Lê Quỳnh
BBCVietnamese.com, London
Cập nhật: 23:01 GMT - thứ tư, 23 tháng 5, 2012
Bốn nhà nghiên
cứu về Việt Nam nói với BBC nhận định của họ về chính trị Việt Nam và
viễn cảnh có dân chủ hóa hay không.
Điểm tham chiếu
cho cuộc trao đổi qua email là một tiểu luận đăng trên Tạp chí Dân
chủ (Journal of Democracy) số tháng Tư 2012, của Tiến sĩ người Anh
Martin Gainsborough.
Đây là một trong
vài nghiên cứu hiếm hoi gần đây của người nước ngoài tìm cách giải thích vì sao
nền chính trị “không ưa các giá trị tự do” tồn tại ở cả ba nước Lào, Campuchia
và Việt Nam.
Ba quốc gia
này dù khác nhau nhưng cũng lại có nhiều điểm chung, theo ông
Gainsborough, người từng có thời gian dài làm nghiên cứu thực địa tại
Việt Nam.
Tác giả nhấn
mạnh yếu tố văn hóa chính trị - vị nể tầng lớp trên và quan hệ mang tính gia
trưởng – để giải thích trục liên hệ Nhà nước - Công dân ở ba nước. Nền văn hóa
chính trị mà giới cầm quyền ở cả ba nước chia sẻ khiến họ bác bỏ đa nguyên và
nghi ngờ mọi tổ chức độc lập và xã hội dân sự.
Dân chủ tự do
phương Tây cũng khó nảy mầm ở ba nước vì “sự trỗi dậy của ‘chính trị tiền
bạc" và "thương mại hóa nhà nước". Đây là hiện tượng có quyền
là có tiền, và Nhà nước cùng doanh nghiệp sống dựa vào nhau.
BBC đã mời bốn
tiến sĩ nghiên cứu Việt Nam bình luận về tiểu luận Bấm “Elites vs.
Reform in Laos, Cambodia, and Vietnam” và thử dự đoán diễn biến
chính trị sắp tới.
Theo tôi hiểu,
Martin biện luận rằng không thể xảy ra sụp đổ chính thể ở Việt Nam, và chính
phủ Việt Nam không gặp thách thức nghiêm trọng. Ông cũng đặt ra một số con
đường mà Việt Nam sẽ đi, nhưng nói “điều chắc chắn là sự thắng thế to lớn và
đột ngột của tư tưởng chính trị tự do là kết quả ít khả thi nhất”.
Nhìn chung,
không hẳn là tôi bất đồng với luận điểm chung của Martin. Điểm duy nhất tôi
muốn nói là dường như Martin đánh giá thấp những “sự đứt gãy cơ cấu” và “điểm
bước ngoặt” đang xuất hiện ở Việt Nam, mà sẽ quyết định con đường đi của chính
phủ.
Những “đứt gãy
cơ cấu” bao gồm thất bại trong kiểm soát tham nhũng, yếu kém căn bản trong hệ
thống kinh tế và tài chính (liên tục lạm phát cao, bất ổn giá, bộ máy hành
chính cồng kềnh…), sự kém hiệu năng của chính phủ (phụ thuộc các doanh nghiệp
nhà nước yếu kém, các vụ thu hồi đất gây tranh cãi…). Tuy vậy, tôi phải thừa
nhận rằng những “đứt gãy cơ cấu” thường được dự báo ít khi nào xảy ra.
Những “điểm bước
ngoặt” là hoạt động của các nhóm vì quyền lao động, đất đai, nhân quyền, dân
chủ, tôn giáo. Các hoạt động này trước đây tương đối tách biệt nhau, nhưng nay
bắt đầu tương tác bất chấp sự đàn áp của nhà nước. Theo một số tường thuật, sự
kết nối gia tăng giữa các nhóm xã hội dân sự này là do nhà nước một đảng không
thể đáp ứng đòi hỏi của dân chúng.
Như Carl Thayer
từng nhận xét, rủi ro bất ổn chính trị hay bất ổn xã hội xảy ra vì sự phê phán
chính sách ở một lĩnh vực này lại có thể lan qua các lĩnh vực khác. Tuy vậy, tôi
cũng thừa nhận những “điểm bước ngoặt” không thể xảy ra trừ phi có ủng hộ, ít
nhất ngấm ngầm, từ các nhóm khác hay một liên minh quan trọng bên trong Đảng.
Tuy vậy, tôi cho
rằng những “sự đứt gãy cơ cấu” và “điểm bước ngoặt” hiện đang khiến Đảng khó
duy trì hiện trạng như lâu nay. Các vụ như bauxite, Trường Sa và Hoàng Sa, và
thu hồi đất đã dẫn đến tranh luận về cải cách – làm thế nào xây dựng một chính
phủ có trách nhiệm và tuân thủ luật pháp.
Một khi công
chúng càng không xem Đảng Cộng sản là vĩ đại, thì càng có nhiều người kêu gọi
một hình thức chính trị đa nguyên nhất định.
Sụp đổ chính thể
rất khó xảy ra chủ yếu vì hệ thống Đảng ở Việt Nam rất giỏi thu nạp các vấn đề
nóng bỏng từ mọi phong trào “bước ngoặt”.
Về căn bản, cản
trở cho kêu gọi cải tổ hiện nay là thiếu đồng thuận và động lực. Hai điều này
thường xảy ra từ “sự đứt gãy cơ cấu” (như cải tổ kinh tế năm 1986) khi một liên
minh tìm được đồng thuận để thúc đẩy thay đổi lớn.
Cuối cùng, tôi
đồng ý với Martin rằng nếu những biến chuyển có xảy ra, thì tư tưởng chính trị tự do cũng sẽ không thắng thế. Tuy vậy, những thay đổi chuyển hóa sẽ có thể đánh dấu một cột mốc quan
trọng để đem lại “diễn biến hòa bình” mà từ lâu thiếu vắng trong lịch sử chính
trị Việt Nam.
Martin
Gainsborough rõ ràng đúng khi nói có những khía cạnh phi dân chủ trong văn hóa
chính trị của Việt Nam (cũng như Lào và Campuchia) mà đã tồn tại từ những chính
thể trước kéo dài cho đến ban lãnh đạo hiện nay. Nhưng tôi không nghĩ điều này
quyết định những thay đổi tương lai. Nhiều nước Đông Á và Đông Nam Á có những
khía cạnh tương tự, vậy mà một số (Indonesia, Nam Hàn, Đài Loan…) đã trở thành
các nền dân chủ hoạt động tương đối tốt, và cũng có những nước chưa thành công.
Một chi tiết rút
ra được từ phân tích của Tiến sĩ Gainsborough là dân chủ hóa phụ thuộc vào thay
đổi trong xã hội và văn hóa chính trị. Nó không chỉ là thay một nhóm cai trị
này bằng một nhóm khác. Một phần vì nhận thức này mà đa số các tác nhân của xã
hội dân sự hiện nay không xem đối lập chính trị là ưu tiên.
Bằng cách thực
hiện các dự án cộng đồng và làm gương trong hoạt động, xã hội dân sự có thể
đóng vai trò xây dựng để thúc đẩy một xã hội và nền văn hóa dân chủ hơn, ngay
cả bên trong hệ thống chính trị hiện hành. Người ta không thể dự đoán khi nào
hoặc liệu thay đổi chính trị có xảy ra hay không, nhưng sự tham gia về xã hội
và văn hóa có thể diễn ra bất kỳ lúc nào.
Trong bài, tác
giả cũng đặt câu hỏi làm thế nào ngăn chặn việc lợi dụng chức vụ để tư lợi. Tôi
muốn chỉ ra rằng việc này không nhất thiết đồng nghĩa với dân chủ hóa. Một số
nền dân chủ như Ấn Độ, Philippines cũng gặp vấn đề tham nhũng và lạm dụng quyền
lực, trong khi một số nước phi dân chủ (Singapore, hay có lẽ Cuba) lại có tiến
bộ giải quyết những vấn đề này.
Mọi hệ thống đều
phải đi tìm giải đáp cho câu hỏi có thể làm gì khi các lãnh đạo vượt quá lằn
ranh cho phép: hoặc bỏ phiếu loại bỏ họ, hoặc lật đổ qua các phong trào dân
chúng, hoặc kỷ luật nội bộ. Hiện nay Việt Nam chỉ có cơ chế thứ ba, và cách này
chỉ hiệu quả nhất định trong một thời gian.
Martin
Gainsborough có cái nhìn đáng chú ý về ba chính thể độc đoán ở Đông Nam Á và phân tích tác động của các lực lượng kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội giúp duy trì hiện trạng cũng như những lực lượng có thể dẫn đến thay đổi (hạn chế)
của ba chính thể.
Giả định đằng
sau phân tích của ông ấy là sự đối lập giữa văn hóa chính trị và quyền lợi của
“giới tinh hoa” và bên kia là cái ông gọi là sự tham gia xã hội dân sự của một
bộ phận giai cấp trung lưu. Sự đối lập này tạo thành trọng tâm cho khung lý thuyết mà tác giả dùng để phân tích các góc cạnh của nguyên trạng và thay đổi ở ba nước.
Và ưu điểm cũng
như nhược điểm trong phân tích của tác giả cũng nằm ở đây. Về căn bản, ông xem
văn hóa là một hiện tượng xã hội cụ thể đại diện cho tính cách cốt lõi của một
dân tộc, và ông cố gắng gắn hành vi của con người vào những cấu trúc hạn chế,
định sẵn. Gainsborough cho rằng ở cả ba nước, văn hóa chính trị mang tính gia
trưởng và độc đoán, và hiện trạng chính trị, kinh tế được các lợi ích kinh tế
giúp duy trì. Trái ngược với nó, xã hội dân sự được mô tả như lực đẩy thay đổi
từ từ.Bấm
Cách hiểu văn
hóa như thế có thể bị tranh cãi nhiều. Nó có vẻ tương tự cái nhìn về những nước
Ả Rập bị coi là thù nghịch với sự thay đổi – cho đến khi Mùa xuân Ả Rập hủy
diệt những gì còn sót lại từ giả định này. Điểm thứ hai, về vai trò của xã hội
dân sự như nguồn gốc của sự đổi thay từ từ, đáng tin hơn và có thể có nhiều
bằng chứng thực tiễn ít nhất trong trường hợp Việt Nam.
Ở phần cuối,
Gainsborough làm một điều khá hiếm là nhìn về tương lai của ba chính thể. Thật
không may, ông chỉ đưa ra các kịch bản theo những điểm tham chiếu quen thuộc
(dân chủ hóa ở Nam Hàn và Đài Loan; chia rẽ trong hàng ngũ của “giới tinh
hoa”….). Một lần nữa, ông cho rằng sức mạnh của một nền văn hóa chính trị độc
đoán sẽ hạn chế cố gắng thay đổi toàn diện chính thể (một kết luận mà theo tôi,
ông không chứng minh ít nhất về thực nghiệm).
Phần cuối bài và
đề cập liên tục của tác giả về sức mạnh khống chế của văn hóa chính trị khiến
độc giả ngạc nhiên. Làm sao Đông phương luận (Orientalism) có thể hồ hởi sống
lại ở Đông Nam Á, một năm sau khi Mùa xuân Ả Rập đã hủy diệt những gì còn lại của
tư duy ấy?
Vì sao
Gainsborough không giới hạn lập luận trong những gì có thể quan sát rõ ràng và
đã được ông phân tích kỹ ở những tác phẩm trước đó: sự đối lập quyền lợi giữa
các tầng lớp trong xã hội Việt Nam, và cố gắng của các giới nhằm khống chế nhà
nước và chính sách của nhà nước.
Nếu tác giả làm
thế, hẳn ông đã kết luận rằng hiện nay có một sự thống trị tạm thời và mong
manh của một lớp người có ảnh hưởng về kinh tế, chính trị, và nhà nước mà họ
khống chế có các chính sách nhằm xoa dịu giai cấp lao động và nông dân (hai cột
trụ của chế độ cộng sản) mà bỏ qua giai cấp trung lưu. Ví dụ là chính sách
chống lạm phát mà đã gây ra phá sản cho khoảng 100,000 đến 150,000 doanh nghiệp
tư nhân vừa và nhỏ.
Martin
Gainsborough đúng khi cho rằng văn hóa chính trị của giới tinh hoa và một xã
hội dân sự yếu ớt tạo thành những thách thức to lớn cho dân chủ tự do (liberal
democracy).
Nhưng dân chủ tự
do chỉ là một hình thức của dân chủ. Các nền dân chủ châu Á như Nhật Bản và Nam
Hàn, ở nhiều mặt, là phi tự do. Ví dụ, theo Luật An ninh Quốc gia từ năm 1948,
chính phủ Nam Hàn có thể truy tố và tống giam người dân chỉ vì họ ca ngợi Bắc
Hàn. Năm 2010, 151 người bị thẩm vấn vì nghi ngờ vi phạm Luật An ninh Quốc gia.
Số lượng người
bị truy tố vì có hoạt động 'thân Bắc Hàn' trên mạng là 82 người năm 2010.
Sang năm 2011,
có 178 trang web nội địa bị đóng cửa vì bị cho là có nội dung 'ủng hộ Bắc
Hàn'.
Để có dự đoán
chính xác hơn, có lẽ chúng ta cần giới hạn sự thảo luận về một hệ thống thực
tiễn hơn, ví dụ nền dân chủ có bầu cử đa đảng như Indonesia. Hệ thống này dĩ
nhiên không hoàn hảo, nhưng từ góc nhìn tự do, nó vẫn tốt hơn nhiều so với chế
độ độc tài toàn trị hiện nay ở Việt Nam.
Nếu ta nghĩ theo
hướng này, khả năng chuyển đổi cao hơn nhiều ngay cả khi không thể nói chính
xác khi nào nó xảy ra. Khó đoán là vì thông thường, chuyển đổi chỉ xảy ra khi
nhiều sự kiện cùng kết hợp.
Thử nghĩ về sự
sụp đổ của chính thể Suharto ở Indonesia năm 1998. Nó xảy ra vì khủng hoảng
kinh tế và chuyện kế vị. Trước đây khủng hoảng kinh tế đã từng có nhưng chỉ khi
kết hợp vấn đề kế vị, nó mới khiến chính thể Suharto sụp đổ. Năm 2011 ở Ai Cập,
cũng là vấn đề kế vị và sự xuất hiện đột ngột của một biểu tượng tử sĩ khiến sự
phẫn nộ dồn nén lâu nay bùng phát chống sự tàn bạo của cảnh sát.
Tôi thấy
Indonesia và Ai Cập là kịch bản khả dĩ hơn cho Việt Nam, chứ không phải Nam Hàn
và Đài Loan, do mâu thuẫn giữa các phe trong Đảng Cộng sản, quản lý kinh tế kém
và sự tụt giảm chất lượng cuộc sống mấy năm qua, cũng như sự gia tăng tham
nhũng và bạo lực của cảnh sát.
Dĩ nhiên, việc
chuyển giao quyền hành ở Việt Nam được thể chế hóa tốt hơn Indonesia và Ai Cập.
Nhưng kể từ 2006, ta chứng kiến việc tập trung quyền hành vào tay Thủ tướng và
phe của ông. Chưa rõ liệu phe này có khả năng thể chế hóa ưu thế của họ tại Đại
hội Đảng lần sau hay không.
Nói về nguồn gốc
thay đổi, những gì Đảng Nhân dân Hành động làm ở Singapore cũng không xảy ra
được ở Việt Nam, vì đảng cộng sản cầm quyền ở Việt Nam thậm chí chưa bao giờ
chấp nhận khái niệm đối lập. Đi từ “dân chủ tập trung” đến “đối lập trung
thành” là con đường quá xa cho họ. Ngược lại, các đảng đối lập ở Singapore, dù
yếu, vẫn luôn tồn tại. Do thiếu sự đối lập có tổ chức ở Việt Nam, một kịch bản
như ở Liên Xô (một phe hay cá nhân trong Đảng, Boris Yeltsin, dẫn dắt thay đổi
đột ngột) là khả dĩ hơn.
Liệu sẽ có
Yeltsin ở Việt Nam hay không, và người đó như thế nào, sẽ phụ thuộc sự kết hợp
các yếu tố kể trên. Nhưng ngày hôm nay, sự kết hợp đó có vẻ khả thi hơn so với
5 năm trước.
Quý vị có ý
kiến về các nhận định này xin Bấm chia sẻ với BBC Tiếng Việt.
No comments:
Post a Comment