Nhạc
Việt miền Nam, di sản văn hóa bất diệt của chính thể Việt Nam Cộng Hòa
Lê Hữu - Diễn Đàn Thế Kỷ
https://diendantheky.net/le-huu-nhac-viet-mien-nam-di-san-van-hoa-bat-diet-cua-chinh-the-viet-nam-cong-hoa/
HÌNH : https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2025/04/unnamed-30-1.jpg
50 năm sau biến cố tháng Tư năm 1975, di sản
văn hóa nào của chính thể Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) được xem là bền vững nhất để
lại cho các thế hệ sau? Đến nay, nhiều người có chung câu trả lời: kho tàng âm
nhạc miền Nam.
Di sản ấy, kho tàng âm nhạc đồ sộ ấy, không
chỉ được trân quý, bảo tồn mà còn được thế hệ tiếp nối kế thừa, tận dụng và
phát huy hết mức trong mọi sinh hoạt văn hóa ở cả hai miền Nam Bắc.
Nhạc vàng miền Nam, “tràn ngập lãnh thổ”
“Nhạc vàng”, trong bài này, là cách gọi của
người miền Bắc, đúng hơn là của nhà cầm quyền miền Bắc thời kỳ trong và sau chiến
tranh. Cái “từ” này ở đâu ra và có nghĩa gì?
Trước năm 1975, nhạc Việt ở miền Nam không có
màu mè xanh, đỏ, tím, vàng chi cả. Tên gọi “nhạc vàng” cũng ít phổ biến. Nhiều
lắm chỉ có ban nhạc của Đài truyền hình Sài Gòn mang tên Nhạc Vàng (do
nhạc sĩ Phó Quốc Lân phụ trách) hoặc ít băng, dĩa nhạc ghi “Băng vàng”, “Nhạc
vàng” chỉ với cái nghĩa là những bài nhạc chọn lọc được người yêu nhạc ưa chuộng
về tình yêu quê hương, lứa đôi và thường là nhạc êm dịu. Trong khi đó, miền Bắc
gọi chung những bài nhạc trữ tình thuở trước và nhạc miền Nam thời đất nước
chia đôi là “nhạc vàng” với nghĩa “tiêu cực” (chữ dùng trong nước). Chữ “vàng”
ngụ ý vàng vọt, vàng võ, héo hon, được/bị “nhà nước” xem là sản phẩm của “văn
hóa đồi trụy của ngụy quyền miền Nam”, đồng thời cảnh báo người dân chớ có nghe
hay hát hỏng loại nhạc ủy mị, ru ngủ và bệnh hoạn này mà rước vạ vào thân. Nhạc
vàng, như thế chỉ là cách gọi chung chung, đặc biệt nhắm vào những bài nhạc phổ
biến và được yêu chuộng ở miền Nam.
Tuy thế, vẫn có những người yêu nhạc vàng đến
độ phớt lờ lời cảnh báo nghiêm khắc ấy để rồi mang họa thật. Bản án nặng nề hơn
10 năm tù tội dành cho Lộc “Vàng”, Toán “Xồm” và “đồng bọn” ở Hà Nội năm 1968 với
tội danh “tuyên truyền văn hóa đồi trụy” qua việc tụ tập, đàn đúm hát nhạc vàng
là câu chuyện xót xa đến nay nhiều người vẫn chưa quên. Biệt danh “Lộc Vàng”, với
chữ “Vàng” gắn liền với tên chàng trai 23 tuổi, như trái tim chàng luôn gắn bó,
thủy chung với tình yêu nhạc vàng.
Theo lời Lộc Vàng, “Những bài nhạc trữ tình
trước năm 1954 được gọi là nhạc vàng. Tôi hay hát nhạc vàng nên bạn bè gọi tôi
là ‘Lộc Vàng’. Chúng tôi chỉ thấy dòng nhạc này thật hay, thật trữ tình và đầy
tình người nên muốn lưu giữ lại và đóng cửa hát cho nhau nghe.”
“Hát cho nhau nghe”, hóa ra “cụm từ” này đã
được nhóm Lộc Vàng sử dụng ở miền Bắc từ dạo ấy. Chỉ có khác là chương trình
hát chui này không kéo dài được lâu, dẫn cả nhóm vào vòng lao lý, chôn vùi cả một
thời tuổi trẻ.
Trong số những bài nhạc mà nhóm Lộc Vàng tụ tập
đàn hát với nhau có thể kể tên ít bài như “Chuyển bến”, “Thu quyến rũ” của Đoàn
Chuẩn-Từ Linh, “Suối mơ” của Văn Cao, “Con thuyền không bến” của Đặng Thế
Phong, “Nỗi lòng” của Nguyễn Văn Khánh, “Đêm đông” của Nguyễn Văn Thương… và một
số bài của các nhạc sĩ miền Nam như “Tiếng đàn tôi” của Phạm Duy, “Hoài cảm” của
Cung Tiến, “Ai về sông Tương” của Thông Đạt, “Hình ảnh một buổi chiều” của Lâm
Tuyền, “Cô nữ sinh Đồng Khánh” của Thu Hồ, “Niệm khúc cuối” của Ngô Thụy Miên,
“Nỗi lòng người đi” của Anh Bằng…. Những bài kể trên cũng cho thấy nhạc vàng miền
Nam bằng con đường nào đó đã “xâm nhập” được vào miền Bắc. Nhạc sĩ Tô Hải, tác
giả “Nụ cười sơn cước”, cũng cho biết, “Chưa giải phóng miền Nam mà tại miền Bắc
đã vang lên, từ các gia đình cán bộ đến quán trà đầu phố, những tiếng hát Thái
Thanh, Lệ Thu, Hà Thanh, Elvis Phương và nhất là Khánh Ly, cái giọng ma quái đã
hút hồn cả những nhà lãnh đạo ‘có cỡ’ bằng những ca khúc của Trịnh Công Sơn.”(1)
HÌNH : https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2025/04/unnamed-31-1.jpg
Nhạc vàng, như thế gồm cả những ca khúc thời
tiền chiến (cách gọi tương đối). Tác giả những ca khúc này, một số ở lại miền Bắc
sau ngày đất nước chia đôi, đã buộc phải gạt nước mắt chia tay những đứa con
tinh thần mang số phận hẩm hiu của mình. Mãi đến sau năm 1975 những ca khúc
“lãng mạn tiểu tư sản” này mới được “giải phóng” và các nhạc sĩ này mới có cơ hội
được nghe ca sĩ… miền Nam hát nhạc của mình.
Nhạc đỏ miền Bắc, trong khi đó, chỉ nhằm phục
vụ cho cuộc chiến tranh “giải phóng miền Nam” với quyết tâm “Xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước”, với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho toàn thắng”. Âm
nhạc, tất nhiên cũng phải theo hướng “Nhắm thẳng quân thù mà bắn”. Không có chỗ
nào cho những câu hát viển vông, mơ mộng như…
Anh mong chờ mùa thu
Tà áo xanh nào về với giấc mơ
Màu áo xanh là màu anh trót yêu
(“Thu quyến rũ”, Đoàn Chuẩn-Từ Linh). Hoặc,
Anh muốn thành mây nương nhờ làn gió
đưa anh tới cõi mơ hồ nào đây
muôn kiếp bên nàng
(“Dư âm”, Nguyễn Văn Tý)
Những câu hát thật lạc lõng giữa một rừng “tiến
quân ca” hừng hực khí thế, rõ ràng là “phản động”, là đi ngược lại đường lối,
chính sách của “Đảng và nhà nước ta” và làm suy giảm tinh thần chiến đấu của
“toàn quân, toàn dân ta”. Việc đàn đúm hát hỏng, phổ biến những bài nhạc này rõ
ràng là cần phải lên án và trừng trị thật đích đáng để răn đe những kẻ còn tiếc
nuối, tơ tưởng đến dòng nhạc vàng đồi trụy này.
Sau tháng Tư năm 1975, cùng với chiến dịch
bài trừ, tiêu hủy văn hóa phẩm độc hại, nhạc vàng miền Nam là một trong những
món hàng quốc cấm, thậm chí bị chụp mũ, bị dán nhãn chính trị là “nhạc phản động”.
Lớp trẻ ở thành phố bị xách động, lùa xuống đường phố hô khẩu hiệu, giăng biểu
ngữ “Thanh niên, học sinh, sinh viên không nghe, không hát, không cất giữ loại
nhạc nhảm nhí, ủy mị, phản động”.
Người dân miền Nam, một phần không muốn bị chụp
cho cái mũ “phổ biến nhạc phản động”, một phần sau cuộc đổi đời tối tăm mặt mũi
chẳng ai còn hứng thú chuyện đàn địch hát xướng. Nhạc vàng thời kỳ này bị săn
đuổi, truy lùng ráo riết phải tạm thời “di tản chiến thuật”, im hơi lặng tiếng,
nhường chỗ cho “nhạc đỏ” hay “nhạc cách mạng” một mình một chợ, tha hồ múa gậy
vườn hoang từ các sân khấu trình diễn đến những chiếc loa phường treo máng trên
những cột điện dây nhợ chằng chịt.
Nhạc đỏ, nếu không là những “Bài ca Trường
Sơn” (Trần Chung (& Gia Dũng), “Chiếc gậy Trường Sơn” (Phạm Tuyên), “Hát
mãi với Trường Sơn” (Phạm Hồng Sơn), “Gặp nhau trên đỉnh Trường Sơn” (Hoàng
Hà), “Bước chân trên dải Trường Sơn” (Vũ Trọng Hối), “Trên đỉnh Trường Sơn ta
hát” (Huy Du), “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” (Hoàng Hiệp & Phạm Tiến Duật)
thì cũng là những “Cô gái vót chông” (Hoàng Hiệp & Mô Lô Y Choi), “Cô gái mở
đường” (Xuân Giao), hay “Cô gái Sài Gòn đi tải đạn” (Lư Nhất Vũ)…, những bài ca
“năm tấn, mười tấn” cứ véo von, rầm rập đập vào tai người dân tội tình ngày này
sang ngày khác.
Lịch sử đã sang trang, chiến tranh đã đi qua,
giang sơn đã thu về một mối, những bài nhạc đỏ gọi là “đi cùng năm tháng” ấy
xem như đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ lịch sử và người trong nước cũng chẳng
còn hứng thú gì để nghe đi nghe lại mãi, cho dù có là “nhạc đỏ trữ tình” mà cần
thay đổi những “món ăn” khác cho dễ tiêu hóa hơn.
Sớm nhận ra điều này, những tay nhạc sĩ của
“phong trào nhạc trẻ” ở miền Nam ngày trước như Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang,
Quốc Dũng… cùng với các nhạc sĩ trong nước như Từ Huy, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn
Văn Hiên, Vy Nhật Tảo, Vũ Hoàng, Nguyễn Đức Trung… bèn ngồi lại bàn bạc, loay
hoay tìm một con đường thoát, một lối ra. Từ đó, khơi dậy phong trào gọi là “Ca
khúc chính trị”, khởi đầu chơi nhạc Liên Xô, Tiệp Khắc, Cuba… dần dà tiến đến
nhạc pop rock của Tây phương, mô phỏng “nhạc trẻ” miền Nam với phong cách trẻ
trung, sôi động và nhất là dễ nghe, dễ thở, dễ chịu hơn.
Những nhóm “Ca khúc chính trị” này về sau gỡ
bỏ hẳn cái đuôi “chính trị” khô cứng, nặng nề, đổi tên thành “Nhạc nhẹ” cho… nhẹ
nhàng hơn, dễ nghe hơn, đi với những bài bản tự sáng tác, tự trình diễn, gọi là
“tự biên, tự diễn” để lấp vào khoảng trống của nhạc Việt.
Tên gì thì tên, những tên gọi đó cũng chỉ như
những vỏ bọc che chắn và có tính cách giai đoạn như là những bước chuyển tiếp để
dần dà trở thành dòng nhạc mới mẻ rất gần với “nhạc vàng” miền Nam, từ giai điệu,
tiết điệu, thể điệu đến ca từ, đến cả cách đặt tựa, như “Con đường có lá me
bay” (Hoàng Hiệp & Diệp Minh Tuyền), “Một thời áo trắng” (Nguyễn Văn Hiên),
“Phượng hồng” (Vũ Hoàng & Đỗ Trung Quân), “Mong đợi ngậm ngùi” (Từ Huy),
“Điệp khúc tình yêu” (Trần Tiến), “Gõ cửa tình yêu” (Nguyễn Đức Trung), “Chia tay
tình đầu” (Nguyễn Ngọc Thiện), “Bên em là biển rộng” (Bảo Chấn), “Nỗi nhớ mùa
đông” (Phú Quang & Thảo Phương), “Thơ tình cuối mùa thu” (Phan Huỳnh Điểu
& Xuân Quỳnh), “Lời tỏ tình của mùa xuân”, “Giọt nắng bên thềm” (Thanh
Tùng)… Cũng lá me xanh, cánh phượng hồng, cũng giọt nắng, giọt buồn, cũng sợi
nhớ, sợi thương.
Nhiều nhạc sĩ của dòng “nhạc cách mạng” cũng
chuyển hướng sáng tác để dọn ra những món ăn tinh thần thích hợp với khẩu vị
người yêu nhạc trong thời kỳ “đổi mới” này. Một dòng nhạc mới, nếu không hẳn là
nhạc vàng thì cũng… vàng vàng, róc rách chảy vào sinh hoạt ca nhạc ở trong nước
tự lúc nào.(2)
Cứ thế, cùng với những lần xét duyệt nhỏ giọt
cho phép phổ biến những bài nhạc của miền Nam trước năm 1975, nhạc vàng lần lần
đi vào sinh hoạt ca nhạc trong cả nước, lần lần đẩy lùi nhạc đỏ ra khỏi các sân
khấu trình diễn. Nhạc đỏ, nếu không biến mất thì cũng mờ nhạt, họa hoằn lắm được
các “nghệ sĩ nhân dân, ưu tú” biểu diễn, hâm nóng lại để chào mừng các ngày lễ
lớn và sự kiện lịch sử trọng đại của “nhà nước ta” như lễ kỷ niệm “50 năm ngày
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” sắp tới đây.
Nhạc vàng, đến một lúc nào đó, không đợi nhà
nước cho phép, trình diễn “vô tư” khắp hai miền Nam Bắc, từ những sân khấu, những
phòng trà ca nhạc đến những quán karaoké với danh sách thật là dài những bài bản
nhạc vàng, cho đến những quán xá lớn nhỏ ngoài đường trên phố và cả những người
hát rong, những giọng ca đường phố kéo theo những thùng “loa kẹo kéo” nỉ non những
bài nhạc vàng quen thuộc cho bà con thưởng thức miễn phí. Đến đây thì dòng nhạc
này đã tuôn chảy tràn lan, từ thành phố đến thôn quê, từ trong nhà ra ngoài phố,
nô nức xuống đường để “Hát cho dân tôi nghe”, như tên bài hát quen thuộc của
Tôn Thất Lập thuở nào.
Quả đúng như nhận định của Hoàng Hưng, nhà
thơ, nhà báo miền Bắc quen tên, từng sinh sống ở miền Nam nhiều năm sau 1975:
“Nhu cầu ca hát, một trong những nhu cầu tự nhiên nhất của con người, sau nhiều
năm bị ‘nhạc đỏ’ độc quyền thống trị, đã bùng lên với ‘nhạc vàng’ khắp phố phường
ngõ xóm (…) Đến mức bây giờ, nhạc ‘boléro’ một thời vốn không được đánh giá cao
lắm bởi giới có học ở Sài Gòn, nay đang ‘tràn ngập lãnh thổ’, chiếm lĩnh không
gian âm nhạc cả chính thống lẫn tự phát.”(3)
Từ “nhạc đỏ”, “nhạc cách mạng” cho đến “nhạc
vàng” trong cả nước hiện nay là một quá trình chuyển đổi theo “quy luật tất yếu
của lịch sử xã hội loài người” (nói theo lối nói quen thuộc của “Đảng và nhà nước
ta”).
Nhạc vàng của một thời vàng son đã được vực dậy,
đã hồi sinh với sức sống mạnh mẽ. Nhà cầm quyền miền Bắc, sau những cố gắng bằng
đủ mọi cách, nay hiểu ra rằng, không tài nào hủy hoại được kho tàng văn hóa ấy
của người miền Nam, không tài nào chận đứng được mọi nẻo đường quay về của nền
âm nhạc miền Nam.
Nói như cách nói của nhà báo Huy Đức, tác giả Bên
thắng cuộc (vẫn đang thụ án 30 tháng tù về tội danh “lợi dụng quyền tự
do dân chủ”) thì trong cuộc đọ sức với nhạc đỏ miền Bắc, rõ ràng là nhạc vàng
miền Nam đã toàn thắng, đã “tràn ngập lãnh thổ” để trở thành di sản văn hóa bất
diệt của chính thể VNCH để lại cho các thế hệ sau.
Nhạc vàng miền Nam, “trẻ mãi không già”
Với người miền Nam từng nhiều năm gắn bó với
đất nước quê hương mình, âm nhạc không đơn thuần là giải trí mà luôn gần gũi,
thân thiết trong mọi sinh hoạt hàng ngày và làm giàu thêm đời sống tinh thần của
con người. Hơn thế nữa, lịch sử, vận mệnh nổi trôi của dân tộc cũng được tìm thấy
qua dòng nhạc Việt.
Âm nhạc tạo niềm hứng khởi, tin yêu vào cuộc
sống hay mang đến nguồn thư thái, bình an trong tâm hồn như người bạn đồng
hành. Mỗi bài nhạc yêu thích thường được gửi gấm những tâm sự, nỗi niềm hay gợi
lại những kỷ niệm buồn vui đời người. Nghe một bài nhạc cũ, có được những phút
thư giãn nhẹ nhàng như được sống lại những tháng năm tươi đẹp nhất của đời người.
Sau biến cố tháng Tư năm 1975, nhạc Việt miền
Nam, tân nhạc, cổ nhạc đều bị nhà cầm quyền miền Bắc cấm đoán, lên án và tìm đủ
mọi cách để “xóa sổ” nhưng người miền Nam vẫn nuôi giữ mãi trong tim, vẫn gìn
giữ tài sản văn hóa quý giá ấy bằng mọi hình thức và bằng tình yêu âm nhạc
không hề nhạt phai. Cho đến một ngày “nhạc vàng” được chào đón trở lại, thênh
thang “lối cũ ta về”, người yêu nhạc mừng vui như gặp lại người thân yêu sau những
năm dài biền biệt xa quê.
Hát nhạc vàng miền Nam là hát về một quê
hương yêu dấu, một miền Nam thân yêu còn sống mãi trong tâm tưởng người Việt
yêu tự do, dân chủ, nhân quyền và đất nước quê hương mình.
Với người miền Bắc–đối tượng chịu tác động lớn
nhất của sự chuyển đổi từ nhạc đỏ sang nhạc vàng–sau nhiều năm chỉ quen nghe
quen hát một “dòng nhạc” vì không có sự chọn lựa nào khác, đã sớm bị nhạc vàng
miền Nam chinh phục khi biết được rằng còn có một nền âm nhạc khác ở trong Nam
không giống những bài nhạc đỏ khô khốc như những khẩu hiệu tuyên truyền. Nhạc
vàng được ví như một trong những “món ngon vật lạ” ở trong Nam, là món “đặc sản”
chỉ có ở trong Nam hay nói theo “từ” miền Bắc, là “đặc trưng” của nền âm nhạc
miền Nam.
Điều lý thú và hấp dẫn với người miền Bắc khi
đặt chân lên miền Nam là sinh hoạt âm nhạc phong phú, nhiều màu sắc trên phần đất
này. Từ những giàn máy cassette, những băng nhạc, dĩa nhạc, những giàn loa công
suất lớn đến những sách nhạc, tờ nhạc, đến những bài hát và cả những giọng hát
ngọt ngào miền Nam được nghe qua lần đầu, tất cả đều là những thứ lạ lẫm khiến
họ phải sửng sốt, ngỡ ngàng.
Người miền Bắc càng thêm sửng sốt và “tỉnh” hẳn
người sau khi được làm quen với lời ca tiếng nhạc, giọng hát câu hò miền Nam để
nhận ra rằng, không giống như những gì họ được/bị nhồi nhét vào trong đầu và đã
tin theo như vậy, “miền Nam ruột thịt” mà họ từng hy sinh biết bao gian khổ, biết
bao xương máu để “giải phóng” lại là một xứ sở tươi đẹp đến như thế, một đời sống
văn minh văn hóa đến như thế và con người sống chan hòa với nhau đến như thế.
Nhạc vàng miền Nam, những bài hát, câu hát rộn
ràng, tiết tấu nhộn nhịp vẽ lên khung cảnh của một đất nước yên vui, từ Sài
Gòn, “hòn ngọc Viễn Đông”, đến những thành phố rộng lớn, những đường phố thênh
thang. Những “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”, những con người năng động, hiền
hòa và cuộc sống muôn màu muôn vẻ là những gì mà người miền Bắc có nằm mơ cũng
không tưởng tượng ra được. Cũng nhà báo, nhà thơ Hoàng Hưng, ngày đầu đặt chân
lên Sài Gòn, đi giữa lòng thủ đô miền Nam mà ngỡ như lạc giữa kinh thành ánh
sáng Paris: “Chỉ cần nhớ lại cảm giác đầu tiên khi đặt chân xuống đường Đinh
Tiên Hoàng từ chuyến xe đò đường dài, tôi tưởng mình đang từ Việt Nam sang đến
Paris.”(3)
Cùng nhau đi tới Sài Gòn
là nơi du khách dập dồn
Từ năm châu tới viếng thăm Thủ Đô
Dòng sông chen chúc tàu đò
ngược xuôi buôn bán hẹn hò
Người dân no ấm sống đời tự do
(“Ghé bến Sài Gòn”, Văn Phụng & Huyền
Linh)
HÌNH : https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2025/04/unnamed-32-1.jpg
Làm sao không khỏi hụt hẫng, ngỡ ngàng khi nhạc
vàng miền Nam làm tái hiện những mùa xuân thanh bình một thuở, là cái thuở mà bộ
đội miền Bắc chưa “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, chưa khăng khăng đòi “giải
phóng miền Nam ruột thịt” cho bằng được dẫu có phải “đốt cháy cả dãy Trường
Sơn”.
Anh cho em mùa xuân
Trẻ nô đùa khắp trời
Niềm yêu đời phơi phới
Bàn tay thơm sữa ngọt
Giải đất hiền chim hót
Mái nhà xinh kề nhau…
(“Anh cho em mùa xuân”, Nguyễn Hiền & Kim
Tuấn)
Những gì mà người miền Bắc hằng mơ ước khi
chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại thì người miền Nam, khi chưa phải đương
đầu với cuộc chiến tranh từ miền Bắc, đã có những năm sống yên vui thanh bình với
đời sống “ấm no, hạnh phúc” thực sự, chứ không chỉ là khẩu hiệu suông như chiếc
bánh vẽ mà người dân miền Bắc chưa một lần được cầm trên tay.
Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
Người thương gia lợi tức / người công nhân ấm no…
Nước non thanh bình / muôn người hạnh phúc chan hòa
(“Ly rượu mừng”, Phạm Đình Chương)
HÌNH : https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2025/04/unnamed-33-1.jpg
Cũng là từ những bài nhạc vàng ấy, người miền
Bắc mới biết mới hay rằng miền Nam Việt Nam từng có một thời như thế, một thời
con người được sống cho ra con người, một thời được hít thở không khí tự do
phơi phới trong một đất nước tự do, dân chủ. Mọi người dân lương thiện đều được
quyền sống một cuộc sống yên bình, sung túc và nhân phẩm, nhân quyền đều được
tôn trọng. Miền Nam, đấy là miền “đất lành”, là nơi chốn mà người Việt nào cũng
muốn được sống, được gọi là quê hương. Tất cả, là những gì mà người dân miền Bắc
hằng mơ ước từ bao năm và không ngờ được rằng thiên đường mơ ước ấy không xa,
chính là đời sống miền Nam ở bên kia bờ Bến Hải.
Với thế hệ trưởng thành sau năm 1975, qua những
phương tiện thông tin liên lạc hiện đại và qua dòng nhạc Việt miền Nam, lớp người
trẻ lớn lên sau chiến tranh phần nào hình dung được bối cảnh chính trị và đời sống
người dân Việt ở cả hai miền Nam-Bắc. Từ đó, mặc nhiên có sự so sánh, đối chiếu
và nhận thức được rằng VNCH là một quốc gia độc lập có chủ quyền, một đất nước
văn minh văn hóa hơn hẳn miền Bắc, một đất nước tươi đẹp, người người sống chan
hòa tình nghĩa đùm bọc yêu thương.
Nhạc vàng miền Nam, với đối tượng trẻ trung,
còn là dòng nhạc trữ tình qua những câu hát ngọt ngào về tình yêu lứa đôi và
quê hương tươi đẹp.
Trả lại em yêu con đường học trò
Những ngày thủ đô tưng bừng phố xá
Chủ nhật uyên ương hẹn hò đây đó
Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt
(“Trả lại em yêu”, Phạm Duy)
Miền Nam, những năm chưa được “giải phóng”,
những năm chưa có tiếng đại bác đêm đêm dội về thành phố (“Đại
bác ru đêm”, Trịnh Công Sơn) là những làng quê thôn xóm thanh bình, là những
con đường kinh kỳ vui muôn ánh đèn đêm (“Tìm về”, Y Vân), là nếp
sống tươi vui, là hạnh phúc nơi nơi, hương thanh bình lên phơi phới (“Ly
rượu mừng”, Phạm Đình Chương).
Nếp sống vui tươi nối chân nhau đến nơi đây
Sài Gòn đẹp lắm, Sài Gòn ơi, Sài Gòn ơi!…
Tiếng cười cùng gió / chan hòa niềm vui say sưa
La là là la là / la là là la là
Ôi, đời đẹp quá, đẹp quá, tràn bao ý thơ!
(Sài Gòn”, Y Vân)
Những trai thanh gái lịch dập dìu ngoài đường
trên phố. Những nụ cười rạng rỡ luôn gắn trên môi.
Tình yêu đón chờ, đêm tối về rủ nhau trên đường
phố
Dịu hương tóc thề, vai sát kề, đời như giấc mơ
(“Đêm đô thị”, Y Vân)
Giới trẻ trong, ngoài nước gần đây nói rằng,
họ tìm đến những ca khúc của miền Nam ngày trước để qua đó phần nào tìm hiểu về
lịch sử, về cuộc chiến giữa hai miền Nam-Bắc và để có được nhận thức đúng đắn về
mọi biến cố, sự kiện qua dòng lịch sử của dân tộc. Được hỏi, “Em nhận thức được
những gì, kể ra xem?” một bạn trẻ trong nước trả lời rằng, “Một trong những điều
khiến em ngưỡng mộ là chính quyền miền Nam vừa xây dựng, vừa phát triển đất nước
trong lúc vừa phải chống trả với cuộc chiến tranh đến từ miền Bắc, vậy mà vẫn
cho người dân được hưởng mọi quyền tự do và vẫn đưa đất nước từ một chính thể
dân chủ còn trẻ trung lên trình độ văn minh văn hóa và sung túc ngang tầm với
các quốc gia phát triển ở vùng Đông Nam Á.”
Một bạn trẻ khác, cũng ở trong nước, khi được
hỏi chỉ cười cười, nói rằng em thích nghe, thích hát nhạc vàng miền Nam, và nhạc
vàng ấy qua bao tháng năm vẫn tràn đầy sức sống, vẫn trẻ mãi không già.
Nhạc lính, một nhánh riêng của nhạc vàng
Đặc biệt, trong số nhạc vàng miền Nam phổ biến
và được yêu chuộng trong nước, có một nhánh riêng, không thể không nhắc đến, gọi
là “Nhạc lính”.
Nhạc lính là nhạc vàng? Thật vậy, chỉ có điều,
Thứ nhất, nhạc lính ở đây không phải là nhạc
lính miền Bắc, lính bộ đội, mà là nhạc lính miền Nam, lính VNCH. Thứ hai, những
bài nhạc lính VNCH đi bên cạnh dòng nhạc vàng không phải là nhạc hùng, chiến đấu
ca với nhịp bước quân hành. Ở đây là nhạc trữ tình êm dịu, là “đặc trưng” của
nhạc vàng, thường là các thể điệu boléro, rumba, ballad, habanera, slow, slow
rock. “Nhạc trữ tình”, cũng là cách gọi chung chung, thường là tình yêu lứa
đôi, xen vào ít bài dân ca, tình tự quê hương.
Gọi nhạc lính miền Nam là nhạc vàng vì cũng
là nhạc trữ tình, cũng dạt dào yêu thương. Nhiều nhất vẫn là tình yêu đôi lứa,
là chuyện đôi mình, chỉ có khác là giữa em gái hậu phương và những anh trai tiền
tuyến.
Nếu em không là người yêu của lính
ai đem cánh hoa rừng về tặng em
Ai băng gió sương cho em đợi chờ
và những lúc anh về
ai kể chuyện đời lính em nghe
(“Người yêu của lính”, Anh Chương). Hoặc,
Xin anh che chở / tấm đời nhỏ bé hậu phương
như câu chuyện tình “Người hùng và giai nhân”
Những cánh hoa hồng / bên hàng rào kẽm, hầm chông
vẫn mong bàn tay người đem tưới vun trong vườn
(“Cánh hoa thời loạn”, Y Vân)
Nhạc lính miền Bắc, không giống như nhạc lính
miền Nam, không được kể là nhạc vàng vì là… nhạc đỏ. Nhạc lính miền Nam, thường
gọi là “nhạc mùa chinh chiến”, hát về tình yêu của những lứa đôi thời chiến, những
em gái hậu phương có người yêu là lính chiến, những người vợ trẻ là chinh phụ
thời nay, những bà mẹ già mòn mỏi ngóng tin con là lính trận miền xa và cả những
tâm tình của người lính chiến gửi về người mình thương yêu.
Mẹ ơi, thôi đừng khóc nữa
cho lòng già nặng sầu thương
Con đi say tình viễn xứ
đâu có quên niềm cố hương
(“Lá thư gửi mẹ”, Nguyễn Hiền & Thái Thủy).
Hoặc,
Đây những chiều hành quân / xóm nghèo dừng
chân
nhớ thương mẹ già nơi quê nhà xa xôi lắm
(“Chiều biên khu”, Tuấn Khanh & Châu
Ngân)
Chiến tranh là cách ngăn, chia lìa khi quê
hương còn mịt mù khói súng, còn tơi bời lửa đạn. Những nỗi niềm riêng đành gác
lại vì tình nước sâu hơn tình lứa đôi.
Nếu biết người đi vì sông núi
cách chia này cho hạnh phúc mai sau
chắc em không buồn vì người đi cho lý tưởng
(“Kể chuyện trong đêm”, Hoàng Trang)
Nhạc lính đi vào đời sống trong một đất nước
chiến tranh triền miên, trong đó người lính chiến nắm chắc tay súng giữ yên bờ
cõi trở thành hình ảnh thân quen, gần gũi trong mắt và trong lòng người dân, từ
thành thị đến thôn quê, từ những mẹ già đến những em thơ.
Lạ một điều, không chỉ người trong nước,
không chỉ người lính cũ VNCH mà đến cả người lính miền Bắc, những cựu chiến
binh cũng thích nghe thích hát, thích nghêu ngao những bài nhạc lính miền Nam,
như cũng muốn chia sẻ những tâm tình, những “buồn vui đời lính” qua lời ca, tiếng
hát ấy.
Tôi là lính, âm thầm tôi nghĩ thế thôi
Trăm lần không bao giờ tôi giận cuộc đời
(“Lính nghĩ gì”, Hoài Linh”). Hoặc,
Con biết không về mẹ chờ em trông
nhưng nếu con về bạn bè thương mong
Bao lứa trai cùng chào xuân chiến trường
không lẽ riêng mình êm ấm
Mẹ thương con xin đợi ngày mai
(“Xuân này con không về”, Trịnh Lâm Ngân)
Những lời lẽ thiết tha đến chạnh lòng. Người
lính ở cả hai miền, nghe những câu hát ấy cất lên đều không khỏi nghe lòng
chùng xuống, nghe tim thắt lại.
Người lính miền Bắc hát nhạc lính miền Nam là
tìm thấy mình trong bài hát ấy. Khi cùng yêu thích một bài hát, cùng hát chung
một câu hát; hơn thế nữa, cùng chia sẻ những cảm xúc về bài hát là chia sẻ sự đồng
cảm, đồng tình.
Những bài nhạc lính, nhạc vàng ấy cũng khiến
những ai chưa hiểu nhiều về cuộc chiến tranh hai miền Nam-Bắc đến lúc cần phải
“xem lại” những lời lẽ tuyên truyền thời chiến thời bình, bôi xấu bôi đen hình ảnh
người lính miền Nam. Những “lính ngụy ác ôn” (cách gọi kích động lòng căm thù)
chỉ là những người trai lên đường theo tiếng gọi của non sông trong một đất nước
chiến tranh để giữ cho làng xóm ruộng vườn yên vui, cho nhà nhà đêm đêm tròn giấc
ngủ trong lúc vẫn khát khao một ngày hòa bình về trên quê hương.
Nếu một mai khi hòa bình
anh sẽ trở về như giấc mơ
cho từng ngón tay đan lại ái ân ngọt mềm
Từng đêm không còn tiếng súng
Ngủ đi em / ngủ cho yên…
(“Lời cho người yêu nhỏ”, Trần Thiện Thanh)
Đêm không còn tiếng súng… Anh sẽ trở về như
giấc mơ, những câu hát thật là đẹp! Giấc mơ ấy cũng
thật là đẹp. Đấy hẳn là giấc mơ của người lính chiến ở cả hai miền và của một
dân tộc khao khát tự do, mơ ước thanh bình sau bao năm dài quê hương chìm ngập
trong khói lửa chiến tranh.
HÌNH : https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2025/04/unnamed-34-1-1024x429.jpg
Hơn thế nữa, khi tìm đến những bài nhạc lính ấy,
hẳn người lính miền Bắc cũng nhận thêm ra một điều, không giống như những bài
“nhạc đỏ”, người lính miền Nam không hề nuôi giữ “lòng hận thù ngút trời” hay
“lửa căm thù sục sôi” với người lính bên kia chiến tuyến, mà chỉ có những lời
giải bày thiết tha, chân tình.
Đã mười năm qua / tôi vẫn nặng tình nhớ anh
Đôi mình không thể tranh giành
Đôi mình không thể căm hờn
Cùng chung dòng máu / bao tình nghĩa cũ ân xưa
Xin đừng gây oán gây thù / ngàn đời sau sẽ cười chê
(“Người bạn mười năm qua”, Y Vân). Hoặc,
Xin yêu thương đến cho vơi hận thù / để tiếng
hát hôm nay
Người chiến sĩ mơ say / bên đàn trẻ thơ ngây…
(“Mùa xuân đầu tiên”, Tuấn Khanh)
Làm gì có chuyện Xin yêu thương đến
cho vơi hận thù, cũng làm gì có chuyện Tình yêu đây là khí giới /
Tình thương đem về muôn nơi… (“Việt Nam, Việt Nam”, Phạm Duy) trong
“nhạc đỏ” miền Bắc, cho thấy chỗ khác nhau giữa hai nền âm nhạc hai miền và
cũng hiểu được vì sao người yêu nhạc trong nước lại quay lưng với “nhạc đỏ” để
tìm đến “nhạc vàng”.
Không khó để kể ra, những bài nhạc lính quen
thuộc vẫn được người trong nước yêu chuộng, như những bài nói về nỗi ước mơ một
ngày hòa bình, người lính trở về sau chiến tranh trong vòng tay chờ đợi của người
mình thương yêu.
Rồi có một ngày / một ngày chinh chiến tàn
Anh trở về quê / vui cùng ruộng nương cùng đàn trâu
Với cây đa khóm trúc hàng cau
Với con đê có chiếc cầu tre / đã bao năm vắng
chân anh…
Rồi anh sẽ sang thăm nhà em
Với miếng cau với miếng trầu / ta làm lại từ đầu…
(“Một mai giã từ vũ khí”, Ngân Khánh)
“Ta làm lại từ đầu” trên quê hương mới, quê
hương thanh bình. Cuộc sống mới bắt đầu từ đây. Người người sống chan hòa yêu
thương, cùng chung sức chung tay đi xây lại những giấc mơ chưa tròn. Những tâm
tình ấy của người Việt yêu đồng loại, yêu đất nước quê hương được gọi là tình tự
dân tộc. Nhạc lính miền Nam mang đến tình tự dân tộc.
Nhạc lính được người yêu nhạc vàng yêu thích
có thể xem như một nhánh riêng của nhạc vàng miền Nam, và cũng gọi được là những
“bài ca đi cùng năm tháng”, những “bài ca không bao giờ quên” như những cách gọi
phổ biến ở trong nước.
Nhạc vàng miền Nam, ngày về trong vinh
quang
Nhạc vàng, cái “từ” này được người trong nước
dành cho nhiều thiện cảm, không còn mang nghĩa xấu xí của những kẻ đặt tên cho
nó, gán cho nó, và làm mọi cách để cho nó biến đi.
Nhạc vàng bây giờ mang nghĩa “tích cực”,
nghĩa ấy tóm gọn trong mấy chữ “nhạc quý như vàng” và thường đi với những mỹ từ
như “siêu phẩm nhạc vàng”, “tuyệt phẩm nhạc vàng”, “tuyệt đỉnh nhạc vàng”, “nhạc
vàng muôn thuở”, “nhạc vàng bất hủ”, “nhạc vàng để đời”, “nhạc vàng vượt thời
gian”, “nhạc vàng đi cùng năm tháng”…, kể ra không hết.
Nhac vàng bây giờ như đã lột xác, thay da đổi
thịt, không còn “đồi trụy”, cũng hết “phản động”, cũng chẳng còn “ru ngủ” được
ai, mà ngược lại, người nghe còn tỉnh táo hơn bao giờ để chủ động chọn riêng
cho mình dòng nhạc nào mình yêu thích, dòng nhạc nào thực sự là của mình.
Mọi thủ đoạn cấm đoán, bôi xấu, miệt thị, lên
án và cả xách động, “đấu tố” nhạc vàng của nhà cầm quyền miền Bắc chỉ nhằm phủ
nhận và hạ thấp những giá trị văn hóa của miền Nam; hơn thế nữa, tận diệt bản sắc
văn hóa của người miền Nam, trong đó có nền âm nhạc phong phú, khởi sắc.
Từ cấm đoán triệt để, từ “xử lý” đích đáng những
gì dính dấp tới nhạc vàng, đến phải cấp phép từng đợt những bài nhạc vàng được
phổ biến, cho đến khi không còn cấm cản gì được nữa, vì người cấm vẫn cấm, người
hát vẫn hát, người nghe vẫn nghe. Sau cùng, “nhà nước ta” cũng đành phải ra văn
thư chính thức (tháng 1/2019) bãi bỏ việc xét duyệt, cấp phép những ca khúc của
miền Nam trước năm 1975, có nghĩa là từ nay ai muốn hát gì thì hát, muốn nghe
gì thì nghe. Tất cả, cho thấy “Không ai ngăn nổi lời ca’, như tên một ca khúc
quen thuộc của La Hữu Vang trong các phong trào “sinh viên tranh đấu” lên đường
xuống đường ở miền Nam một thời nào.
Người yêu nhạc vàng trước đó cũng đã dập tắt
mọi ổ kháng cự lẻ tẻ, yếu ớt của ít ca, nhạc sĩ, “nghệ sĩ nhân dân, ưu tú” tên
tuổi gắn liền với dòng nhạc “truyền thống cách mạng”. Mọi cố gắng chận đứng nẻo
đường quay về của nền âm nhạc miền Nam hay hủy hoại kho tàng âm nhạc của người
miền Nam sau cùng chỉ là những cố gắng vô ích và vô vọng.
HÌNH : https://diendantheky.net/wp-content/uploads/2025/04/unnamed-35-1.jpg
Cho đến một lúc, nhà cầm quyền Hà Nội cũng phải
thừa nhận giá trị nền âm nhạc này như bài nhận định trong nước trên tờ báo
chính thống của “nhà nước ta” về một nhạc phẩm quen thuộc của miền Nam:
Người ta yêu thích “Ly rượu mừng” của Phạm
Đình Chương bởi những giai điệu rộn ràng, tươi vui mang nhiều thông điệp ý
nghĩa và tính nhân văn trong đó. Rõ nhất là trong phần ca từ với nội dung là những
lời chúc Tết tốt đẹp nhất theo truyền thống dân tộc Việt tới mọi thành phần, lứa
tuổi trong xã hội nhân ngày năm mới.(…)
Bởi vậy cho nên dù gần 70 năm đã trôi qua kể
từ ngày được ra mắt, sức sống bền bỉ trường tồn của nhạc phẩm “Ly rượu mừng” vẫn
còn mãi ghi dấu trong lòng bao thế hệ yêu nhạc và vẫn được cất lên đầy hào sảng
mỗi dịp xuân về.(4)
“Sức sống bền bỉ trường tồn” của nhạc phẩm
này, như bài báo thừa nhận, cũng là sức sống bền bỉ trường tồn của di sản âm nhạc
miền Nam với vô số nhạc phẩm giá trị từng được các thế hệ gìn giữ, bảo tồn cho
đến ngày hôm nay.
Nhiều bài nhạc, đủ mọi thể loại, thể điệu,
sau biến cố tháng Tư ấy tưởng đã xếp vào dòng nhạc hoài niệm, bỗng được vực dậy,
hồi sinh mạnh mẽ, tái hiện ở mọi nơi mọi lúc. Nhạc vàng, như thế xem như có đến
hai đời sống, cách nhau đến gần nửa thế kỷ. Đời sống sau, tuy là tái sinh nhưng
lại sống hùng sống mạnh hơn vì được phổ biến tràn lan trong cả nước chứ không
chỉ giới hạn trong phạm vi miền Nam như thời kỳ trước năm 1975.(2)
Dòng nhạc mà Lộc Vàng, người dám sống và chết
cho tình yêu nhạc vàng, cho là “đã ngấm vào máu” của ông và bằng hữu ông thì
bây giờ cũng đã ngấm vào máu vào tim của biết bao người, kể cả những người mới
làm quen với dòng nhạc này. Âm nhạc miền Nam đã đi sâu vào lòng người, ở lại
trong lòng người.
Lạ một điều, đối tượng yêu và phổ biến nhạc
vàng trong nước phần lớn là giới trẻ, thế hệ lớn lên sau chiến tranh. Chính đối
tượng trẻ trung, đông đảo này đã thừa kế và tạo sức sống mới cho di sản âm nhạc
miền Nam. Trong nước, người ta chơi lại các bài bản nhạc Việt miền Nam hoặc làm
mới lại, hoặc nếu là sáng tác mới thì có khuynh hướng theo chân, tiếp nối dòng
nhạc cũ mang sắc thái của nhạc vàng miền Nam. Qua đó, cho thấy di sản âm nhạc
này không những được gìn giữ, bảo tồn mà còn được kế thừa, phát huy từ thế hệ
nhạc sĩ, ca sĩ hiện nay như là dòng “nhạc vàng miền Nam nối dài”.
Jason Gibbs, tiến sĩ âm nhạc, nhà soạn nhạc
người Mỹ, từng có nhiều chuyến thăm Việt Nam và nhiều công trình khảo cứu về âm
nhạc của đất nước này, cũng tỏ sự đồng tình, “Có lẽ di sản về Việt Nam Cộng Hòa
có sức sống nhất ở Việt Nam ngày nay là âm nhạc.”(5)
Thế hệ hôm nay và tiếp nối ở trong nước được
thừa hưởng một di sản đồ sộ, quý giá và tận tình khai thác như một nhu cầu tự
phát. Với người miền Nam, đấy còn là khối di sản đáng tự hào, được nuôi giữ mãi
trong tâm tưởng người Việt về một nền văn hóa tri thức, nếp sống văn minh, lành
mạnh của một đất nước, một lãnh thổ, một chính quyền hợp hiến hợp pháp. Chính
điều này mới thực sự có ý nghĩa.
Đến đây không thể không nhắc tới sự lên ngôi
của “dòng nhạc trữ tình boléro” nổi lên như một hiện tượng lạ, tạo cơn lốc cuồng
nhiệt, thống lĩnh mọi sinh hoạt văn hóa văn nghệ trong nước. Nhạc điệu boléro vốn
là “đặc sản” âm nhạc của miền Nam, nay trở thành món ăn ngon, hấp dẫn và hợp khẩu
vị người yêu nhạc miền Bắc sau bao nhiêu năm phải nhai đi nhai lại mãi những
món khó tiêu và ngán đến tận cổ. Sau nhiều năm ngủ kỹ tưởng đã tắt lịm, “dòng
nhạc boléro” một ngày kia được người yêu nhạc trong Nam ngoài Bắc lay gọi, vực
dậy, nâng niu đắm đuối, “phấn khởi hồ hởi” công kênh, đội vương miện lấp lánh.
Nhạc vàng được yêu thích qua những giọng ca
vàng, nhờ vậy những ca sĩ tên tuổi của miền Nam còn ở lại trong nước, tuy giọng
hát không còn được như xưa, vẫn được ngưỡng mộ, tôn vinh, ngồi chễm chệ trên
hàng ghế giám khảo các cuộc thi hát nhạc vàng, tuyển lựa ca sĩ boléro. Nhạc
vàng hôm nay lại tiếp tục sản sinh “những thần tượng mới”, tươi mới, trẻ trung
và tràn đầy sức sống.
50 năm sau ngày kết thúc chiến tranh hai miền,
ít ai ngờ được rằng dấu ấn đậm nét nhất, di sản văn hóa bền vững nhất của chính
thể VNCH chính là kho tàng âm nhạc đồ sộ của miền Nam, từng có một thời bị rêu
rao là “nhạc đồi trụy”, một thời bị chụp cho cái mũ “nhạc phản động”.
Nền âm nhạc miền Nam nói chung, gồm mọi hình
thái, thể điệu tân, cổ nhạc, là di sản văn hóa quý giá của chính thể VNCH, vẫn
trường tồn, vẫn không mất đi bao giờ. Nền âm nhạc này đã được trả về vị trí xứng
đáng, là “gia tài của mẹ” để lại cho người thừa kế là các thế hệ sau chiến
tranh.
Nhạc vàng miền Nam, nay “làm chủ tình hình”
sinh hoạt ca nhạc trong làng nhạc Việt; nói cách khác, nhạc vàng đã “nhuộm
vàng” mọi hình thức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ trong cả nước.
Nhạc Việt miền Nam, một thời phải mai danh ẩn
tích, một thời phải lặng tiếng im hơi, nay được cả nước đón chào nồng nhiệt, đã
có một ngày về trong vinh quang.
Lê Hữu
(1) Tô Hải, Hồi
ký của một thằng hèn (Tập 1), Tuyển tập Blog Tô Hải, Sài Gòn, Việt
Nam, 2014
(2) Lê Hữu,
“Nhạc vàng: Bên Thắng Cuộc”, Tạp chí Diễn Đàn Thế Kỷ, 30/4/2019
(3) Hoàng
Hưng, “Về ảnh hưởng của văn hoá VNCH sau 1975”, Tạp chí Diễn Đàn Thế Kỷ,
26/3/2025
(4) Đình
Phùng, “Ly Rượu Mừng, xuân khúc kinh điển nhất của nền tân nhạc Việt
Nam”,
Báo Pháp Luật Việt
Nam online, 27/02/2021
(5) Ngọc
Lễ, “Hội thảo: ‘Nhạc Vàng’, di sản trường tồn của VNCH”, VOA Tiếng Việt,
31/10/2019
No comments:
Post a Comment