Bùi Hằng
Dân
Luận
Chủ
Nhật, 20/05/2012
LTS: Khi còn bị giam cầm trái pháp luật trong CSGD Thanh Hà,
cán bộ của trại giam trá hình này luôn gây khó dễ, khống chế không cho Bùi Hằng
được ký vào mẫu đơn khiếu nại, đơn khởi kiện hành chính (do luật sư đã soạn
thảo sẵn mà họ bắt Bùi Hằng phải chép tay cho nên xảy ra những sai sót). Có 2
lần Bùi Hằng đã tự tay viết lại và gửi đi nhưng họ không cho gửi. Bây giờ, khi
đã hoàn toàn tự do, Bùi Hằng muốn gửi ngay đến tòa án thành phố Hà Nội về đơn
kiện này. Không biết tòa còn lấy lý do ĐƠN KHỞI KIỆN HÀNH CHÍNH không được ký
vào văn bản có sẵn như cán bộ trại giam Thanh Hà để gây khó dễ cho Bùi Hằng được
nữa không?
------------------------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 16 tháng 05 năm 2012
ĐƠN KHỞI KIỆN HÀNH CHÍNH
Kính gửi: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
Địa chỉ: 43 Hai Bà Trưng, quận Hoàn Kiếm,
Hà Nội
Người khởi kiện:
Tôi, Bùi Thị Minh Hằng, sinh năm 1964, CMND
số 273278857 do công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp ngày 25/11/2004, hộ khẩu
thường trú tại số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu, điện thoại 0913784415
Người bị kiện:
1. Họ và tên: Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo.
2. Quyết định hành chính: Quyết định số
5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 do Phó Chủ tịch Vũ Hồng Khanh ký thay Chủ tịch
UBND Tp.Hà Nội về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
III. Tóm tắt nội dung:
Khoảng trưa ngày 27/11/2011, nghe tin ở Hà
Nội công an bắt một số người tại khu vực Bờ Hồ Hoàn Kiếm vì cho rằng họ có hành
vi tự phát biểu thị thái độ ủng hộ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Quốc hội
đưa vào chương trình làm việc khóa 13 của Quốc hội ban hành Luật biểu tình, tôi
Bùi Thị Minh Hằng cùng 03(ba) người khác đã đứng giơ trên tay mảnh giấy ghi
“Phản đối đàn áp người ủng hộ Quốc hội ra luật biểu tình” ở cạnh khu vực Nhà
thờ Đức Bà – Tp.Hồ Chí Minh. Ngay sau đó người thân của tôi bị Công an phường
Bến Nghé, quận I, Tp.Hồ Chí Minh bắt giữ, tôi đến trụ sở công an phường để đòi
người thì bị giữ lại. Sang ngày 28/11/2011, tôi bị công an cưỡng chế từ Tp.Hồ
Chí Minh ra Hà Nội và đưa vào Cơ sở giáo dục Thanh Hà tại xã Gia Khánh, huyện Bình
Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc (thuộc Tổng cục cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư
pháp, Bộ Công an quản lý) và được giao Quyết định số 5225/QĐ-UBND ký ngày
08/11/2011 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội về việc áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở giáo dục.
Ngày 29/04/2012, Giám đốc Cơ sở giáo dục
Thanh Hà – Tổng cục VIII đã buộc phải cấp Giấy Chứng Nhận số 24/GCN-CSGD về
việc miễn chấp hành “phần thời gian còn lại của Quyết định 5225/QĐ-UBND đưa tôi
vào cơ sở giáo dục Thanh Hà”.
Việc Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội ban
hành Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 nêu trên để cưỡng bức tôi vào
Cơ sở giáo dục trong thời gian từ ngày 28/11/2011 đến ngày 28/04/2012 là trái
pháp luật bởi các lý lẽ sau đây.
Thứ nhất:
Căn cứ điều 87 “Nội dung quyết định đưa vào
cơ sở giáo dục” của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, quy định:
“Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục phải ghi
rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định;
họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị đưa vào
cơ sở giáo dục; hành vi vi phạm pháp luật của người đó; điều, khoản của
văn bản pháp luật được áp dụng; thời hạn và nơi thi hành quyết định; quyền
khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào cơ sở giáo dục theo quy định
của pháp luật.”
Nhưng Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày
08/11/2011 không ghi “điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng;”.
Thứ hai:
Căn cứ điều 87 của Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 2002 thì Quyết định phải ghi rõ “nơi cư trú của người bị
đưa vào cơ sở giáo dục” nhưng Quyết định 5225/QĐ-UBND lại ghi:
“Chỗ ở hiện nay: Không có nơi cư trú nhất
định”
Để xác định nơi cư trú của công dân thì
phải căn cứ vào quy định của Luật cư trú năm 2006.
Khoản 1, điều 12 của Luật cư trú năm 2006,
quy định:
“Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp
mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường
trú hoặc nơi tạm trú.
Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc
nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở
hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở
nhờ theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống
thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký
thường trú.”
Và khoản 1, điều 24 của Luật cư trú năm
2006, quy định:
“Sổ hộ khẩu được cấp cho hộ gia đình hoặc
cá nhân đã đăng ký thường trú và có giá trị xác định nơi thường trú của công
dân.”
Tôi Bùi Thị Minh Hằng là công dân có chỗ ở
hợp pháp và thường xuyên sinh sống được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BB558764 do UBND tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu cấp 07/09/1999 là ở số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu,
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Mặt khác, Sổ hộ khẩu do Công an thành phố
Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp và CMND số 273278857 do công an tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu cấp ngày 25/11/2004 và ngay tại điều 1 của Quyết định 5225/QĐ-UBND
ngày 08/11/2011 của Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội cũng khẳng định nơi thường trú của
tôi, Bùi Thị Minh Hằng là số 106 Lê Hồng Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu. Như vậy nơi cư trú của tôi, Bùi Thị Minh Hằng là 106 Lê Hồng
Phong, phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Như vậy, với các bằng chứng và các căn cứ
pháp luật nêu trên cho thấy tại Điều 1, Quyết định 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011
của Chủ tịch UBND Tp.Hà Nội cho rằng tôi, Bùi Thị Minh Hằng “Không có nơi cư
trú nhất định” là hoàn toàn trái với các quy định của pháp luật.
Thứ ba:
Căn cứ khoản 1, điều 3 của Nghị định số
76/2003/NĐ-CP ngày 27/06/2003 và Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008
sửa đổi, bổ sung, quy định:
“Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục:
Người có một trong các hành vi vi phạm pháp
luật sau đây có tính chất thường xuyên (có từ hai lần vi phạm trở lên trong
thời hạn 12 tháng), nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và đã bị áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú nhất định.”
Tôi, Bùi Thị Minh Hằng không phải là người
không có nơi cư trú nhất định vì vậy tôi không là đối tượng phải đưa vào cơ sở
giáo dục như quy định tại các Nghị định nêu trên và điều 25 của Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính năm 2002.
Thứ tư:
Căn cứ khoản 2, điều 86 của Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính năm 2002, quy định:
“Quyết định đưa vào cơ sở giáo dục có hiệu
lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho người bị đưa vào cơ sở
giáo dục, cơ quan Công an cấp tỉnh, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Uỷ ban
nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.”
Quyết định 5225/QĐ-UBND ký ngày 08/11/2011
nhưng đến ngày 28/11/2011 (tức 20 ngày sau) khi bị đưa vào Trại Thanh Hà tôi mới
được nhận, trong khi tôi có địa chỉ nơi cư trú tại số 106 Lê Hồng Phong, Tp.
Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Thứ Năm:
Một bằng chứng nữa là, ngày 29/04/2012 Tổng
cục thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp – Bộ Công an đã áp giải tôi về UBND
phường 4, Tp.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu làm thủ tục giao tôi cho địa phương
giám sát, theo dõi vì tôi có hộ khẩu thường trú tại số 106 Lê Hồng Phong,
phường 4, Tp. Vũng Tàu.
Kết luận: Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 do Chủ tịch
UBND thành phố Hà Nội ban hành về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục
đối với tôi Bùi Thị Minh Hằng – công dân có nơi cư trú tại số 106 Lê Hồng
Phong, phường 4, Tp. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu là hoàn toàn trái pháp
luật.
Căn cứ điều 71, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi,
bổ sung năm 2001, quy định:
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định
của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ
trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục
hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.”
Căn cứ khoản 1, 2, 4, 5 điều 9 của Công ước
quốc tế về những quyền dân sự và chính trị năm 1966, Việt Nam tham gia năm
1982, quy định:
“Điều 9:
1. Ai cũng có quyền tự do thân thể và an
ninh thân thể. Không ai có thể bị bắt giữ hay giam cầm độc đoán. Không ai có
thể bị tước đoạt tự do thân thể ngoại trừ những trường hợp và theo những thủ
tục luật định.
2. Khi bị bắt giữ, bị cáo phải được tức thì
thông báo về lý do bắt giữ, và phải được thông báo không chậm trễ về tội trạng
bị cáo buộc.
[…]
4. Những người bị bắt giữ hay giam cầm đều
có quyền yêu cầu toà án thụ lý không chậm trễ về tính hợp pháp của sự giam giữ,
và phải được phóng thích nếu sự giam giữ được xét là bất hợp pháp.
5. Các nạn nhân trong những vụ bắt giữ hay
giam cầm bất hợp pháp có quyền khiếu tố đòi bồi thường thiệt hại.”
YÊU CẦU:
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên hủy
Quyết định số 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục đối với tôi, Bùi
Thị Minh Hằng;
Buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội Nguyễn Thế Thảo bồi thường danh dự và các thiệt hại về tinh thần, vật chất
cho tôi, Bùi Thị Minh Hằng do việc ban hành trái pháp luật Quyết định số
5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 và đã cưỡng bức tôi trong Cơ sở giáo dục Thanh Hà
05 tháng;
Xử lý trách nhiệm theo pháp luật đối với
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo và những người liên
quan.
Tôi cam đoan không đồng thời khiếu nại tiếp
đến người có thẩm quyền yêu cầu giải quyết khiếu nại về việc nội dung đơn khởi
kiện này.
Tài liệu chứng cứ kèm theo:
1. QĐ 5225/QĐ-UBND ngày 08/11/2011 của Chủ
tịch UBND Tp.Hà Nội (photo);
2. Bìa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BB558764 do UBND tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu cấp 07/09/1999 (photo);
3. Quyết định miễn chấp hành thời gian còn
lại của quyết định đưa vào cơ sở giáo dục.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Lưu gia đình.
Người làm đơn
Bùi Thị Minh Hằng
--------------------------------------
Phóng ảnh :
ĐƠN KHỞI KIỆN HÀNH
CHÍNH
Trang
1 : http://danluan.org/files/u23/bh2.jpg
Trang
2 : http://danluan.org/files/u23/bh3.jpg
Trang
3 : http://danluan.org/files/u23/bh4_0.jpg
Trang
4 : http://danluan.org/files/u23/bh12.jpg
Trang
5 : http://danluan.org/files/u23/bh5.jpg
Quyết Định v/v áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục :
Trang
1 : http://danluan.org/files/u23/bh9.jpg
Trang
2 : http://danluan.org/files/u23/bh10.jpg
Giấy chứng nhận chấp
hành xong quyết định đưa vào cơ sở giáo dục :
Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất :
Trang
1 : http://danluan.org/files/u23/bh7.jpg
Trang
2 : http://danluan.org/files/u23/bh8.jpg
No comments:
Post a Comment