Thứ tư 23 Tháng Mười 2013
Trung tuần tháng 10/2013 vừa qua, tổ chức phi chính phủ
Walk Free Foundation (WFF), có trụ sở tại Úc, công bố một bản báo cáo về thực trạng
« nô lệ hiện đại » toàn cầu với bảng xếp hạng 162 quốc gia (Global Slavery
Index). Những điều gì đáng chú ý qua thống kê nghiên cứu của WFF và đặc biệt là
thực trạng nô lệ hiện đại tại Việt Nam ? Đây là các câu hỏi chính đặt ra trong
tạp chí Xã hội tuần này của RFI.
Theo tổng kết của WFF (do Ngoại
trưởng Hoa Kỳ Clinton, cựu Thủ tướng Anh Tony Blair và tỷ phú Bill Gates đồng
sáng lập), gần 30 triệu con người trên thế giới hiện nay đang phải sống trong
vòng nô lệ, trong đó 76% tập trung tại 10 quốc gia : Ấn Độ, Trung Quốc,
Pakistan, Nigeria, Ethiopia, Nga, Thái Lan, Cộng hòa dân chủ Congo, Miến Điện
và Bangladesh. Việt Nam đứng thứ 15 trong bảng xếp hạng về số lượng người phải
sống trong cảnh nô lệ và đứng thứ 64, nếu căn cứ theo tỷ lệ phần trăm người bị
ép làm nô lệ trên tổng dân số.
Theo đánh giá của một số chuyên
gia, lần đầu tiên xuất hiện một bảng xếp hạng toàn cầu bao gồm hầu hết các hình
thức nô dịch con người tàn bạo nhất trong xã hội hiện nay, từ nạn buôn người,
nạn cưỡng bức lao động dưới các hình thức khác nhau, như lao động xí nghiệp,
đồng áng, tình dục hay tại gia… đến nạn tảo hôn, làm thuê để trả nợ... Nô lệ,
một hiện tượng tưởng như đã lùi xa vào quá khứ, với việc hủy bỏ chế độ nô lệ về
mặt pháp lý, nay vẫn là một hiện thực phổ biến với vô vàn phương thức, ngày
càng được công luận quốc tế nhìn nhận.
Bản đồ về số lượng
người bị bắt làm nô lệ dưới mọi hình thức, phân bố theo quốc gia. Ảnh WFF
Xác định số lượng những người
lâm vào cảnh nô lệ hiện đại phụ thuộc rất nhiều vào cách nhìn. Ấn tượng nổi bật
mà bản báo cáo của tổ chức phi chính phủ đem lại là chỉ riêng Ấn Độ đã có gần
14 triệu người nô lệ, chiếm khoảng 1% dân số nước này, và chiếm đến gần một nửa
tổng số nô lệ hiện đại toàn cầu. Số lượng người lâm vào cảnh nô lệ chủ yếu do mắc
nợ tại Ấn Độ là điều gần đây được biết đến nhiều, nhưng với bảng xếp hạng này,
công chúng mới ý thức được tầm mức khổng lồ của hiện tượng hết sức phổ biến này
tại Ấn Độ, quốc gia được coi là nền dân chủ có dân số lớn nhất thế giới.
Một điểm đáng ngạc nhiên khác
liên quan đến thực trạng nô lệ tại Trung Quốc. Trong bảng xếp hạng của WFF, tại
Trung Quốc có gần 3 triệu người sống như nô lệ. Tuy nhiên, theo tổ chức Laogai
Research Foundation, chỉ riêng hệ thống trại cải tạo lao động tàn bạo nổi
tiếng (laogai), với khoảng 1.000 trại trên khắp Trung Quốc, đã giam giữ
khoảng từ 4 đến 6 triệu người. Chưa kể đến hệ thống nhà tù khổng lồ, các trại
giam chính thức hay trá hình do nhiều thế lực khác nhau của chế độ độc tài toàn
trị lập ra để nô dịch dân chúng.
Nghiên cứu về nô lệ toàn cầu
của tổ chức phi chính phủ WFF, lần đầu tiên được công bố, cùng lúc gây những
ngạc nhiên và đặt nhiều dấu hỏi. Trong cuộc trả lời phỏng vấn RFI, Tiến sĩ
Nguyễn Đình Thắng, Liên minh Bài trừ Nô lệ mới ở Châu Á (CAMSA), cho biết sự ra
đời bản thống kê toàn cầu về các hình thức nô lệ hiện đại của WFF, với những
khiếm khuyết khó tránh khỏi của lần công bố đầu tiên, có mục tiêu trước hết là
để đánh động lương tri của nhân loại trước một thảm nạn hết sức phổ biến, nhưng
không được chú ý đúng tầm mức.
Riêng về Việt Nam, trong bản
báo cáo thường niên về tình trạng buôn người trên thế giới 2013 được Bộ Ngoại
Giao Mỹ công bố hồi tháng 6/2013, Việt Nam tiếp tục bị xếp vào Bậc 2 (Tier 2),
tức các quốc gia có vấn đề trong địa hạt buôn người (so với Bậc 2 cần quan
tâm theo dõi/Tier 2 Watch List. Nếu nằm trong danh sách này quá 2 năm, sẽ
bị đưa vào Bậc 3, tức nhóm các quốc gia tồi tệ nhất). Còn trong cuộc đối
thoại nhân quyền Việt Nam – Liên hiệp Châu Âu trung tuần tháng 09/2013, EU nhấn
mạnh đến việc Việt Nam cần phải « cải thiện điều kiện nhà tù ».
Buôn người, lừa đảo, để cưỡng
ép lao động tại một quốc gia khác, cùng việc cưỡng bức lao động tại các trung
tâm giam giữ là hai thực tế trong số các hình thức nô lệ hiện đại chủ yếu tại
Việt Nam.
Nhận lời mời của RFI, Tiến
sĩ Nguyễn Đình Thắng (từ Virginia) và hai cựu tù nhân chính trị, bà Phạm
Thanh Nghiên (Hải Phòng) và ông Nguyễn Bắc Truyển
(Vũng Tàu) sẽ chuyển đến quý vị một số nhận định, chia sẻ trong vấn đề này.
Trước hết xin mời quý vị theo
dõi các nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng về cuộc điều tra của WFF, đặc
biệt là tình trạng nô lệ hiện đại nói chung ở Việt Nam.
Nghe
(15:59) : Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng (Virginia - Hoa
Kỳ) 23/10/2013
Nghiên cứu rất kỹ lưỡng và bao quát, nhưng
mọi số liệu vẫn là phỏng đoán
TS Nguyễn Đình Thắng : Đây là một trường hợp rất ngoại lệ, bởi vì đây
là một tổ chức đầu tiên mà có một công trình nghiên cứu rất là kỹ lưỡng và có
cả bề rộng, về vấn đề buôn người lao động trên toàn thế giới. Trước đến giờ,
gần như không có con số nào đáng tin cậy, hoặc có thể dùng để so sánh và đối
chiếu giữa những vùng khác nhau, hoặc là các quốc gia khác nhau.
Thực sự ra không ai biết đích
xác được con số thực sự của các nạn nhân của tình trạng buôn người thời đại
mới, bởi vì buôn người thời đại mới, nó không có rõ ràng, không có hiển lộ ra,
đi ra ngoài đường là biết ngay là người đó bị buôn làm nô lệ. Các hình thức
buôn người, bóc lột người lao động một cách thậm tệ rất là tinh vi. Tất cả các
con số đều chỉ là phỏng đoán. Cách đây khoảng 5 năm, thì tổ chức lao động quốc
tế (ILO), họ ước lượng khoảng 21 triệu. Cách đây hai năm, họ đã điều chỉnh lại
là 27 triệu, do đó xấp xỉ 30 triệu như tổ chức ở bên Úc vừa công bố, con số có
cao hơn, nhưng không khác biệt nhiều lắm so với những con số ước lượng trước
đây.
Con số người nô lệ tại Trung Quốc và Việt
Nam có thể cao hơn nhiều
RFI : Tiến sĩ có những ghi nhận gì từ bản nghiên cứu thống kê của WFF
?
TS Nguyễn Đình Thắng : Điều trùng hợp là chúng tôi cũng đã từng nhận
định từ lâu rồi, là tình trạng buôn người rất là nặng, rất là trầm trọng tại
vùng Châu Á. Thành ra, năm 2008 mới thành lập « Liên minh bài trừ nô lệ mới ở Á
Châu ». Lý do là vậy. Ở Á Châu, phần lớn các quốc gia đang phát triển đã là cái
nôi để cung cấp những người nô lệ, gởi đi khắp nơi trên thế giới, mà trong đó,
một trong những quốc gia có tình trạng rất trầm trọng, đó là Việt Nam. Ngoài Việt
Nam, còn có Cam Bốt, còn có Lào, còn có Phi Luật Tân, còn có Pakistan, Nepal…
Đó là những quốc gia ở Châu Á, chưa kể Trung Quốc. Trung Quốc là cả một vùng
không ai biết được, đen nghịt, ánh sáng không soi thủng qua được, để mà có được
con số chính xác. Nhưng mà chúng tôi tin rằng, qua các hồ sơ đã can thiệp,
Trung Quốc là một trong các quốc gia có tình trạng buôn người rất là trầm
trọng. Những con số của quốc tế có được, có lẽ còn là rất nhỏ so với thực tế ở
tại Trung Quốc, cũng như ở tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, riêng về tình
trạng buôn người theo dạng cưỡng bắt lao động, để sản xuất hạt điều thôi, ước
lượng đã có 300.000 nạn nhân, nằm ở trong những trung tâm cải huấn của nhà
nước, chưa kể rất nhiều tù hình sự và tù chính trị cũng bị cưỡng bức lao động,
sản xuất hạt điều, chế biến hải sản, làm những đồ thủ công, mỹ nghệ để xuất
cảng… cũng rất nhiều. Cho nên chúng tôi ước lượng là, chỉ riêng hình thức buôn
lao động trong nội địa Việt Nam thôi, cũng phải từ 300 đến 400 nghìn người rồi,
chứ không phải chỉ là 250 nghìn, như bản phúc trình ước lượng. Đó là chưa kể
những người lao động bị xuất cảng đi bao nhiêu quốc gia khác nhau, thì chúng
tôi ước lượng hiện nay, có khoảng 600 nghìn người lao động Việt Nam làm việc
tại nhiều quốc gia, đi theo con đường chính thức trong chương trình xuất khẩu
lao động của nhà nước, cộng vào đó một con số tương đương như vậy là những
người đi không chính thức, tức đi « lậu ». Chúng ta không biết được
chính xác con số này, không biết được họ ở đâu. Tổng cộng lại, khoảng 1 triệu
người Việt Nam đi lao động nước ngoài, trong số 1 triệu người này, chúng tôi e
rằng một tỷ lệ rất cao đang bị bóc lột sức lao động một cách thậm tệ, đến nỗi
có thể gọi họ là những người nô lệ thời đại mới.
Tầm hoạt động của các tổ chức quốc tế tại
Việt Nam bị giới hạn rất nhiều
RFI : Thưa Tiến sĩ, về các biện pháp của các tổ chức
quốc tế trong lĩnh vực này tại Việt Nam có những bước tiến gì mới trong thời
gian gần đây ?
TS Nguyễn Đình Thắng : Các tổ chức quốc tế làm việc ở Việt Nam chỉ
đếm được trên đầu ngón tay, và họ bị hạn chế rất nhiều trong tầm vóc hoạt động
của họ. Ví dụ như, không một tổ chức nào, nội địa hoặc quốc tế, đang hoạt động
ở Việt Nam, có thể đụng đến chương trình xuất khẩu lao động, nghĩa là họ không
được quyền can thiệp vào bảo vệ cho những nạn nhân sau khi đã hồi hương, hoặc
là giúp các nạn nhân để truy tố, thưa kiện các công ty xuất khẩu lao động, bởi
vì các công ty này được sự bảo vệ của chính quyền Việt Nam, cũng như chương
trình xuất khẩu lao động là chương trình của nhà nước. Đây là vùng cấm địa,
không tổ chức nào được đụng đến, nếu như không được phép của chính quyền Việt
Nam để hoạt động trong nước.
Hiện nay, cũng có một vài cuộc
nghiên cứu, mà cuộc nghiên cứu có quy củ nhất, có quy mô nhất và đáng tin cậy
nhất là của tổ chức Human Rights Watch. Họ đã làm một nghiên cứu này một cách
rất âm thầm. Nếu như chính quyền Việt Nam biết được, thì đã bị cản chặn. Tổ
chức này đã ra một bản phúc trình. Ở họ có những thông tin rất là chính xác và
đi sâu, không nằm trong bản phúc trình, nhưng chúng tôi biết được là những khu
nào, những công ty nào, dính dự đến tình trạng cưỡng bức lao động, trong vấn đề
chế biến hạt điều.
Chúng tôi đã theo dõi, nhưng
không thấy có tổ chức nào ở trong nước đã dám đứng lên để đặt vấn đề cưỡng bức
lao động ở trong nước. Chỉ có một tổ chức ở bên Úc (Blue Dragon/Rồng Xanh), họ
tập trung vào nạn lao động của các thiếu niên. Tầm hoạt động của họ cũng bị hạn
chế rất nhiều, tuy nhiên đây là tổ chức độc nhất dám lên tiếng về tình trạng
buôn trẻ em vào con đường lao động, còn bất kỳ vấn đề nào liên quan đến chương
trình xuất khẩu lao động của nhà nước, thì tuyệt nhiên không có tổ chức nào,
hoặc là chương trình cưỡng bức lao động trong các trại cải huấn.
Trong tình hình rất bị hạn chế
ở Việt Nam hiện nay, chúng tôi có những cách thức khác. Thay vì đi vào Việt Nam
để bị đặt điều kiện, những việc gì được làm, những việc gì không được làm, và
chúng tôi nhận xét thẩy rằng, những việc cần làm thì lại không được làm, thành
ra chúng tôi có một công thức khác. Đó là giải cứu các nạn nhân ở các quốc gia
tiếp nhận, chẳng hạn ở Mã Lai, ở Nga, ở Đài Loan… và qua đó, chúng tôi thu thập
được rất nhiều thông tin về những đường dây buôn người, về những tổ chức buôn
người như thế nào, về những mưu mô của họ ra sao, chúng tôi mới chắt lọc thành
những điều tâm niệm, những điểm rất đơn giản, rất là cụ thể, ví dụ như, nếu như
mà đi Nga, được hứa hẹn đồng lương cao, thì chớ có bao giờ đi với chiếu khán du
lịch. Có những điểm rất dễ để người dân nhớ được, dù là trình độ học vấn không
cao, thì như vậy, họ có thể bảo vệ được cho mình. Thứ hai, những ai có thân
nhân đã là nạn nhân rồi, thì chúng tôi cung cấp một số điện thoại, gọi là đường
dây khẩn cấp. Thì họ có thể gọi đến đó, hoặc gởi email cho chúng tôi, hoặc lên
facebook để báo động cho chúng tôi biết. Qua công thức như vậy, chúng tôi đã
giải cứu được khá nhiều những nạn nhân người Việt ở khá nhiều nơi trên thế
giới.
Các khó khăn của một văn phòng chống buôn
người tại Hà Nội
Anh Nguyễn Tiến Đạt, phụ trách
Văn phòng chống buôn người (Dòng Chúa cứu thế - Thái Hà – Hà Nội) cho biết cơ
sở này được thành lập từ năm 2011 và trong thời gian hoạt động đã giải cứu và
hỗ trợ được cho hàng trăm trường hợp nạn nhân buôn người, bị lừa đảo để cưỡng
ép lao động hay bóc lột tình dục. Theo chúng tôi được biết, Văn phòng Thái Hà
là cơ sở dân lập duy nhất hoạt động trong lĩnh vực chống buôn người tại Việt
Nam. Anh Nguyễn Tiến Đạt cho biết các khó khăn trong hoạt động này.
Anh Nguyễn Tiến Đạt : (…) đa số các nạn nhân bị như vậy, đa số gia
đình rất nghèo khó, họ ở những vùng núi, vùng nông thôn, họ không được học hành
mấy. Khi biết người thân bị bán như vậy, thì họ liên hệ với Văn phòng, nhưng vì
họ ở xa và vì điều kiện, nên họ không đến ngay được với Văn phòng. Về phần
chúng em, thì cũng do điều kiện quá xa nên không thể đến nơi để thu thập thông
tin trực tiếp.
Nghe
(13:46) : Anh Nguyễn Tiến Đạt (Hà Nội) 23/10/2013
Thứ hai là, khi nhận được thông
tin và lời kêu cứu, thì các nạn nhân đã bị bán sang một quốc gia khác, trong
quá trình liên lạc với các NGO và các văn phòng luật sư nước sở tại, thì cũng
do quá xa không tới tận nơi được, nên gặp khó khăn về không đủ thông tin tại
chỗ.
Chúng em là một Văn phòng không
chính thức, nên có nhiều hạn chế trong việc quảng bá thông tin và hỗ trợ về
truyền thông. Đáng ra những trường hợp người ta bị nạn như vậy, thì chúng em
phải có những thông tin rất nhanh chóng, được các cơ quan chức năng hỗ trợ, thì
việc giải cứu sẽ nhanh hơn.
Đặc biệt khó khăn trong các
trường hợp giải cứu những người bị bán sang Trung Quốc. Ở Malaysia hay Đài
Loan, thì dễ dàng hơn, vì khi các tổ chức phi chính phủ, văn phòng luật sư liên
hệ với chính quyền, thì có thể người ta cộng tác ngay. Ở Trung Quốc, thì Văn
phòng cũng chưa có được các mối liên lạc, vì chính quyền ở Trung Quốc họ cũng
không cộng tác nhiều. Hơn nữa Trung Quốc thì quá rộng, và vấn đề buôn người,
thì hầu như nó trở thành chuyện bình thường đối với họ. Ví dụ như trường hợp em
Hoa, ở Quế Phong (Nghệ An). Về gia đình kêu cứu, thì đã nhận được rất đầy đủ
các thông tin bị bán như thế nào, bắt được cả người là thủ phạm vụ buôn người
này, nhưng khi báo cho chính quyền địa phương, thì người ta cũng trả lời một
cách chung chung. Chúng em nhận định rằng, hầu như chính quyền ở Việt Nam cũng
cảm thấy như là bất lực trước tệ nạn buôn người, đặc biệt là bán sang Trung
Quốc. (…) Chúng em cũng giới thiệu gia đình lên công an C45, lên đó để kêu, để
nộp đơn, lên nhiều nơi như Hội Phụ nữ, lên cả Bộ Ngoại giao… Cho đến bây giờ
gần một năm rồi, nhưng trường hợp đó vẫn chưa giải cứu được.
(…) Trên thực tế, từ khi Văn
phòng ở đây hoạt động, về mặt chính thức, chính quyền không thấy có động thái
gì với Văn phòng. Chúng em cũng làm những tờ rơi, đưa về các giáo xứ. Cái này,
có lẽ chính quyền cũng biết cả. Chúng em phát một cách rộng rãi ở các nhà thờ,
vào dịp các khách hành hương đến. Nội dung tờ rơi là kêu gọi mọi người cộng tác
chống buôn người. Tuy nhiên, khi xem trên một số tờ báo của Nhà nước, cụ thể là
tờ Quân đội Nhân dân, có đăng một số bài có thể nói là phê phán một số tổ chức
mang tính chất « giải cứu » nạn nhân này, nạn nhân kia. Chúng em cũng
không hiểu đây có phải là một thông điệp hoặc một lời nhắn gửi gì đó, sợ rằng
chúng em có thể cộng tác thế nọ thế kia, để làm công việc « nói xấu »
chính quyền, hoặc đụng đến mặt trái của xã hội. Về điều này chúng em không rõ,
nhưng thực tế là như vậy (...).
Nạn cưỡng bức lao động tại các cơ sở giam
giữ
Trong số các hình thức nô lệ
hiện đại rất phổ biến ở Việt Nam, nhưng gần như rất ít được truyền thông Nhà
nước thông tin, là tình trạng những người bị cưỡng ép lao động và bị bạo hành
trong những không gian khép kín với bên ngoài như trại cai nghiện hay nhà tù.
Một báo cáo của tổ chức bảo vệ nhân quyền HRW, công bố năm 2011, cho thấy quy
mô lớn của thực trạng cưỡng ép lao động tại các trại cai nghiện. Tháng 7/2013,
HRW ra báo cáo lên án Ngân hàng Thế giới đầu tư cho việc chữa trị các nạn nhân
HIV tại các trại cai nghiện ở Việt Nam, trong khi có nhiều thông tin cho thấy
tại các trại này phổ biến hiện tượng các trại viên bị cưỡng bức lao động và bị
tra tấn hành hạ. Chỉ mới đây thôi, hồi tháng 9/2013, tại Trung tâm chữa bệnh
giáo dục lao động xã hội Hải Dương, một người nghiện ma túy mới nhập trại đã bị
ba cán bộ đánh chết. Hiện tượng bạo hành người nghiện là điều được báo chí
thông tin khá nhiều (Từ một vài năm trở lại đây, theo một số nguồn tin tại chỗ,
hiện tượng này có thể giảm bớt với việc Nhà nước Việt Nam tăng cường các biện
pháp điều trị cai nghiện tại cộng đồng).
Một cảnh các tù nhân đi làm. Ảnh báo trong nước
Bên cạnh các trung tâm cai
nghiện, các nhà tù, trại giam, trại cải tạo, trại tạm giam là những nơi mà tình
trạng cưỡng bức lao động có thể diễn ra hết sức phổ biến. Các nhân chứng cho
thực trạng này là không ít, tuy nhiên, rất hiếm khi người chứng kiến sẵn sàng
lên tiếng. Bao oan ức, đau đớn, khổ nhục sẽ mãi mãi chìm vào quên lãng, nếu
không có những tiếng nói gần đây của các cựu tù nhân chính trị, tù nhân lương
tâm.
Nhiều tù nhân tự sát hay tự gây thương tích
để tránh phải lao động
Sau đây là một số mô tả của ông
Nguyễn Bắc Truyển, một cựu tù chính trị, thành viên Hội Ái Hữu Tù nhân Chính
trị và Tôn giáo Việt Nam :
Nghe
(07:52) : Ông Nguyễn Bắc Truyển (Vũng Tàu) 23/10/2013
Ông Nguyễn Bắc Truyển : Cuối năm 2006, tôi bị bắt. Đến tháng 8/2007,
tôi lên trại giam Xuân Lộc để thi hành bản án 3 năm 6 tháng tù. Trong thời gian
ở tại đây, tôi và một số tù nhân chính trị khác đã bị cưỡng bức lao động, cùng
với tù thường phạm. Tại phân trại số 1, có khoảng 1.000 tù nhân, tù chính trị
có khoảng 10 người. Trong thời gian đầu, tù chính trị và tù thường phạm đều bị
đi lao động tại các xưởng điều để bóc vỏ hạt. Tại đây, công việc rất nặng nhọc,
vì số lượng giao rất nhiều. Tôi phải bóc vỏ điều 17 tiếng/ngày. Khi làm lao
động tại đây, chúng tôi, một số tù chính trị, đã đấu tranh để phản đối việc
cưỡng bức lao động, do đó họ cũng không dám ép chúng tôi lao động, nhưng người
tù lao động, thì thực sự rất khổ sở, vì bị giao rất nhiều. Tất cả công sức họ
làm ra, trại giam đều thu hết và họ không được thu một đồng bạc nào cho cuộc
sống của họ.
Nó làm cho người tù cảm thấy
rất nặng nề khi mỗi buổi sáng họ phải tới phân xưởng để làm việc. Tôi chứng
kiến những trường hợp người tù tự sát, bằng treo cổ, để khỏi phải lao động nữa.
Hay là tự gây ra thương tích cho mình để đi nằm viện, và từ đó tránh được lao
động, dù là chỉ trong thời gian ngắn. Có người đã gây gổ với bạn tù, rồi đánh
nhau, để sau đó bị đi kỷ luật, cùm chân, biệt giam, ăn uống thiếu thốn, nhưng
vẫn còn đỡ hơn là lao động trong những điều kiện rất khắc nghiệt. Không có một
chế độ bảo hiểm lao động nào. Cái mủ hạt điều rất độc hại, khi nó văng trúng
người mình sẽ gây ra phỏng, gây ra lở loét, trong khi đó hoàn toàn không có bảo
hộ lao động. Chưa kể những phân xưởng sấy hạt điều gây ra những mùi ô nhiễm.
Mặc dù, ra tù vào tháng 5/2010,
nhưng tôi vẫn thường xuyên liên hệ với các gia đình tù nhân. Những người thường
phạm giam giữ chung với tôi, khi đi về họ có liên hệ với tôi, khi tôi hỏi thăm
tình trạng lao động, thì họ nói vẫn không có gì thay đổi. Người tù vẫn bị cưỡng
bức lao động với những công việc hết sức nặng nhọc, và không được nhận thù lao
và các chế độ bảo hiểm (...).
"Phòng kỷ luật" : Nơi đánh gục tù
nhân về sức khỏe và tinh thần
Tiếp theo đây, là tiếng nói của
cựu tù chính trị Phạm Thanh Nghiên về những trải nghiệm của bà khi còn bị giam giữ
tại trại số 5 – Thanh Hóa :
Nghe
(18:12) : Bà Phạm Thanh Nghiên (Hải Phòng) 23/10/2013
Bà Phạm Thanh Nghiên : Hai năm rưỡi sau, tôi được chuyển lên trại 5
Thanh Hóa. Ở đây tôi được xếp vào một đội lao động, sinh hoạt ở chung với những
tù hình sự khác, thì tôi cũng có quan sát, thì được biết tất cả tù nhân đều
phải « lao động ». Mọi định mức mà trại giam đưa ra vượt quá khả năng
lao động của họ. Một tháng có khoảng 25 công. Người tù phải làm đủ 25 công đó.
Nếu không để bù vào số lượng, số ngày công mà họ không đáp ứng được. Bằng cách
nào ? Bằng tiền ! Nhưng có điều phi lý là trong trại giam, họ cấm không được
xài tiền mặt. Nhưng những quản giáo, tức là những người đứng đầu các đội lao
động, được bên trên chỉ thị là phải quản lý tù nhân làm sao phải đủ định mức.
Cho nên, tù nhân, một mặt bị cấm dùng tiền mặt, nhưng mặt khác, phải làm thuê,
làm mướn. Bởi vì nếu không đủ định mức ngày công đưa ra, thì người tù sẽ không
được giảm án.
Hầu hết, ngay từ đầu, không có
ai – tôi nói là - từ chối lao động. Họ thì dùng một cụm từ khác « chống đối
lao động ». Tôi chưa thấy một tù nhân hình sự nào dám « chống đối lao
động » cả. Và có những người dám cãi cự lại, thì phải bị chịu hình phạt
giam vào phòng kỷ luật.
Những người đã bị giam vào
phòng kỷ luật, họ kể lại với tôi là đó là một cái buồng rất chật hẹp. Hoặc họ
bị ký lệnh giam 7 hay 10 ngày, hoặc có thể là những lệnh giam dài hạn, từ 1
tháng, 3 tháng hay 6 tháng trở lên. Nó khác nhau ở một chỗ là, những người bị
tạm giam 7 đến 10 ngày, thì trong thời gian bị tạm giam, thì người tù không
được đánh răng, không được rửa mặt, không được thay quần lót mặc dù là phụ nữ.
Nghĩa là hoàn toàn không được làm vệ sinh. Trong đó, chỉ được mặt một cái quần
dài, áo dài tay của trại phát, bất chấp đó là mùa đông hay mùa hè, và không
được mang dây buộc tóc hay kẹp tóc, dù có tóc dài. Mỗi bữa cơm được ăn một bát
cơm vơi, với một chút muối và một chút nước rau của trại phát. Đó là hình phạt
với những người bị tạm giam, kỷ luật 7 đến 10 ngày. Cho dù bị kỷ luật bao nhiêu
ngày đi nữa, thì hầu hết những người khi rời khỏi buồng kỷ luật, thì cũng đều
rất là suy kiệt về mặt sức khỏe, cũng như tinh thần.
Thực ra trong ít phút vừa qua
tôi chỉ nói được một phần nào đó của việc tôi đã chứng kiến trong một lĩnh vực
cụ thể, đó là vấn đề lao động thôi, còn xung quanh trại giam là một thế giới
thu nhỏ, là một nơi đọa đầy rất là kinh khủng. Tôi cũng mong muốn công luận chú
ý hơn nữa về vấn đề lao động trong tù, đặc biệt là những tù nhân nữ. Bởi vì
thiên bẩm của họ cũng rất là yếu ớt. Có những tù nhân nữ phải làm những công
việc vô cùng nặng nhọc. Chưa kể, trong trại tù, tôi chứng kiến rất nhiều người
bị bệnh, những bệnh hiểm nghèo, nhưng mà họ vẫn phải đi làm cho đến gần như
những ngày cuối cùng của cuộc đời. Đó là những thân phận vô cùng éo le, mà tôi
tin chắc rằng bản thân tôi không thể nào hình dung được, nếu như tôi không từng
chứng kiến (...).
***
Hiện tại trong một số lĩnh vực
như lao động trong các doanh nghiệp tại Việt Nam, lao động trẻ em hay nạn cưỡng
ép phụ nữ bán dâm tại Việt Nam, theo một số đánh giá, nhìn chung đã có một số
cải thiện trên phương diện luật pháp (với những thay đổi như Luật Lao động
sửa đổi 2012 đưa thêm điều khoản về « cưỡng ép lao động » hay Luật
xử lý vi phạm hành chính [2012] đối với hành vi bán dâm, thay vì bắt người
bán dâm vào trại giáo dưỡng, phục hồi nhân phẩm như trước đây…). Sự hợp tác của
chính quyền Việt Nam với các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực này cũng đã mang
lại một số tiến bộ căn bản. Về tình hình cưỡng bức trong lĩnh vực mại dâm, chị
Ngô Thị Mộng Linh - trưởng nhóm « Bình minh đêm » hỗ trợ những người
nghiện ma túy và hành nghề mãi dâm, thành viên mạng lưới hỗ trợ những người lao
động tình dục ở Việt Nam (VNSW) – ghi nhận một số tiến bộ đạt được trong năm
qua (xin nghe phần âm thanh ở dưới bên phải).
Nghe
(03:40) : Chị Ngô Thị Mộng Linh (Sài Gòn) 23/10/2013
Buôn người ra nước ngoài để
cưỡng ép lao động hay bán dâm là một chủ đề ngày càng được công luận Việt Nam
chú ý hơn. Đầu mùa hè năm ngoái, Ca sĩ Mỹ Tâm - đại sứ của MTV Exit (Chương
trình chống buôn người và các hình thức nô lệ hiện đại của tổ chức MTV Europe
Foundation) tại Việt Nam - cho ra mắt cuốn phim tài
liệu « Enslaved/Làm Nô lệ » (phim tiếng Việt, với phụ đề tiếng Anh)
tiếng để cảnh báo về nạn buôn người nói chung, đặc biệt là việc lừa gạt để buôn
bán phụ nữ qua biên giới.
Nhìn chung, cho dù chính quyền
Việt Nam đã ban hành Luật về phòng chống buôn người, theo ghi nhận của nhiều
người am hiểu, dường như vẫn còn rất nhiều đất sống cho tình trạng nô lệ hiện
đại, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. Sự yếu kém của các mạng lưới
tổ chức thuộc xã hội dân sự, khả dĩ giúp cho cơ thể xã hội có thể tự đề kháng
trước các mưu đồ lừa đảo, lạm dụng và khống chế của những đường dây buôn người,
cùng không khí dung túng cho một hệ thống các hoạt động làm giàu trên sinh mạng
của những người lao động cả tin, và thường có học vấn thấp, là những điều
thường được các chuyên gia nói đến như là những nguyên nhân trực tiếp để cho một
tình trạng như vậy kéo dài.
Các hình thức nô lệ mới thách
thức lương tri của nhân loại hiện đại. Cưỡng bức lao động nghiêm trọng tại các
trại tù Việt Nam, qua một số nhân chứng kể trên cũng như nhiều nhân chứng khác
trong thời gian qua, là một thực tế nhức nhối. Trong vấn nạn nô lệ hiện đại,
bên cạnh những nguyên nhân đến từ bên ngoài, rất nhiều cội rễ nằm trong chính
xã hội, trong bộ máy quyền lực. Thảm trạng của các tù nhân bị cưỡng bức lao
động có liên quan đến một chế độ xã hội, đang tiếp tục duy trì sự ổn định của
mình dựa trên sự sợ hãi và khuất phục. Bên cạnh trường hợp các nạn nhân do hoàn
cảnh kinh tế khó khăn, bị đẩy vào bước đường cùng, bị lừa đảo mà rơi vào cạm
bẫy của các đường dây buôn người, lao động cưỡng bức trong các trại giam, nhà
tù, vừa mang lại nguồn thu kinh tế quan trọng, vừa là phương tiện đè bẹp nhân
phẩm của các tù nhân, và thông qua các tù nhân là thân nhân và những người gần
gũi với họ, là xã hội xung quanh.
Việt Nam đang ở trên bước
chuyển biến lớn trong nỗ lực nhận dạng và xóa bỏ các hình thức khác nhau của nô
lệ thời mới. Vấn đề là những người cầm quyền có thiện chí và quyết tâm đi hẳn
về phía Ánh sáng hay không ; bộ phận đa số trong xã hội có coi việc xóa bỏ hoàn
toàn các hình thức nô lệ mới là thách thức thiết thân hay không ?
Nói đến các hình thức nô lệ
mới, các bạo lực trong hình thức trần trụi nhất, khi cái Ác muốn áp đặt sự
thống trị tuyệt đối, không thể không nhớ đến những con người xả thân vì nghĩa
cả. Khi hàng chục, hàng trăm ngàn thân phận bị đày đọa trong bóng tối-trong sự
thờ ơ, ở tận cùng của những nơi tăm tối nhất-bất công nhất, vẫn có những tâm
hồn bừng cháy cho một niềm hy vọng vào một ngày mai, xóa tan hoàn toàn mọi hình
thức nô lệ-nô dịch con người. Với niềm tin rằng xuyên qua bóng tối ấy, mà con
người đi đến một tương lai.
Xin chân thành cảm ơn bà Phạm Thanh Nghiêm, chị Ngô Thị
Mộng Linh, ông Nguyễn Bắc Truyển, anh Nguyễn Tiến Đạt và Tiến sĩ Nguyễn Đình
Thắng đã dành thời gian cho Tạp chí.
Mời quý thính độc giả nghe thêm toàn phần phỏng vấn với
các khách mời trong các hộp âm thanh gắn kèm với bài viết.
Các tin bài liên quan
Nô lệ hiện đại là vấn đề "hệ thống", rất cần
đến xã hội dân sự tham gia
TS
Nguyễn Đình Thắng : Tình trạng buôn người, buôn lao động ở Việt Nam
là một vấn đề có hệ thống. Muốn giải quyết một vấn đề có hệ thống như vậy, thì
bắt buộc phải có sự tham gia của xã hội dân sự, còn gọi là xã hội công dân,
nghĩa là ở trong một môi trường mà mọi người dân, hễ thấy những chuyện bất
nhẫn, những vấn nạn của xã hội, thì được quyền tập hợp lại với nhau, để giải
quyết vấn đề ở mức địa phương hoặc trong vùng, hoặc toàn quốc, nơi mà tầm hoạt
động của mình cho phép, thì họ phải được quyền và được khuyến khích để mà ngăn
ngừa, cũng như bài trừ nạn nô lệ. Hiện nay, đất nước Việt Nam, xã hội Việt Nam
chưa cho phép sự phát triển của xã hội công dân, chưa cho phép người dân và
những tổ chức ngoài chính phủ tự động đứng ra để giải quyết những vấn nạn có hệ
thống, thành ra chúng tôi thấy rằng rất khó để bài trừ được tình trạng buôn bán
người trong mọi lĩnh vực, dù là vấn đề tình dục hoặc lao động, nội địa hoặc ở
nước ngoài. Chỉ khi nào mọi người dân, mọi tổ chức dân sự đều có quyền nhập
cuộc, thì lúc đó chúng ta mới có quyền thấy được ánh sáng cuối đường hầm.
No comments:
Post a Comment