Cuộc
gặp gỡ giữa Mỹ và Việt Nam (Phần 7)
Tác giả: Kenneth T. Young
Trúc Lam chuyển ngữ
25/09/2025
https://baotiengdan.com/2025/09/25/cuoc-gap-go-giua-my-va-viet-nam-phan-7/
Tiếp
theo phần 1 — phần 2 — phần 3 — phần 4 — phần 5 và phần 6
Trong
hai năm qua, chúng ta đã phải bắt đầu lại từ đầu ở Việt Nam để tránh thất bại
và thảm họa, đồng thời khôi phục lại cuộc cách mạng dân tộc. Cuộc cách mạng bằng
sát hại của Hà Nội gần như đã giết chết miền Nam Việt Nam. Công nghệ vượt trội
của Mỹ không tương xứng với tổ chức vượt trội của Hà Nội – và tình trạng vô
chính phủ của Sài Gòn. Tình hình ở châu Á và Việt Nam đã thay đổi so với những
năm 1954-1955. Tổng thống Johnson đã phải đối mặt với một tình huống gần như
hoàn toàn mới, nơi những thách thức mới đòi hỏi những giải pháp mới.
Chúng
ta có thể rút ra một số bài học từ cuộc gặp gỡ của Mỹ với Việt Nam. Mối quan hệ
đối tác không thể dễ dàng; thậm chí có thể không khả thi. Bối cảnh và quan điểm
của người Việt rất khác so với chúng ta, và những trải nghiệm của người Việt
Nam quá khắc nghiệt và bất hạnh, nên một mối quan hệ lành mạnh, khả thi với quốc
gia phương Tây mạnh mẽ nhất có thể là lỗi thời hoặc quá sớm. Người Việt Nam
không có lý do gì để chào đón người nước ngoài hoặc ảnh hưởng của người nước
ngoài khi xét đến những trải nghiệm của Việt Nam với người Trung Quốc, người
Pháp, người Nhật và ở một mức độ nào đó, là người Mỹ. Hoa Kỳ sẽ tiếp tục gặp
khó khăn trong việc ghép các ý tưởng và kỹ thuật của mình vào bản sắc cá nhân cứng
rắn của người Việt. Một thập kỷ tiếp xúc cho thấy, chúng ta sẽ làm tốt nhất khi
chúng ta bám vào khả năng của mình trong các mối quan hệ cá nhân và hỗ trợ quy
mô nhỏ trong lĩnh vực y tế, giáo dục và cải cách nông thôn.
Cuộc
gặp gỡ của chúng tôi cũng chứng minh rằng Việt Nam đã trở thành một trụ cột
quan trọng và thiết yếu hơn trong sự phụ thuộc lẫn nhau ở châu Á so với năm
1954. Những diễn biến đã khẳng định tính đúng đắn của khái niệm chiến lược của
chúng tôi đối với Việt Nam. Nó không thể tách rời khỏi việc bảo vệ khu vực Đông
Nam Á. Hầu hết người châu Á đều biết rằng phép thử ở đó sẽ quyết định, liệu một
cuộc chiến tranh nông thôn tương tự có xảy ra ở Thái Lan, Miến Điện, Nepal và Ấn
Độ hay không, bởi vì các cán bộ bí mật đang được tổ chức và huấn luyện để tiến
hành “chiến tranh nhân dân” ở từng quốc gia này dọc theo dãy núi Himalaya, thuộc
biên giới phía nam Trung Quốc.
Việc
Cộng sản lên nắm quyền ở Indonesia thất bại chỉ do một tính toán sai lầm nhỏ.
Thành công của Cộng sản ở Việt Nam chắc chắn dẫn đến sự xói mòn tâm lý và các
cuộc phiêu lưu quân sự ở các khu vực khác của châu Á. Hơn bao giờ hết, Việt Nam
là điểm tác động trong phép thử quyết định cho tương lai của châu Á. Câu hỏi đặt
ra cho chúng ta vào năm 1966 là, làm thế nào để đưa ra một phán quyết cho hòa
bình và ổn định lâu dài.
Thứ
nhất, cải cách chính trị nên được ưu tiên hơn việc tiếp tục chiến tranh, hoặc
ít nhất là ngang bằng với nó. Khi không có gì thay thế được chính trị, thì tiến
bộ đi kèm với bảo hộ là thước đo. Phải có lúa gạo, cải cách và súng ống. Thay
vì lo lắng về thành phần chính quyền ở Sài Gòn, chúng ta nên tập trung nhiều
hơn vào làng xã, như chính sách “nam châm” ban đầu về cải cách kèm an ninh đã từng
thử nghiệm. Việt Nam rất cần những nhà lãnh đạo chính trị năng động và cán bộ
xã hội chuyên nghiệp ở làng xã để thu hẹp “khoảng cách chính quyền” và khơi mào
một cuộc cách mạng làng xã.
Thứ
hai, lẽ ra chúng ta nên học được rằng, trong quá trình này, phát triển kinh tế
không phải là yếu tố chính hay công cụ tốt nhất trong những tình huống như Việt
Nam. Sự thiên vị của người Mỹ, sự mù quáng do tổ tiên để lại, đã nhấn mạnh quá
mức vào sự phát triển kinh tế và xem nhẹ các động lực phi vật chất, tinh thần
và lòng trung thành. Họ là những người lãnh đạo cách mạng, đoàn kết và thay đổi.
Tất cả những hạt giống lúa, phòng mạch, xây dựng trường học, những con đường
làng, chăn nuôi – và thêm tiền – sẽ không thể tự mình khôi phục lại được đất nước
Việt Nam.
Bài
học cho chúng ta là hãy bắt đầu thúc đẩy “những chính trị gia mới” bằng những
“động lực tự tôn” mới và một hành vi mới. Điểm khởi đầu là cuộc cách mạng đồng
bộ về “thái độ nhận diện” giữa dân làng và cán bộ đối với nhau để thu hẹp “khoảng
cách chính quyền”. Đó là điểm then chốt chiến lược để khơi dậy phong trào phục
hưng nông thôn ở Việt Nam và cả ở nông thôn châu Á. Khi đó, sự hài lòng về kinh
tế và những cải thiện xã hội sẽ tạo động lực cho sự phát triển vượt bậc của người
dân. Sự phục hưng của quần chúng có thể đảo ngược sự suy thoái ở Việt Nam – nơi
mà các hoạt động chống nổi dậy, hành động dân sự, ấp chiến lược, bình định và cải
cách đi đôi với an ninh có những nhu cầu và phản ứng không tương xứng. Bằng một
kế hoạch dài hạn và có hệ thống để định hình lại toàn bộ bối cảnh đấu tranh
chính trị, hai nước Việt Nam cuối cùng có thể đi đến thống nhất, đàm phán những
khác biệt của họ trong một giải pháp liên bang và cùng với các nước láng giềng
thống nhất Đông Nam Á.
Thứ
ba, chúng ta có thể và phải kiên quyết tuân theo các nguyên tắc và thủ tục thiết
yếu cần thiết để điều chỉnh viện trợ của Hoa Kỳ, đồng thời bảo đảm tính hiệu quả
và tính tương hỗ của viện trợ. Chúng ta nên kiên quyết đòi hỏi bầu cử làng xã
và thành lập các liên minh nông dân tự do vào năm 1956, cũng như dân chủ hóa và
phân cấp viện trợ ở các tỉnh vào năm 1961 thay vì nhượng bộ Diệm và Nhu. Giờ
đây, chúng ta nên tuân theo các nguyên tắc trong bức thư của Eisenhower năm
1954, nhấn mạnh đến khát vọng dân tộc chủ nghĩa và hiệu quả hoạt động của chính
quyền Sài Gòn trong việc khôi phục nông thôn. Nếu những cải cách chính trị thật
sự và hành động chính trị hiệu quả không được chấp nhận và thực hiện lần này,
chúng ta nên rút khỏi Việt Nam.
Thứ
tư, về phần mình, chúng ta nên thay đổi phong cách giao tiếp và hoạt động để
phù hợp với văn hóa Việt Nam và giảm bớt “sự mù quáng của tổ tiên”. Thay vì làm
việc trên quy mô lớn và nhanh chóng, chúng ta phải học cách xử lý những vấn đề
nhỏ hơn, với những phong cách khác nhau và nhịp độ thay đổi. Chúng ta nên tái cấu
trúc tất cả các hoạt động quân sự, kinh tế và chính trị thành những đơn vị nhỏ,
đơn giản, tập trung vào cải cách và an ninh làng xã theo cách của Việt Nam, chứ
không phải theo kiểu Mỹ. Chúng ta nên xem xét lại hệ thống tuyển chọn và phân
công nhân sự tới Việt Nam để thu hẹp khoảng cách văn hóa, và chúng ta nên sắp xếp
lại tổ chức ở Washington và Sài Gòn một cách triệt để, để giải quyết hiệu quả
chiến tranh cộng sản và thúc đẩy sự trỗi dậy ở nông thôn.
Thứ
năm, lẽ ra chúng ta nên học cách ngừng đếm ngược thời gian ở Đông Nam Á ngay từ
bây giờ. Còn nhiều năm nữa mới kết thúc cuộc chơi. Người Mỹ đương nhiên luôn tự
hỏi khi nào nó sẽ kết thúc. Cuối những năm 1950, Hoa Kỳ thậm chí còn đặt ra giới
hạn thời gian cho chương trình viện trợ của mình ở Việt Nam. Việc đạt được các
mục tiêu của chúng ta là một nhiệm vụ dài hạn và phức tạp, liên quan nhiều đến
những hỗn loạn và biến động của trật tự châu Á. Nếu người Mỹ chúng ta có thể học
cách coi vấn đề này là một vấn đề của 10 hoặc 20 năm nữa, chúng ta sẽ không rơi
vào tình thế tiến thoái lưỡng nan như ngày nay. Trên thực tế, chúng ta thậm chí
có thể đang trên đường thoát khỏi nó – một cách thành công.
Thứ
sáu, chúng ta còn nhiều điều phải học về cách những người Cộng sản châu Á đấu
tranh và đàm phán. Họ sử dụng mọi phương tiện sẵn có và không hề do dự trong những
chiêu trò lừa gạt hay trì hoãn thuần túy. Họ dựng lên những vấn đề giả tạo để
đòi hỏi những nhượng bộ thật sự, thậm chí còn cố gắng bắt đối phương phải trả
giá gấp đôi cho cùng một sự thỏa hiệp. Thực tế, đàm phán với họ cũng có nghĩa
ngược lại với chúng ta. Cộng sản đòi hỏi chứ không chịu thương lượng. Họ tìm
cách phá hủy, chứ không phải thỏa hiệp. Quyền lực là bài kiểm tra duy nhất mà họ
tôn trọng, và tuyên truyền là công cụ mà họ lợi dụng. Không có sự nhượng bộ,
không có giới hạn thời gian. Mong muốn đàm phán với họ hay ném bom họ, sẽ không
đưa họ đến bàn đàm phán.
Thứ
bảy, chúng ta chỉ có thể đi đến một phán quyết ở Việt Nam khi chúng ta thay đổi
bối cảnh chính trị trên toàn bộ đất nước Việt Nam và trong bối cảnh hướng tới
thống nhất Đông Nam Á. Các nhà lãnh đạo và người dân Việt Nam – cả miền Nam lẫn
miền Bắc – đều cần những lựa chọn mới mẻ và khác biệt hơn là việc lệ thuộc vào
Trung Quốc hay phụ thuộc vào Mỹ. Câu trả lời sẽ là một trật tự chính trị mới để
hội nhập và bảo đảm cho Đông Nam Á.
Cuối
cùng, chính sách ban đầu của chúng ta về cải cách dân tộc chủ nghĩa với an
ninh, ủng hộ một phong trào dân tộc chủ nghĩa “tự do và hiệu quả” vẫn có thể là
chiến lược tốt nhất để cuối cùng làm nản lòng Hà Nội và mang lại một thỏa thuận
hòa bình với công lý và an ninh cho những người Việt Nam đang đau khổ. Chúng ta
phải loại bỏ những bất cập về công nghệ và tiếp tục với sự trỗi dậy của thanh
niên Việt Nam và cuộc cách mạng đích thực của Việt Nam.
Châu
Á đang hỗn loạn, nhưng chủ nghĩa dân tộc châu Á vẫn muốn thắng thế. Nó sẽ sụp đổ
nếu chúng ta từ bỏ các khái niệm chiến lược và rút lại các cam kết chính trị.
Việc từ bỏ cách mạng dân tộc chủ nghĩa Việt Nam sẽ mở ra sự tan rã cho châu Á –
lục địa đông dân và biến động nhất thế giới. Nếu việc sử dụng vũ lực thiếu thận
trọng ngay bây giờ, sẽ không có chỗ cho ngoại giao hàn gắn sau này. Trong dòng
chảy lịch sử dài đằng đẵng, hành trình của chúng ta với Việt Nam chỉ mới bắt đầu.
Giờ đây, chúng ta là những người tham gia chứ không còn là những người cố vấn.
Cách chúng ta ứng xử ở Việt Nam là câu hỏi then chốt cho sự thành công của
chúng ta và là một quyết định có thể chấp nhận được.
(Còn
tiếp)
No comments:
Post a Comment