DIỄN
ĐÀN
Thế là ông Võ Nguyên Giáp, một trong những đại công
thần và đại trung thần cộng sản, đã ra đi. Đi về với “cụ Mác, cụ Lê, bác Hồ” mà
ông đã trung thành cho đến chết, lúc thọ 103 tuổi, bất chấp lời những đồng chí
một thời của ông bên trời tây: “20 tuổi mà không theo Cộng sản là không có
trái tim, 40 tuổi mà không từ bỏ Cộng sản là không có cái đầu” (Milovan
Djilas, phó lãnh tụ đảng Cộng sản Nam Tư) hay “Ai tin Cộng sản là không có
cái đầu. Ai làm theo lời của Cộng sản là không có trái tim” (Vladimir
Putin, Tổng thống đương nhiệm Liên bang Nga, cựu giám đốc KGB Xô viết). Đúng là
một người cộng sản chính hiệu (không phải chân chính, vì làm gì có người cộng
sản chân chính theo nghĩa công chính đạo hạnh!). Đảng CSVN đã mừng húm về việc
ông ra đi, vì lúc này hơn lúc nào hết, đảng cần đến quá khứ gọi là “huyền
thoại” của ông, huyền thoại mà cái chết của ông làm cho thành vĩnh viễn (dù họ
biết huyền thoại này là giả và đã dùng nó để khống chế ông bao năm trường). Họ
mừng húm đến độ gọi là ngày “quốc tang vui vẻ” (VTV)!?!
Đảng đang thấy uy tín của mình xuống dốc một
cách thảm hại: kinh tế bết bát, mấy trăm ngàn doanh nghiệp phá sản; tham
ô, tham nhũng trở thành quốc nạn; an ninh trật tự chẳng còn, công an và
côn đồ cùng lộng hành như nhau; đảng viên phần thì hư đốn, ngày càng làm nhục
và làm hại đảng, phần thì sạch bách lý tưởng, thấy mình mê lầm, chỉ muốn bỏ đi.
Thế là từ một góc khuất, một bóng mờ, Võ Nguyên Giáp được bơm lên thành một
thánh nhân, một vĩ nhân, để quốc dân và quốc tế thấy từng có một người cộng sản
lẫy lừng như thế, bách thắng như thế, tài giỏi như thế, ái quốc như thế, trung
thành với lý tưởng cộng sản như thế. Để dựa vào cái chết của ông mà tô
hồng cái chế độ vốn đã đen thui như mõm chó mực này, để người dân
tạm quên đi bao vấn đề nhức nhối trong cuộc sống, để đảng lại được ca
ngợi công lao thành tích vốn đã xa lắc xa lơ của mình, để ánh hào quang
của viên đại tướng giúp củng cố tính chính danh đang tiêu biến dần của đảng.
Chính vì thế tất cả sức mạnh của hệ thống chính trị
đã được huy động: toàn thể Bộ Chính trị đương thời (trừ 2 bà Ngân và Phóng) vào
ban tang lễ; để tới 10 ngày mới tổ chức lễ tang và dành hai ngày quốc tang; nổi
bật hơn mọi cuộc tạ thế khác (kể cả cụ Hồ) là toàn quốc sẽ có đến cả trăm bàn
thờ để nhân dân, bộ đội nhang đèn hương hoa đến kính vái “cụ Giáp” (Tổng Quân
ủy đã chỉ thị mỗi trung đoàn sẽ phải thiết lập một bàn thờ cụ và phải mở rộng
cửa doanh trại cho công chúng vào viếng cụ!). Dàn báo chí công cụ và lũ dư luận
viên đầy tớ thì mặc sức tung hô cụ lên đến trời, không tiếc lời (chỉ có điều là
im re về những nỗi nhục ê chề, những vu oan giá họa và những tháng năm thất
sủng của cụ thôi)…. Thậm chí nhiều nhà trí thức chế độ, phản biện gia trung
thành cũng không ngần ngại viết: “Xuất thân là một trí thức, Võ Nguyên Giáp
tự nguyện đem tài trí của mình đáp ứng đòi hỏi của non sông đất nước khi giờ
khắc lịch sử đã điểm. Và Ông đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao phó,
làm nên chiến dịch Điện Biên Phủ lẫy lừng. Nói trí thức là nguyên khí quốc gia
thì ở thời đại hôm nay, ông chính là biểu tượng hàng đầu”!?! Tất cả nhằm
tạo nên và đã thực sự tạo nên một cơn lên đồng tập thể suốt 10 ngày tại Hà Nội,
nhất là hôm đưa đám, với những đoàn người ôm hình đại tướng vật vã khóc than,
với những đoàn viên thanh niên quỳ làm hàng rào bảo vệ xe linh cữu…. Y như trong
đám tang của tên đồ tể Kim Chính Nhật cách đây mấy năm bên Bắc Hàn và đám tang
của Hồ Chí Minh thế kỷ trước.
Đảng ưu ái quan tâm đến sự ra đi của ông Võ Nguyên
Giáp cũng có lý do, trước hết và trên hết vì ông là một đại trung thần (tôi tớ
trung thành rất mực). Về điểm này, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh viết rất chí lý: “Ông
là người của chế độ độc đảng toàn trị và ông là bậc tôi trung, mỗi lời mở ra
không bao giờ nằm ngoài ý Bác, ý Đảng nên ông thụ động ngồi chờ sự chọn lựa
(của Đảng và Bác)… Ông là bậc tôi trung, ông luôn chấp hành nghị quyết và ý chí
của đảng… Nghị quyết đặt ông ở đâu và ông luôn chấp hành ngồi ở đó. Sự chấp
hành tuyệt đối nguyên tắc đảng của ông làm người ta thấy ông là mẫu người của
"Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”… Trong phát biểu của ông,
ông thường xuyên nhắc đến Bác và Đảng, và nhắc đến với một thái độ hết sức tôn
kính gây ra cho tôi một cảm giác là ông không thể nào có ý kiến gì khác những ý
kiến của Bác và Đảng đã đề ra và đã thấm sâu vào trong ông tự bao giờ… Một lòng
trung quân mê muội" (bài Tôi Trung).
Chính vì thế, bắt chước Hồ Chí Minh coi Mao Trạch
Đông là thầy, Võ Nguyên Giáp cũng học đòi chiến lược và chiến thuật của tay
lãnh tụ Tàu cộng. Bài học ấy là chiến tranh du kích kéo dài và sẵn sàng nướng
quân, thí tướng kiểu tấn công biển người để chiến thắng (Mao chẳng từng tuyên
bố có thể hy sinh 300 triệu dân Tàu để bá chủ thế giới sao?). Do đó tướng Giáp
không hề thương sinh mạng của quân sĩ. Về điểm này, cựu đại tá Bùi Tín kể lại: “Sau
chiến thắng lớn như trên [Điện Biên Phủ], các nhà bình luận quân sự
phương Tây thường chỉ ra phía kháng chiến đã chịu những tổn thất khủng khiếp,
gấp 3 hay 4 lần đối phương. Cái giá phải trả cho chiến thắng là quá lớn, lớn
đến khủng khiếp, toàn là trai tráng thanh niên tuấn tú, có lý tưởng, chất lượng
cao của dân tộc. Đây là sự thật. Hồi tháng 4-1996, trong cuộc hội thảo ở trụ sở
Quốc hội Hoa kỳ, tướng Westmoreland nói với tôi rằng: “…Nếu như tướng Giáp là
một viên tướng Hoa Kỳ thì ông đã bị mất chức từ lâu rồi, vì Quốc hội chúng tôi,
xã hội chúng tôi không thể chấp nhận những tổn thất sinh mạng của quân đội mình
cao đến vậy”… Đây là điểm tiêu cực nhất của tướng Giáp, là tỳ vết sâu đậm nhất
của một danh tướng, từng được coi là Người Anh Cả của Quân đội Nhân dân. Ông
mang danh là một viên tướng «Sát Quân», sát quân một cách lạnh lùng”. Chính
thượng nghị sĩ John McCain, cựu phi công từng bị quân đội cộng sản Bắc Việt bắt
làm tù binh, mới đây cũng nói: để đánh bại quân thù, vị tướng quá cố sẵn sàng
chấp nhận thương vong khổng lồ và sự tàn phá gần như hoàn toàn nước Việt. Chiến
lược của ông không phải là "chiến lược hòa bình" như ông đã nói với
Dominique Bari, một nhà báo của tờ Nhân Đạo (l’Humanité, của đảng Cộng sản
Pháp) vào năm 2004, mà là chiến lược giành chiến thắng trong dài hạn với cái
giá hy sinh nhân mạng cao không gì so sánh nổi; và ông đã chẳng hề hối tiếc về
số 3-4 triệu người Việt Nam chết vì các cuộc chiến tranh gọi là chiến tranh ý
thức hệ. Đó chẳng phải là sự trung thành với nguyên tắc luân lý cộng sản : «Cứu
cánh biện minh cho phương tiện» sao ?
Tấm lòng tận trung với Đảng và Bác của ông Giáp còn
tỏ ra sau vụ Cải cách Ruộng đất ngày long trời đêm lở đất, đẫm máu nông dân tan
tành làng mạc và có nguy cơ đe dọa cả Đảng lẫn Bác. Lúc ấy, với hào quang “anh
hùng Điện Biên”, ông đã giơ đầu chịu báng (đứng ra xin lỗi toàn dân), để ông Hồ
chỉ giỏ một giọt nước mắt mà thoát hết cả mấy chục vạn tội giết người. Rồi tuy
cũng là trí thức như luật sư Nguyễn Mạnh Tường, nhưng vì ông này đã dám phê
bình Đảng và Bác về cuộc Cải cách ruộng đất tàn ác và vô luật, Võ Nguyên Giáp
vẫn để mặc cho người bạn đồng liêu bị Hồ Chí Minh đày đọa cho đến chết. Trong
vụ Nhân văn Giai phẩm xẩy ra năm 1955, nhiều người đã ở trong Quân đội Nhân dân
dưới quyền tướng Giáp như Trần Dần, Hoàng Cầm, Quang Dũng, Phùng Quán… bị đem
ra đấu tố, tù đầy theo lệnh Hồ Chí Minh và Tố Hữu, ông ta vẫn giữ im lặng.
Trong vụ án «Xét lại chống đảng» do đám Lê Duẩn, Lê Đức Thọ chủ mưu và dàn
dựng, các tướng Cộng sản đàn em của ông Giáp như Lê Liêm, Đặng Kim Giang,
Nguyễn Văn Vịnh, các Đại tá thuộc cấp như Lê Minh Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Văn
Dzoãn… bị hãm hại, ông vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Khi các tướng Lê Trọng Tấn,
Hoàng Văn Thái (cũng là thông gia của Giáp) bí ẩn đột tử sau khi miền Nam đã bị
cộng sản hóa, ông ta vẫn ngậm miệng, im lặng là vàng, kẻo làm mất uy tín đảng.
Cũng vì sợ mất uy tín đảng mà vị đại tướng từng đương đầu với Pháp và đang
thống lĩnh quân đội câm lặng trước công hàm bán nước 1958 dâng đảo cho Tàu,
trước việc Tàu xâm lăng Hoàng Sa của đất Việt.
Cũng chính vì “nghị quyết đặt ông ở đâu, ông luôn
chấp hành ngồi ở đó” mà năm 1983, lúc ông 70 tuổi, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã
nhân danh đảng (thật ra là vì thù ghét và khinh thường), xếp ông vào vai trò
Chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch. Thế mà vị đại tướng vẫn
nhẫn nhục (đúng ra là nhục nhã) chấp nhận không phản đối một lời, còn biện minh
là chẳng muốn làm mất sự đoàn kết trong đảng (điếu văn của Nguyễn Phú Trọng có
khen điều này).
Biết rằng Hiến pháp của Đảng năm 1980 đưa vào điều 4
hiến định sự độc quyền lãnh đạo của đảng, đến Hiến pháp năm 1992 và dự thảo sửa
đổi HP đầu năm nay vẫn lưu giữ điều này, đang khi cũng nghe vô vàn trí thức,
nhân sĩ (nhiều người suy tôn ông như mẫu mực, như biểu tượng), vô vàn chức sắc
lẫn dân thường chỉ ra những tai hại của điều khoản phi lý vô luật và vi hiến
này rồi mạnh mẽ phản đối nó, Võ Nguyên Giáp, xứng danh trung thần của đảng,
chẳng hề lên tiếng. Ông như cho rằng sự độc tài cai trị của đảng là điều thiêng
liêng, tối thượng, không phải bàn cãi. Có phản đối chăng là phản đối việc phá
bỏ hội trường Ba Đình, việc khai thác bauxite Tây Nguyên, hay việc sát nhập cả
tỉnh Hà Đông vào Hà Nội. Những điều này đâu có động đến quyền lực đảng!
Một điểm nữa chứng tỏ lòng tận trung với đảng của Võ
Nguyên Giáp chính là ông chưa bao giờ lên tiếng về Luật đất đai vốn coi đảng
như sở hữu chủ mọi tài nguyên đất nước, chưa bao giờ mở miệng bênh vực hàng
triệu dân oan mất đất mất nhà, trong số đó ông hàng ngày thấy hàng ngàn kẻ đi
qua ngôi nhà của ông ở Hà Nội trong dáng điệu lếch thếch, mệt mỏi, tuyệt vọng.
Phải chăng đã từng bình thản hy sinh hàng triệu binh lính trong các cuộc chiến
mà ông chỉ huy lãnh đạo, nên cuộc sống điêu đứng của hàng triệu nông dân và thị
dân bị đồng đảng và đồng chí của ông tước đoạt ruộng vườn nhà cửa, có đáng gì
để ông bận tâm ? Đề nghị đảng trả lại quyền tư hữu đất đai cho nông dân để đảng
chẳng còn gì để củng cố quyền lực, như thế chẳng hóa ra bất trung với đảng sao
?
Đảng CS hẳn nhớ ơn Võ Nguyên Giáp vì lòng trung
thành của ông, trung thành đến độ mê muội, một lòng trung thành mà họ đã lợi
dụng lúc ông còn sống cũng như lúc ông chết. Nhưng nhân dân VN thì không phải
nhớ ơn ông gì cả vì ông đã góp phần (cho đến cuối đời) xây nên một chế độ gian
dối và tàn ác chưa từng có, một chế độ đang đẩy đất nước đến bờ vực thẳm và
tuyệt vọng.
Ban
Biên Tập
No comments:
Post a Comment