụ bao la.
Do
đó, những người nước ngoài, những quốc gia văn minh sống trong cộng đồng nhân
loại có thiện tâm muốn giúp Việt Nam thay đổi tốt đẹp hơn nhưng những “yếu tố
nước ngoài” không ai sống chết với đổi mới Việt Nam và thiện chí cùng với lòng
thương người có mức giới hạn của nó nên người ta cũng không ngần ngại buông
tay, bỏ mặc những kẻ ngoan cố ngu dốt, cứ tự cho mình là khôn ngoan và với lối
sống, nếp nghĩ khoa học, thực dụng trong nền kinh tế thị trường, người ta cũng
không ngần ngại sử dụng ngôn ngữ cầu an cầu tài, nghi thức ngoại giao để chôn
đối thủ cạnh tranh tiềm năng trong hoang mộ ảo tưởng chủ nghĩa, để “đối thủ” tự
sướng ra miệng “...mình như thế nào ngưòi ta mới mời mình chứ...vị thế Việt Nam
trên trường quốc tế ngày càng đuợc nâng cao...” để khuyến khích “đối thủ” ngây
thơ bám giữ độc tài như lời nói dối ngọt ngào đẩy đối thủ cạnh tranh vào tử
địa.
Cũng
nên hiểu thêm rằng tự do, dân chủ, nhân quyền là giá trị chung của nhân loại và
thể chế chính trị dân chủ qua thực tế tổ chức cai trị được chứng minh là công
cụ hữu hiệu, là nền tảng xây dựng, phát triển có khả năng mang đến dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh trong thời hiện tại. Cũng như
theo cách lý giải về hiểu biết, về yêu thương của bản thể lẫn khách thể ở phần
mở đầu của bài viết này, thì không có người nước ngoài hay tư tưởng ngoại lai
nào hiểu rõ thủ đoạn xảo quyệt của cộng sản Việt Nam hơn người Việt nam và
không có yếu tố nước ngoài hay kẻ lai căng nào thánh thiện, cao cả đến mức hy sinh
thân mình cho dân tộc, đất nước Việt Nam. Thực tế cuộc sống cho thấy, chỉ có
người Việt Nam mới hiểu rõ bản chất lưu manh lẫn gian manh của đảng cộng sản
Việt Nam, chỉ có người Việt Nam mới giải thoát được kiếp nạn cộng sản và chỉ có
người Việt Nam mang hồn Việt Nam mới sẵn sàng chiến đấu “quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh” vì giá trị chung tự do, dân chủ, nhân quyền của nhân loại cũng
chính là tương lai, là niềm hy vọng vươn lên của đất nước, dân tộc Việt
Nam.
No comments:
Post a Comment