Trương Vũ: Những suy nghĩ về ngày 30/4
(phỏng vấn)
18.05.2012
Bài phỏng vấn dưới đây do nhà thơ Nguyễn Thị Thanh
Bình thực hiện. Một bản câu hỏi đã được gửi đến nhiều văn nghệ
sĩ trong và ngoài nước. Tiền Vệ sẽ lần lượt đăng tải loạt bài này.
Tiền Vệ
_______
TRƯƠNG VŨ: NHỮNG SUY NGHĨ VỀ NGÀY 30/4
Nếu chỉ đọc trên báo chí, nghe lời hô hào, hay nhìn khẩu hiệu
trong các cuộc tuần hành, quả thật chúng ta thường thấy xuất hiện những tên gọi
như Quốc Hận, Tháng Tư Đen, ngày Giải Phóng, hay ngày Đại Thắng Mùa Xuân,...
dành cho ngày 30 tháng Tư 75. Thế nhưng, ý nghĩa thật sự của nó với mỗi người
Việt phức tạp hơn nhiều. Rất khó để tìm được một tên gọi chung. Cho mỗi người,
ý nghĩa hay tâm trạng cá nhân về ngày này cũng thay đổi theo thời gian. Ở trong
nước, cùng là đảng viên Cộng Sản, cùng phấn đấu chung trong chiến khu, cùng có
chung một tâm trạng hồ hởi vào 37 năm trước, nhưng tâm trạng ngày nay của một
chị cán bộ mặc đồ đầm ngồi trong chiếc xe hơi sang trọng với tài xế riêng chắc
chắn phải khác với tâm trạng một bộ đội về già, tay trắng, chiều chiều ra ngồi
quán bia chửi Đảng. Ngoài nước cũng thế, tâm trạng của những người mất cả tuối
trẻ của họ trong chiến tranh, trong các trại “cải tạo”, hay mất cha mẹ, vợ
chồng, con cái, anh chị em trong các chuyến vượt biên thảm khốc chắc chắn phải
khác với tâm trạng của một số gia đình đánh cá trước đây rất nghèo khổ. Ngày
xưa, những gia đình này cả làng họ không có lấy một y tá, ngày nay họ cật lực
làm ăn trên đất Mỹ, nuôi con ăn học, có gia đình có đến 3, 4 đứa con hành nghề
bác sĩ. Thỉnh thoảng, họ về thăm làng cũ, giúp xây nhà thương, trường học, xây
lại mồ mả ông bà, xây lại nhà cửa của cha mẹ thành những biệt thự sang trọng mà
nhiều người sống chỉ nhìn thấy trong mơ. Tôi không tin ngày 30 tháng Tư chiếm
một vị trí đáng kể nào trong tâm tư, tình cảm của họ. Nếu có, khó bảo nó mang ý
nghĩa của một thảm kịch. Với những trẻ em dưới 13 tuổi khi chiến tranh chấm
dứt, có thể có ít nhiều dao động vào lúc đó, nhưng sau 37 năm vật lộn với cuộc
sống, bây giờ đang chuẩn bị cho những ngày hưu trí không còn xa, 30 tháng 4
chắc chỉ còn là một dấu ấn mờ nhạt. Thành phần này chiếm đa số của dân tộc.
Tâm trạng của tôi vào những ngày đó của 37 năm xưa đơn giản chỉ là
tâm trạng của một anh nhà giáo thuộc diện quân nhân biệt phái, mang nhiều mơ
ước cho tương lai như bao con người bình thường khác. Bỗng dưng, thấy mình
thuộc phe bại trận, và bao ước mơ tan thành mây khói. Tệ hơn, khi nhìn quanh
không thấy một cấp lớn nào, quân sự hay dân sự. Cũng không thấy có bao nhiêu
bạn bè cón lại. Những ngày tiếp theo đó được nghe kể về cái chết của tướng
Nguyễn Khoa Nam. Thêm cảm giác hụt hẫng. Cho đến lúc đó, Vùng 4 vẫn là niềm hy
vọng sau cùng, dù mỏng manh, cho cả nước. Miền Nam có một triệu quân. Cho đến
ngày 30 tháng Tư, 1975, Vùng 4 gần như không có thiệt hại quân sự gì đáng kể.
Dưới quyền tướng Nguyễn Khoa Nam, chắc chắn phải có ít nhất một trăm ngàn quân.
Ông không cho phép quân nhân dưới quyền rời bỏ nhiệm sở. Thực tế như thế nào,
chúng ta đã biết. Tôi cố hình dung tâm trạng ông vào những ngày đó, và cái vắng
lặng kinh hoàng ông cảm nhận được. Tâm trạng của ông phải khác tôi nhiều lắm.
Nỗi đau lớn gấp trăm ngàn lần. Ý nghĩa của ngày đó đối với ông thật sự như thế
nào khó ai biết, nhưng chắc chắn nó không giống với bất cứ ai trong chúng ta.
Thời gian qua, bao nhiêu đổi thay, bao nhiêu biến cố dồn dập đến
trên thế giới, và bao nhiêu sự thật phơi bày trên đất nước, tôi không còn nhìn
về ngày 30 tháng 4 như xưa nữa. Bây giờ, với tôi, “30 tháng Tư, 1975” là ngày khởi đầu cho một sự sụp
đổ thê thảm, một hình thức khác của bại trận, của chủ nghĩa Cộng Sản tại Việt
Nam, tại Đông Âu, tại các nước Liên Xô cũ, và tại nhiều nơi khác trên thế giới.
Tôi tin rằng nhiều người Việt khác cũng giống tôi, nhìn ý nghĩa
của ngày 30 tháng Tư 75 không còn giống xưa. Tâm trạng của họ vào những ngày
này mỗi năm cũng dần dần đổi khác. Ngày nay, những khẩu hiệu, những cờ quạt,
những lời hô hào trên máy vi âm, cùng với những suy nghĩ phát đi từ vị trí
những người trong một cuộc chiến đã chấm dứt lâu rồi, được nói ra cũng đã lâu
rồi, có thể hay, có thể dở, có thể đúng, có thể sai. Tuy nhiên, tất cả những
cái đó khó thể phản ảnh những suy nghĩ, những vui buồn, những lo âu, những phấn
đấu thật sự của đại đa số dân tộc ngày hôm nay. Tôi muốn nghĩ nhiều hơn đến
những vấn nạn, những cuộc chiến mới, không súng đạn nhưng đầy cam go đang xẩy
ra và những gì sẽ xẩy tới cho dân tộc.
Ngày
nay, chủ nghĩa Cộng Sản đã đại bại, đã tiêu ma ngay cả trong lòng những cán bộ
mà cả tuổi trẻ họ đã sống chết cho lý tưởng Cộng Sản. Nhưng
cái biến chứng phát sinh từ sự đại bại đó rất nhiều và khó lường. Vấn nạn lớn nhất là lối cai trị đi ngược hoàn toàn với sự tiến bộ và
những xu hướng nhân bản của thời đại, vẫn tiếp tục tồn tại. Một vấn nạn khác của dân tộc là chữ “Cộng
Sản” vẫn tiếp tục được dùng để sống dối trá với nhau. Trong nước, để vinh
danh, xưng tụng, dạy dỗ, hô hào. Ngoài nước, để chụp mũ, đập phá. Rất khó để
bảo rằng dân tộc Việt Nam, và đặc biệt giới trẻ Việt Nam, không có những khát
vọng về dân chủ, tự do và khát vọng được sống một đời có phẩm cách, như rất
nhiều dân tộc khác trên hoàn cầu. Giới trẻ Việt Nam ngày nay thực sự rất thông
minh, có sức sống mãnh liệt, và biết khá rõ đời sống những người trẻ như họ ở
ngoài nước. Thế nhưng, những bài học lạnh người về khả năng đàn áp của chính
quyền, những kinh nghiệm sờ sờ về hậu quả bi thảm của nói thật, sống thật, cũng
như kinh nghiệm để cá nhân tồn tại đã có từ thời thực dân và trải dài cho đến
nay, đã khiên cả nước phát triển rất cao một khả năng ít thầy ở những nơi nào khác
trên thế giới. Đó là loại khả năng chúng ta thấy hằng ngày trên các đường phố ở
Sài Gòn hay Hà Nội, qua cách chạy xe của mọi người. Khả năng “Lách”. Người có
quyền hành, lách theo cách của kẻ có quyền, kể cả nhân danh vô sản để sống như
tư bản, để vẫn có thể vơ vét, hưởng thụ tận cùng, và vẫn tiếp tục có quyền.
Người dân thường, lách để tồn tại, để có thu nhập cao hơn, để có cuộc sống tốt
hơn mà không đụng chạm ai. Thế nhưng, vẫn không nên xem thường những khát vọng
của từng con người nhỏ bé cùng với những nỗ lực dù rất khác nhau để làm đẹp đời
sống. Cũng không nên coi nhẹ những bất mãn rất bình thường của họ mà nếu nhìn ở
từng người trông chẳng có nghĩa lý gì. Khó ai dám nói là tất cả, vào một ngày
nào đó, sẽ không cộng hưởng với nhau để tạo nên một đổi thay vô cùng lớn. Dĩ
nhiên, đừng hy vọng đi tìm một đổi thay như ta muốn thấy ngay sau thời điểm 75.
Con người ngày hôm nay, kể cả con người Việt Nam, về hiểu biết, về khát vọng,
khác xưa nhiều lắm. Thê giới cũng đã hoàn toàn đổi thay và nhỏ đi.
Bây giờ, xin trở lại với vài câu hỏi khác của Nguyễn Thị Thanh
Bình.
Về mấy câu nói của các ông lãnh tụ như Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt, tôi
đề nghị chúng ta không nên phí thì giờ bàn cãi. Mấy ông lãnh tụ của đảng Cộng
Sản, hay xuất thân từ đảng Cộng Sản, phần đông có khả năng lớn về hài kịch. Ở
Nga, ông Putin trổ tài ở trân, cỡi ngựa, đấu kiếm, vật lộn,... Ở Việt Nam, ông
chủ tịch nước đi qua Cuba nói cho dân Cuba biết “Việt Nam và Cuba thay phiên
nhau canh giữ hòa bình thế giới, Việt Nam ngủ, Cuba thức...”. Tài hài kịch của
họ biểu lộ rõ ngay cả khi họ cố đóng vai “đào thương” trong bi kịch, như cảnh
đấm ngực nhận lỗi của ông “Trần Dân Tiên” sau Cải Cách Ruộng Đất chẳng hạn.
Về câu hỏi “người cầm bút phải làm thế nào để có thể băng bó
vết thương chung của dân tộc?” tôi xin mượn chuyện Nhật Bản để góp ý. Cuộc
bại trận ê chề nhất trong lịch sử của Nhật Bản xẩy ra vào 1945. Sau đó, nước
Nhật có nhiều nhà văn được thế giới biết tiếng và nể trọng, đáng kể nhất là
Yasunari Kawabata (giải Nobel văn chương 1968), Yukio Mishima (tác giả tiểu
thuyết Kim Các Tự), và Kenzaburo Oe (giải Nobel văn chương 1994). Cả ba có quan
niệm xây dựng tác phẩm khác nhau. Ở ngoài đời, họ biểu lộ nhận thức về chính
trị, xã hội cũng hoàn toàn khác nhau. Mishima và Oe khác nhau như nước với lửa.
Thế nhưng, tác phẩm của họ đều lớn, làm lớn sự nghiệp riêng của họ, làm văn học
Nhật Bản lớn hơn, và làm dân tộc Nhật lớn hơn. Nhưng, không thấy ai đề ra hay
hô hào trách nhiệm băng bó vết thương chung của dân tộc. Kenzaburo Oe còn ngược
lại, đâm xoáy vào những vết thương kinh hoàng mà người Nhật muốn quên, những
vết thương mà nước Nhật gây ra cho thế giới, mà quân đội Nhật đã gây ra cho
chính dân họ. Tôi nghĩ, khi xây dựng tác phẩm, nhà văn cứ sống hết lòng, sống
thật với mình, nghĩ sao cũng được. Không có gì sai khi người đọc cãm được chất
thép trong một bài thơ hay. Nhưng, hô hào hay chủ trương “trong thơ phải có
thép”, hay trao truyền một trách nhiệm lịch sử cho nhà văn lại là chuyện rất
khác. Chuyện này, các ông Hồ Chí Minh và Tố Hữu giỏi lắm. Và, đại họa cho văn
học và cho cả dân tộc cũng phát sinh từ đó.
Trương Vũ
Maryland, tháng 5, 2012
-------------
Đã đăng:
13.05.2012
12.05.2012
11.05.2012
10.05.2012
09.05.2012
Đinh Từ Bích Thúy: Những suy nghĩ về ngày 30/4 (phỏng vấn) - Ðinh Từ Bích Thúy
/ Nguyễn
Thị Thanh Bình
08.05.2012
07.05.2012
06.05.2012
05.05.2012
04.05.2012
03.05.2012
03.05.2012
02.05.2012
GS Nguyễn Ngọc Bích:
Những suy nghĩ về ngày 30/4 (phỏng vấn) - Nguyễn Ngọc Bích / Nguyễn Thị Thanh
Bình
02.05.2012
01.05.2012
30.04.2012
30.04.2012
29.04.2012
28.04.2012
28.04.2012
.
No comments:
Post a Comment