TIN QUỐC TẾ NGÀY 23/05/2025
The Economist
Đỗ
Đặng Nhật Huy, biên
dịch
23/05/2025
https://nghiencuuquocte.org/2025/05/23/the-gioi-hom-nay-23-05-2025/
Chính
quyền Trump đã rút quyền tuyển sinh viên nước ngoài của Đại học Harvard theo
một số loại thị thực nhất định. Bộ trưởng an ninh nội địa Kristi Noem cho biết
động thái này nhằm phản ứng việc Harvard không cung cấp thông tin về các cáo buộc
hành vi sai trái của sinh viên quốc tế, và gọi đây là “một lời cảnh báo” gửi tới
các cơ sở giáo dục khác. Harvard tuyên bố hành động này là “trái pháp luật.”
Hạ
viện Mỹ đã
thông qua dự luật ngân sách của đảng Cộng hòa với chỉ một phiếu chênh lệch,
mang lại chiến thắng chính trị lớn cho Donald Trump. Dự luật kéo dài thời hạn cắt
giảm thuế và giảm chi tiêu cho mạng lưới an sinh xã hội. Ước tính cho thấy nó sẽ
làm tăng khoảng 3 nghìn tỷ USD vào nợ công liên bang trong vòng một thập niên tới.
Dự luật hiện được chuyển lên Thượng viện, nơi vài thượng nghị sĩ Cộng hòa đã
lên tiếng phản đối một số phần trong luật.
Một
phán quyết với tỉ số 4-4 của Tòa án Tối cao Mỹ đã chặn kế hoạch
mở trường công tôn giáo đầu tiên tại Oklahoma. Thẩm phán Amy Coney Barrett từ
chối tham gia bỏ phiếu, khiến hội đồng rơi vào thế hòa. Kết quả này giữ nguyên
phán quyết của tòa cấp dưới, vốn bác bỏ mô hình trường công nhưng do Giáo hội
Công giáo điều hành. Dù không tạo ra tiền lệ toàn quốc, phán quyết cho thấy sự
bất định pháp lý liên quan đến tài trợ công cho các trường tôn giáo.
Một
thẩm phán đã dỡ bỏ lệnh cấm phút chót, mở đường cho thỏa thuận chủ quyền giữa
Anh và Mauritius. Thỏa thuận cho phép Anh chuyển quyền sở hữu Quần đảo Chagos
nhưng vẫn giữ quyền kiểm soát căn cứ quân sự Diego Garcia, hòn đảo lớn nhất
trong quần đảo Ấn Độ Dương này. Có tiếng nói cho rằng cộng đồng người Chagos đã
bị loại khỏi quá trình đàm phán.
Các
tổ chức từ thiện đã có thể phân phát một số hàng viện trợ tại Gaza vào
thứ Năm. Song Liên Hợp Quốc cảnh báo khối lượng hàng vẫn thấp hơn nhiều so với
nhu cầu sau 11 tuần phong tỏa của Israel — chỉ 90 xe tải vào được Gaza, so với
trung bình 600 xe mỗi ngày trong thời gian ngừng bắn từ tháng 1 đến tháng 3.
Trong khi đó, không kích của Israel tiếp tục khiến ít nhất 50 người thiệt mạng.
Di
cư ròng vào Anh đã giảm gần một nửa trong năm 2024, xuống còn
431.000 người, khi các quy định visa nghiêm ngặt hơn của chính phủ Bảo thủ trước
đây bắt đầu phát huy hiệu quả. Số người đến theo visa lao động và du học giảm mạnh;
trong khi số đơn xin tị nạn tăng lên 109.000 trong vòng 12 tháng đến tháng 3
năm 2025. Diễn biến này giúp giảm áp lực cho chính phủ Lao động, vốn cam kết sẽ
tiếp tục thắt chặt chính sách nhập cư.
Cơ
quan Hàng không Liên bang Mỹ (FAA) đã cho phép Starship — tên
lửa khổng lồ do công ty SpaceX của Elon Musk phát triển — tiếp tục bay thử sau
vụ phóng thất bại hồi tháng 3. FAA cho biết chuyến bay thử tiếp theo có thể diễn
ra sớm nhất vào tuần tới. Cơ quan này đang phối hợp với các quốc gia dọc theo
quỹ đạo bay của tên lửa — bao gồm Anh, Mexico và Bahamas — vì mảnh vỡ có thể
rơi vào lãnh thổ của họ nếu vụ thử thất bại.
Con
số trong ngày:
năm qua Việt Nam xuất khẩu 385 tỉ đô, tăng tám lần so với năm 2007.
TIÊU
ĐIỂM
Mỹ
chủ trì họp Hội đồng Nghị viện NATO
Hội
đồng Nghị viện NATO sẽ nhóm họp vào thứ Sáu tại Dayton, Ohio, Mỹ. Đây là lần đầu
tiên các nhà lập pháp từ các nước thành viên họp tại Mỹ kể từ năm 2003. Một
tháng trước hội nghị thượng đỉnh NATO tại Hà Lan, các thành viên châu Âu sẽ tìm
kiếm sự đảm bảo rằng Donald Trump không có ý định chấm dứt cam kết 76 năm của Mỹ
đối với NATO.
Một
trong các diễn giả sẽ là đại sứ Mỹ tại NATO, Matt Whitaker, cựu quyền bộ trưởng
tư pháp và được cho là có ảnh hưởng với ông Trump. Gần đây ông cho biết Mỹ chưa
quyết định liệu quân đội nước này có rút khỏi châu Âu hay không, nhưng khẳng định
sẽ “không có khoảng trống an ninh.” Ông nói thêm rằng sẽ có những “cuộc đối thoại”
với các đồng minh.
Hội
đồng cũng sẽ thảo luận về yêu cầu của ông Trump đối với việc tăng chi tiêu quốc
phòng châu Âu. Tổng thư ký NATO, Mark Rutte, được cho là đã kêu gọi các thành
viên đạt mức 3,5% GDP cho chi tiêu quân sự “cứng” và 1,5% cho các khoản liên
quan như hạ tầng và an ninh mạng trong bảy năm tới.
Cuộc
chiến giành bầu trời Sudan
Theo
tuyên bố của quân đội quốc gia Sudan, Khartoum đã hoàn toàn được giải phóng khỏi
Lực lượng Hỗ trợ Nhanh (RSF). Phần lớn thủ đô Sudan đã rơi vào tay lực lượng
bán quân sự nổi loạn này, vốn bị cáo buộc diệt chủng và tội ác chiến tranh, từ
ngay sau khi nội chiến bùng nổ đầu năm 2023. Nhưng sự trở lại của Lực lượng Vũ
trang Sudan (SAF) vào tháng 3 đã mở ra giai đoạn mới cho cuộc xung đột. Từ đó đến
nay, họ đã dọn sạch các ổ kháng cự còn lại tại quận Omdurman, phía tây thủ đô.
Giờ
đây, SAF quyết tâm chứng minh rằng bằng việc tái chiếm thủ đô, họ đã hoàn toàn
kiểm soát đất nước. Hôm 19 tháng 5, giới lãnh đạo quân đội đã bổ nhiệm một thủ
tướng dân sự. Nhưng chỉ mới đầu tháng này, RSF đã tiến hành tấn công bằng drone
vào Port Sudan, một căn cứ ở phía đông của SAF, lần đầu tiên kể từ đầu chiến sự.
Thông điệp rất rõ ràng: cuộc nội chiến vẫn chưa chấm dứt, và thậm chí còn đang
mở rộng lên bầu trời.
Chuyện
gì tiếp theo với dự luật ngân sách của Mỹ?
Phe
Cộng hòa tại Hạ viện Mỹ bắt đầu kỳ nghỉ Memorial Day với một chiến thắng lớn.
Sau phiên họp suốt đêm, vào thứ Năm họ đã thông qua “Một Dự luật To và Đẹp” nhằm
tài trợ cho các ưu tiên của Donald Trump. Để xoa dịu các phe phái trong đảng, dự
luật cần nhiều điều chỉnh phút chót, thỏa hiệp sâu rộng, và cả vài lời đe dọa từ
ông Trump. Kết quả cuối cùng: dự luật được thông qua với tỷ lệ 215–214, không
có phiếu ủng hộ nào từ đảng Dân chủ, hai nghị sĩ Cộng hòa bỏ phiếu chống và một
người bỏ phiếu trắng.
Giờ
đây dự luật sẽ được chuyển lên Thượng viện, nơi các nghị sĩ có thể sẽ chỉnh sửa
mạnh tay. Các khoản cắt giảm đối với mạng lưới an sinh xã hội đang gây tranh
cãi lớn. Phiên bản được Thượng viện thông qua sẽ quay lại Hạ viện để bỏ phiếu lần
nữa — có thể rất khó khăn. Mike Johnson, chủ tịch Hạ viện từ đảng Cộng hòa, muốn
toàn bộ quá trình hoàn tất trước ngày 4 tháng 7. Để thông qua “Một Dự luật To
và Đẹp” đúng hạn, ông sẽ phải trải qua một cuộc chiến không mấy đẹp đẽ.
Thuế
quan đè nặng lên thị trường nhà ở Mỹ
Dữ
liệu doanh số bán nhà mới trong tháng 4, công bố vào thứ Sáu, sẽ cho thấy liệu
chương trình kinh tế của Donald Trump đang định hình lại thị trường nhà ở Mỹ
như thế nào. Doanh số trong tháng 3 tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước, nhưng
các nhà kinh tế kỳ vọng đà tăng sẽ chậm lại. Mùa xuân là mùa cao điểm mua nhà,
song năm nay người mua phải đối mặt với nhiều khó khăn. Thuế quan mà ông Trump
áp lên hàng hóa Trung Quốc đã đẩy chi phí xây dựng tăng cao. Hiệp hội Các nhà
xây dựng quốc gia Mỹ (NAHB) ước tính mỗi ngôi nhà mới phải gánh thêm hơn 10.000
USD vì thuế. Thuế áp lên đồ nội thất và trang trí cũng khiến chi phí nội thất
tăng.
Người
mua phải cân nhắc giữa những chi phí này cùng với lãi suất thế chấp — đang tăng
trở lại kể từ đầu tháng 4. Nhiều người chọn hoãn mua: số đơn xin vay thế chấp
giảm, và doanh số nhà hiện hữu trong tháng 3 giảm gần 6% so với cùng kỳ — mức
giảm mạnh nhất kể từ năm 2022. Số liệu tháng 4 sẽ cho thấy liệu thị trường nhà
mới có bắt đầu chững lại hay không.
---------------------------------------------------
---------------------
THÔNG QUA NGÂN SÁCH: TỔNG THỐNG
HÀI LÒNG NHƯNG QUỐC GIA MẮC NỢ | CHÀO BÌNH MINH (05/23/2025)
https://www.youtube.com/live/TNY_ypREDhs
------------------------------
Khoảng cách từ miệng
Trump đến ‘sự thật’ là 3,000 dặm
Mai Phi Long
| Người Việt Daily News
May
23, 2025
https://www.youtube.com/live/daOBZSInbL0
3,273
views Premiered 3 hours ago #NgườiViệtOnline #tintứcthờisự
Khoảng
cách từ miệng Trump đến ‘sự thật’ là 3,000 dặm
Harvard khởi
kiện lệnh cấm nhận sinh viên ngoại quốc của Trump
Bắc Kinh
lên tiếng: "Lệnh cấm Harvard của Trump làm hoen ố hình ảnh Mỹ!"
Bị lật tẩy
đánh lận Congo phục kích Nam Phi, Trump tung hoả mù đòi áp thuế Apple và Liên
Âu
-------------------------------------
Seoul
bác bỏ thông tin Mỹ rút một phần binh sĩ ra khỏi Hàn Quốc
------------------------------------
Chính
quyền Trump cấm Đại Học Harvard tuyển sinh viên nước ngoài
Phan Minh - RFI
Đăng
ngày: 23/05/2025 - 11:30 - Sửa đổi ngày: 23/05/2025 - 12:16
Chính
quyền Hoa Kỳ, hôm qua 22/05/2025, đã tước quyền của đại học Harvard tuyển sinh
viên ngoại quốc. Trường đại học danh tiếng này có nguy cơ bị tổn thất lớn về
tài chính và tương lai của trường bị đe dọa. Đại học Harvard đã lên tiếng phản
đối quyết định mà họ cho rằng là “bất hợp pháp”, sẽ gây tổn hại
không chỉ cho trường mà còn cho cả đất nước.
HÌNH
:
Đại
học Harvard, Cambridge, bang Massachusetts, Hoa Kỳ, ngày 16/04/2011. © RFI/Duc
Tam
Quyết
định của chính quyền được đưa ra trong bối cảnh tổng thống Donald Trump phẫn nộ
với Harvard sau khi trường này từ chối tuân thủ yêu cầu giám sát việc tuyển
sinh, đồng thời chủ nhân Nhà Trắng cũng cáo buộc Harvard thúc đẩy chủ nghĩa bài
Do Thái và theo tư tưởng “woke”.
Từ
Washington, thông tín viên Guillaume Naudin cho biết thêm chi tiết :
Bộ
trưởng An Ninh Nội Địa Kristi Noem cáo buộc Harvard cho phép sinh viên nước
ngoài “chống Mỹ và ủng hộ khủng bố” “quấy rối và hành hung người khác, gây ảnh
hưởng xấu đến môi trường học tập từng được đánh giá rất cao của nhà trường”. Bà
cũng cáo buộc Harvard hợp tác với đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Trong
nhiều tuần qua, chính quyền đã tiến hành một cuộc chiến thực sự về tài chính và
quy chế với đại học này, cáo buộc Harvard để chủ nghĩa bài Do Thái phát triển
trong khuôn viên trường và tạo thuận lợi cho các chương trình đa dạng, công bằng
và hòa nhập trong khâu tuyển sinh.
Để
trừng phạt trường vì không tuân thủ các yêu cầu, chính quyền đã cắt gần 3 tỷ đô
la tài trợ liên bang. Phát ngôn viên của Harvard gọi đây là một quyết định bất
hợp pháp. Mỗi năm có hơn 7.000 sinh viên nước ngoài tại Harvard, chiếm hơn một
phần tư tổng số sinh viên. Họ phải trả học phí rất cao, thường là mức phí toàn
phần, lên đến gần 60.000 đô la mỗi năm. Điều này đồng nghĩa với việc Harvard sẽ
ngay lập tức mất đi một nguồn tài chính quan trọng khác.
Những
sinh viên đã được tuyển từ 140 quốc gia hiện không còn lựa chọn nào khác ngoài
việc xin chuyển trường hoặc mất quy chế hợp pháp và visa du học tại Mỹ.
Do
có nhiều sinh viên du học tại Harvard nói riêng và Hoa Kỳ nói chung, Trung Quốc,
hôm nay 23/05, đã chỉ trích Washington “chính trị hóa” ngành giáo dục sau khi
sinh viên quốc tế mất quyền theo học tại Harvard. Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao
Trung Quốc Mao Ninh cho rằng quyết định này sẽ làm tổn hại đến hình ảnh của nước
Mỹ.
----------------------------------------
Biden chỉ là vật tế
thần. Đảng Dân Chủ mới là vấn đề
Carlos Lozada
- New York Times
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2025/05/22/biden-chi-la-vat-te-than-dang-dan-chu-moi-la-van-de/
Mùa
hè năm 1973, giữa lúc vụ bê bối Watergate đang diễn ra, Thượng nghị sĩ Howard
Baker của Tennessee đã đặt ra một câu hỏi đáng nhớ về Richard Nixon: “Tổng thống
đã biết những gì, và biết khi nào?” Câu trả lời, nói một cách nhẹ nhàng, hóa ra
là ông biết khá nhiều, và từ rất sớm.
Sau
mỗi cuộc bầu cử tổng thống, cánh nhà báo lại vội vã viết sách về chiến dịch
tranh cử – về các cuộc bầu cử sơ bộ và đại hội, cử tri và thăm dò ý kiến, đến
các chiến lược và trò đấu đá nội bộ. Tuy nhiên, những cuốn sách về cuộc đua năm
2024 cũng gợi ra một biến thể mới cho câu hỏi của Baker: Đảng Dân chủ biết gì về
sự suy giảm về thể chất và tinh thần của Joe Biden, và họ biết điều đó khi nào?
Và, nếu lịch sử là một chỉ dẫn, vậy thì tại sao khi biết điều đó, nhiều người
trong số họ lại chọn không lên tiếng?
Câu
trả lời cho câu hỏi đầu tiên, một lần nữa, có lẽ là khá nhiều và khá sớm. Câu
trả lời cho câu hỏi thứ hai phức tạp hơn, liên quan đến sự kết hợp sự phủ nhận,
chia rẽ đảng phái, toan tính chính trị, và sự mù quáng kỳ lạ nảy sinh từ các
truyền thuyết gia đình và thần thoại chính trị. Kết quả là một cuốn sách vận động
tranh cử độc đáo, kể về một cuộc đua đã diễn ra cho đến khi nó đột ngột dừng lại
– và về một đảng chính trị háo hức tìm kiếm vật tế thần cho những rắc rối trong
bầu cử của mình, mà người đó không ai khác chính là Joseph Robinette Biden Jr.
Cuốn
“Original Sin” của Jake Tapper và Alex Thompson đã trở thành tâm điểm chính trị
của thời điểm này, thậm chí từ trước khi chính thức xuất bản vào ngày 20/05.
(Phụ đề của cuốn sách là một tóm tắt dễ hiểu “Sự suy yếu của Tổng thống Biden,
nỗ lực che đậy nó, và quyết định tái tranh cử tai hại.”) Các tác giả mô tả rằng,
dù đã nhận thức ở mức độ khác nhau về sự yếu kém, hay quên, lú lẫn, và thiếu mạch
lạc của Biden, nhưng Đảng Dân chủ, đội ngũ nhân viên Nhà Trắng, và cả chiến dịch
tái tranh cử của ông đều kiên quyết giữ im lặng, và thay vào đó chọn cách chấp
nhận và hợp lý hóa. Họ cũng mô tả cách vị tổng thống cùng với những người thân
cận quá say mê với huyền thoại về Biden – người bất chấp mọi khó khăn, kiên cường
trước nghịch cảnh, và là người duy nhất có khả năng đánh bại Donald Trump – đến
mức mọi sự hoài nghi đều bị cấm.
Trong
phần lời tựa của tác giả, Tapper và Thompson nhấn mạnh rằng cuốn sách dựa trên
200 nguồn tin – rất nhiều nhà lập pháp, nhân viên trong chiến dịch tranh cử, và
quan chức chính quyền – hầu hết trong số họ chỉ đồng ý trò chuyện sau khi bầu cử
kết thúc. “Một vài người đã nói với chúng tôi một cách đầy hối tiếc rằng họ đã
không làm nhiều hơn, hoặc rằng họ đã chờ đợi quá lâu,” Tapper và Thompson viết.
“Nhiều người tức giận và cảm thấy bị phản bội sâu sắc, không chỉ bởi Biden mà
còn bởi những cố vấn thân cận, đồng minh và gia đình của ông ấy.” Trong các cuốn
sách về chiến dịch tranh cử, cảm giác tội lỗi, hành động đổ lỗi, và thái độ chối
bỏ trách nhiệm thường là những phản ứng tiêu chuẩn của phe thua cuộc.
“Original
Sin” không xác định chính xác thời điểm sức khỏe của Biden bắt đầu suy yếu, ngoại
trừ việc cho biết các dấu hiệu đã xuất hiện thường xuyên và kéo dài suốt nhiều
năm, thường trở nên tồi tệ hơn vào những giai đoạn gia đình ông gặp biến cố. Đối
với một số người, mọi chuyện có lẽ bắt đầu vào năm 2015, với sự ra đi của con
trai cả của tổng thống. “Cái chết của Beau đã hủy hoại ông ấy,” một trợ lý cấp
cao của Nhà Trắng nói với các tác giả. “Một phần trong ông ấy đã chết đi và
không bao giờ quay trở lại sau khi Beau qua đời.” Những rắc rối pháp lý sau đó
liên quan đến cậu con trai thứ hai, Hunter – đặc biệt là sự sụp đổ của thỏa thuận
năm 2023 đối với các cáo buộc về thuế và súng – cũng trở thành một “bước ngoặt,”
Tapper và Thompson viết, trích lời các trợ lý của Biden, “thời điểm tổng thống
suy yếu một cách đột nhiên và nghiêm trọng.”
Thông
tin về những lần Biden bị suy giảm sức khỏe chiếm phần lớn trong “Original
Sin.” Năm 2019, trong một chuyến xe buýt ở Iowa, Biden đã phải chật vật mới nhớ
được tên của Mike Donilon, một chiến lược gia vận động tranh cử và cố vấn
Nhà Trắng đã làm việc với ông gần bốn thập kỷ. Tháng 03/2020, Biden quên mất những
lời trong Tuyên ngôn Độc lập. (“Chúng tôi cho rằng những sự thật này là hiển
nhiên. Mọi đàn ông và phụ nữ đều được tạo ra bởi, … bạn biết đấy,… bạn biết đấy…
cái thứ đó.”) Một ngày nọ tại Nhà Trắng vào năm 2022, ông không thể nhớ ra tên
cố vấn an ninh quốc gia của mình (Jake Sullivan, người mà ông gọi là Steve) và
giám đốc truyền thông của mình (Kate Bedingfield, người mà ông gọi là Press), cả
hai đều đang đứng gần ông. Và tại một buổi gây quỹ ở Hollywood vào năm 2024,
Biden đã không nhận ra George Clooney – một trong những gương mặt dễ nhận biết
nhất hành tinh – và phải được nhắc rằng ông ấy là ai.
Đây
chỉ là một vài trong vô số các ví dụ mà Tapper và Thompson đã ghi nhận, tất cả
đều diễn ra trước màn thể hiện ngập ngừng và lú lẫn của Biden trong buổi tranh
luận với Trump vào ngày 27/06/2024. “Những gì thế giới chứng kiến trong cuộc
tranh luận duy nhất của ông vào năm 2024 không phải là một điều bất thường,”
Tapper và Thompson viết. “Đó không phải là do cảm lạnh; không phải do ông ấy
chuẩn bị thiếu hoặc quá kỹ lưỡng. Cũng không phải do ông ấy chỉ hơi mệt mỏi
thôi đâu.”
Các
tác giả chỉ rõ một nhóm nhỏ các trợ lý thân cận của Biden – trong số đó có
Donilon và Steve Ricchetti – vì đã khăng khăng rằng tổng thống vẫn ổn hoặc sức
khỏe của ông không phải là vấn đề lớn. Khi Biden ra tranh cử vào năm 2019 và
2020, các trợ lý cấp cao xem tuổi tác của ông “chỉ đơn thuần là một điểm yếu
chính trị, chứ không phải là hạn chế nghiêm trọng đối với khả năng của ông,”
Tapper và Thompson viết. Bốn năm sau, họ tự nhủ rằng ngay cả một Biden bị suy yếu
cũng sẽ tốt hơn Trump quay trở lại. “Biden, gia đình, và đội ngũ của ông ấy đã
để lợi ích cá nhân và nỗi sợ hãi về một nhiệm kỳ nữa của Trump biện minh cho nỗ
lực đưa một ông lão đôi khi mất trí vào Phòng Bầu dục thêm bốn năm nữa,” các
tác giả viết.
Bất
kỳ ai dám đặt câu hỏi hoặc tìm hiểu về năng lực thể chất hoặc tinh thần của
Biden đều phải đối mặt với sự phản ứng gay gắt từ Nhà Trắng. Khi một phóng viên
từ một hãng tin quốc gia bắt đầu hỏi về sự hay quên và hay nhầm lẫn của tổng thống,
Ricchetti, người từng là cố vấn cho Biden, đã gọi cho cô ấy và nói rằng câu
chuyện là sai sự thật, và ông biết điều đó vì ông vẫn liên tục họp với tổng thống.
Nữ phóng viên, người mà các tác giả không nêu tên, hiểu rằng nếu cô ấy tiếp tục
theo đuổi câu chuyện, cô sẽ bị gán mác là kẻ nói dối. (“Lời đe dọa ngầm đã có
tác dụng,” Tapper và Thompson viết.) Và khi David Axelrod, cựu chiến lược gia của
Barack Obama, công khai đặt vấn đề rằng tuổi tác của Biden là một gánh nặng,
ông đã nhận được một cuộc gọi điện thoại giận dữ từ Ron Klain, chánh văn phòng
của Biden. “Ai đủ sức đánh bại Trump? Tổng thống Biden là người duy nhất đã làm
được điều đó. Tốt hơn hết là anh phải thực sự chắc chắn về một ứng viên khác
trước khi nói rằng tổng thống nên từ chức. Tương lai của đất nước này phụ thuộc
vào điều đó!”
Đó
là một logic đau khổ – bám víu lấy một ứng viên có nhiều khiếm khuyết và đang
suy yếu chỉ vì chiến thắng của ông ấy là điều cần thiết – nhưng điều này lại hợp
lý nếu bạn cho rằng những thiếu sót của các đối thủ của Biden, chứ không phải của
chính ông, mới là yếu tố quyết định. “Biden có suy nghĩ rằng những gì Trump
đang nói là quá đáng và ngu ngốc đến mức nếu người dân Mỹ nhìn thấy hai người đứng
cạnh nhau, họ sẽ nhận ra Trump không phù hợp,” Tapper và Thompson viết. Điều mà
Biden và đội ngũ của ông dường như không hiểu là chiến dịch tranh cử của họ
đang trở thành một cuộc trưng cầu dân ý về một mình Biden, và hai con số – giá
cả hàng tạp hóa và độ tuổi của ứng viên – đều đang đi sai hướng.
Khi
người dân Mỹ so sánh hai người đàn ông này, Biden mới là người ngày càng không
có khả năng đảm đương công việc.
Tapper
và Thompson ghi lại nhiều cách thức mà chiến dịch của Biden và Nhà Trắng đã áp
dụng để che giấu tình trạng của tổng thống, ngay cả khi các dấu hiệu ngày càng
rõ ràng. Đây có lẽ là phần hấp dẫn nhất trong câu chuyện của họ, cho thấy những
nỗ lực che giấu không nhất thiết phải được lên kế hoạch; đôi khi chúng chỉ xảy
ra một cách tự nhiên. Chẳng hạn, những người viết bài diễn văn của Nhà Trắng bắt
đầu đơn giản hóa các văn bản mà họ chuẩn bị cho tổng thống. “Mọi thứ đều trở
nên ngắn hơn: các bài phát biểu, đoạn văn, thậm chí là câu văn,” Tapper và
Thompson báo cáo. “Vốn từ vựng bị thu hẹp dần.” Và nguyên nhân không phải là do
mệnh lệnh từ cấp trên; những người viết bài diễn văn “cũng đang dần thích nghi
với khả năng suy giảm của Biden.”
Biden
bắt đầu phụ thuộc nhiều hơn vào máy nhắc chữ và thẻ ghi chú ngay cả đối với các
cuộc họp đơn giản. Các thành viên trong nội các của ông hồi tưởng lại các cuộc
họp “khủng khiếp,” “khó chịu,” và “đi theo kịch bản,” ngay từ những ngày đầu
nhiệm kỳ. “Cứ như bạn đang nói chuyện với ông nội của mình vậy,” một cựu lãnh đạo
của một quốc gia châu Âu đã gặp Biden vào năm 2021 cho biết. Và trong chuyến đi
với tổng thống vào năm 2022, một thành viên nội các của Biden đã gạt bỏ khả
năng ông tái tranh cử khi trò chuyện với một thành viên khác: “Không đời nào.
Ông ấy quá già rồi.”
Sức
mạnh của “Original Sin” nằm ở việc không ngừng tập hợp những câu chuyện nội bộ
như vậy – những lời thú nhận, hối tiếc, và những lời trách móc trong Nhà Trắng
và chiến dịch tranh cử – khi sức khỏe của tổng thống ngày càng sa sút. Trong cuốn
“Fight: Inside the Wildest Battle for the White House,” được xuất bản vào tháng
trước, Jonathan Allen và Amie Parnes đã cung cấp một số thông tin bổ sung, vượt
ra ngoài những gì đã xảy ra và tập trung hơn vào lý do tại sao.
Đối
với Allen và Parnes, những người cũng là đồng tác giả các cuốn sách về các cuộc
đua tổng thống năm 2016 và 2020, động cơ của Biden khi tiếp tục cuộc đua lâu
như vậy là vì lợi ích cá nhân. Họ trích lời Donilon nói chuyện với một đảng
viên Dân chủ nổi tiếng: “Không ai có thể rời khỏi cuộc đua này. Không ai có thể
rời khỏi ngôi nhà, máy bay, trực thăng này đâu.” Các tác giả chỉ ra Jill Biden,
người đã ngăn cản chồng mình tranh cử vào năm 2004, nhưng giờ đây lại khó lòng
buông bỏ. “Sau tám năm làm đệ nhị phu nhân và gần hai năm nữa làm đệ nhất phu
nhân, những đặc quyền ở cấp cao nhất của quyền lực tại Washington đã hấp dẫn bà
ấy,” Allen và Parnes viết.
Trong
mắt một số đảng viên Dân chủ, việc che giấu sự thật về một Biden dang suy yếu
đã trở thành một nhu cầu chính trị tự thỏa mãn. Sau cuộc tranh luận giữa Trump
và Biden, một số đồng minh của Biden bắt đầu không chỉ tự hỏi liệu ông ấy có
nên tiếp tục cuộc đua hay không, mà còn liệu ông ấy có đủ sức để tiếp tục làm tổng
thống hay không. “Nhưng nếu các quan chức Đảng Dân chủ công khai đặt ra câu hỏi
thứ hai, nếu họ nói với cử tri rằng tổng thống đương nhiệm không đủ khả năng điều
hành đất nước, họ chắc chắn sẽ mất sạch cơ hội chiến thắng vào tháng 11, cho dù
Biden hay một đảng viên Dân chủ khác đứng đầu liên danh tranh cử,” Allen và
Parnes viết.
Và
đó là một logic còn đau khổ hơn – nếu chúng ta thừa nhận rằng chúng ta không thể
điều hành đất nước, thì họ sẽ không để chúng ta điều hành đất nước! – qua đó
cho thấy cách mà các yêu cầu đảng phái có thể khiến một quốc gia rơi vào rủi
ro. (Trong một dấu hiệu chứng minh sự ngờ vực của Đảng Dân chủ đối với vấn đề
này đã trở nên sâu sắc như thế nào, chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn
4 của Biden, được công bố hôm Chủ Nhật 18/05, cũng làm dấy lên câu hỏi về thời
điểm tổng thống lần đầu tiên biết về căn bệnh của mình.)
Trong
“Original Sin,” Donilon nổi lên như nhân vật phản diện chính, còn trong
“Fight,” người đó là Jennifer O’Malley Dillon, người từng giữ chức chủ tịch chiến
dịch tranh cử của Biden (và sau đó là chiến dịch tranh cử của Harris). Theo
Allen và Parnes, bà cũng là người khiến các nhà tài trợ của Đảng Dân chủ “tức
giận” sau cuộc tranh luận định mệnh của Biden, khi né tránh các câu hỏi về năng
lực trí tuệ của tổng thống và về các lựa chọn thay thế có thể xảy ra nếu ông ấy
rời đi.
Sau
cuộc tranh luận, gia đình Biden bắt đầu đưa ra những lời bào chữa mâu thuẫn với
nhau, lập luận rằng các cố vấn đã để tổng thống “không được chuẩn bị” cho sự kiện
này, nhưng chính họ cũng cho rằng “chuẩn bị quá kỹ” là vấn đề của Biden, rằng
“đội ngũ đã nhồi nhét vào đầu ông quá nhiều sự kiện, số liệu, và kịch bản đến mức
ông ấy chẳng còn có thể xử lý mọi thứ trong thời gian thực,” Allen và Parnes viết.
(Tapper và Thompson đưa ra một lời giải thích đơn giản hơn: Biden đã ngủ rất
nhiều trong những ngày ông ấy dành ra để chuẩn bị cho cuộc tranh luận.)
Vào
cuối chiến dịch, khi tổng thống cân nhắc liệu có nên tiếp tục tham gia cuộc đua
hay không, Donilon tiếp tục nói với ông rằng các cuộc thăm dò vẫn rất sít sao,
rằng ông vẫn có khả năng cạnh tranh, ngay cả khi những người thăm dò ý kiến của
chiến dịch không đồng tình. Tapper và Thompson báo cáo rằng nhiều đảng viên Dân
chủ, bao gồm Obama, Ngoại trưởng Antony Blinken và Thượng nghị sĩ Chuck
Schumer, lo lắng rằng Biden không nhận được thông tin chính xác từ các nhân
viên chiến dịch của mình về những lo ngại của công chúng đối với màn trình diễn
của ông. Những người thăm dò ý kiến phàn nàn rằng họ đã gửi dữ liệu của mình
cho Donilon, người sẽ đưa ra quan điểm tích cực của riêng mình khi chia sẻ với
Biden. Khi Schumer tiết lộ với Biden vào giữa tháng 7 rằng những người thăm dò
ý kiến tin rằng ông chỉ có 5% cơ hội chiến thắng, Biden đã trả lời cụt lủn “Thật
vậy ư?”
Đó
là một trong những khoảnh khắc đáng lên án nhất mà tôi tìm thấy trong hai cuốn
sách này: Đảng Dân chủ không chỉ che giấu công chúng về tình trạng của Biden,
mà họ còn che giấu Biden về ý kiến của công chúng.
Lập
luận cuối cùng mà Đảng Dân chủ đã sử dụng để giữ Biden trong cuộc đua thật khó
hiểu khi xem xét người mà Biden sau này sẽ ủng hộ làm người thay thế ông. Các đồng
minh của Biden cho rằng Đảng Dân chủ phải đồng cam cộng khổ với Biden, bởi vì cấp
phó của ông, Kamala Harris, đơn giản là không đủ năng lực. “Các cố vấn của
Biden không hoàn toàn tin tưởng bà ấy,” Tapper và Thompson viết, cho rằng bà
quá thận trọng, không muốn đảm nhận các nhiệm vụ chính trị khó khăn và luôn phức
tạp hóa các nhiệm vụ đơn giản. (Các tác giả báo cáo rằng trước bữa tiệc tối ở
Washington với các nhà báo và người nổi tiếng, các trợ lý của Harris đã lo lắng
đến mức tự mình tổ chức một bữa tiệc giả với các thành viên trong đội ngũ nhân
viên của bà đóng vai khách mời.)
Vì
thế, các đồng minh của Biden đã hạ thấp Harris trước những nhà tài trợ và những
nhân vật nổi bật của đảng như Nancy Pelosi và Obama đã âm thầm bày tỏ sự hoài
nghi về phó tổng thống, thể hiện rằng họ muốn có một quy trình mở để sắp xếp vị
trí hàng đầu. Theo Allen và Parnes, Obama đã hình dung đến việc ghép đôi Thống
đốc Gretchen Whitmer của Michigan làm tổng thống và Thống đốc Wes Moore của
Maryland làm phó tổng thống, “một sự kết hợp vẫn cho phép Đảng Dân chủ tập hợp
xung quanh một phụ nữ và một người da màu.”
Những
oán hận dai dẳng của Biden đối với Obama – vì đã ưu tiên Hillary Clinton vào
năm 2016, vì đã không ủng hộ ông trong cuộc bầu cử sơ bộ năm 2020 – có thể giải
thích một phần lý do tại sao Biden lại ủng hộ Harris làm người thay thế mình.
Đúng, sự đoàn kết của đảng trong việc tập hợp xung quanh một nữ phó tổng thống
da đen là một yếu tố, nhưng phần “thỏa mãn nhất” trong lựa chọn của Biden là nó
sẽ giúp ông làm suy yếu sếp cũ của mình, Allen và Parnes viết. “Vào thời điểm
đó, bạn có rất ít thứ mà bạn có thể kiểm soát, và đó là thứ duy nhất mà ông ấy
có thể kiểm soát, và ông ấy đã chọn chống lại Obama,” một người thân cận với cả
hai người tiết lộ với các tác giả.
Chính
từ những điều nhỏ nhen như vậy mà các liên danh tranh cử đã được hình thành và
lịch sử bị đảo lộn.
Biden
đã từng tưởng tượng mình là “cầu nối” cho thế hệ lãnh đạo Dân chủ mới. Allen và
Parnes nhận định, “cuối cùng thì Biden đúng là một cây cầu – từ nhiệm kỳ Trump
này sang nhiệm kỳ Trump khác.”
Có
một giả định, ngầm hoặc rõ ràng, làm nền tảng cho những cuốn sách này: rằng bằng
cách chờ đợi quá lâu để rời khỏi cuộc đua, hoặc bằng cách tìm kiếm một nhiệm kỳ
thứ hai, Biden đã “trao thẳng cuộc bầu cử vào tay Trump,” như Tapper và
Thompson viết.
Nhưng
nếu Biden chịu rời khỏi sân khấu sớm hơn, thì liệu Đảng Dân chủ có nhất thiết
giữ được Nhà Trắng không? Không khó để hình dung đảng này bằng cách nào đó tự hủy
hoại mình trong một cuộc bầu cử sơ bộ chớp nhoáng. Bất kỳ ứng viên Dân chủ nào
cũng sẽ phải vật lộn rất nhiều dưới sức nặng đến từ hồ sơ của Biden về lạm
phát, biên giới và Afghanistan. Có lẽ các lực lượng chống các quan chức đương
nhiệm trên toàn cầu vẫn sẽ áp đảo Đảng Dân chủ, bất kể Biden hay Harris hay
Whitmer hay Josh Shapiro hay Pete Buttigieg hay Gavin Newsom hay một “Đảng viên
Dân chủ ảo tưởng” nào đó trở thành ứng viên.
“Chúng
ta đã bị Biden lừa dối với tư cách một đảng,” David Plouffe, người quản lý chiến
dịch tranh cử tổng thống năm 2008 của Obama và cố vấn cho cuộc đua của Harris
năm ngoái, tuyên bố trong “Original Sin.” Có thể. Nhưng đổ lỗi cho Biden về mọi
thứ thì quá đơn giản – Trump cũng làm điều tương tự cho bất cứ điều gì sai trái
trong nhiệm kỳ thứ hai của mình – và để phần còn lại của đảng thoát tội quá dễ
dàng.
Suốt
một thời gian quá dài, Đảng Dân chủ chủ yếu xác định mình là một đảng chống
Trump, liên tục nhắc đến những gì họ chống lại nhiều hơn là giải thích những gì
họ ủng hộ. Các chiến dịch bầu cử sơ bộ thường mang đến cơ hội cho các cuộc
tranh luận chính sách quan trọng và khả năng tự định nghĩa về mặt ý thức hệ,
nhưng Đảng Dân chủ dường như không muốn theo đuổi một quá trình như vậy.
Vào
năm 2020, Biden gần như không đại diện cho những ý tưởng, năng lượng, hay tương
lai mới của đảng mình; ông đã thua đậm ở Iowa, New Hampshire và Nevada, trước
khi hồi sinh chiến dịch của mình ở Nam Carolina. Nhưng ông đã giành được đề cử
vì các lãnh đạo đảng đã tập hợp lại, trong tuyệt vọng, xung quanh một người mà
họ nghĩ có thể đánh bại Trump. Ông là Chú Joe, một ông chú đáng tin cậy và quen
thuộc, chứ không phải là một người theo chủ nghĩa xã hội cộc cằn đến từ
Vermont. Bốn năm sau, khi Biden từ bỏ giấc mơ tái tranh cử, đảng của ông một lần
nữa bỏ lỡ cơ hội để làm rõ lập trường của mình, và chỉ đơn giản là trao lại sứ
mệnh cho bàn tay chìa ra gần nhất.
“Bà
ấy đã không dành bốn năm trước đó để luyện tập, tham gia vào các cuộc phỏng vấn
khó khăn, và giao lưu với những cử tri có thể có xu hướng nghi ngờ một người đến
từ San Francisco sang trọng,” Tapper và Thompson viết về Harris. “Bà ấy chưa
bao giờ tìm cách xóa bỏ các lập trường cực tả mà bà từng đưa ra để giành được đề
cử vào năm 2020.” Như Allen và Parnes đã nói, Harris thiếu “một nguyên do cốt
lõi cho chiến dịch tranh cử của mình.”
Thay
vào đó, chiến dịch của bà tập trung vào những rủi ro mà Trump đặt ra: “Chúng ta
sẽ không quay trở lại.”
Người
Mỹ giờ đây đã biết thế nào là quay trở lại với chính quyền Trump – nhưng dường
như họ vẫn chưa rõ mình nghĩ gì về phe đối lập Dân chủ của ông. Chiến thắng của
Biden vào năm 2020 đã cho phép Đảng Dân chủ che đậy những khác biệt của họ, và
sự sụp đổ của ông vào năm 2024 cho phép họ làm điều đó một lần nữa. Rốt cuộc
thì đi tìm một vật tế thần vẫn dễ hơn là đi tìm bản sắc. Nhưng việc tự định
hình bản sắc là một thách thức quan trọng đối với một đảng phải đưa ra nhiều
hơn là chủ nghĩa chống Trump cuồng nhiệt, bất kể sự phản kháng có quan trọng đến
mức nào.
Câu
hỏi quan trọng mà đảng của Biden phải đối mặt không phải là về cựu tổng thống,
mà là Đảng Dân chủ phải biết gì về chính mình, và khi nào họ mới biết điều đó?
-------------------------------
Carlos
Lozada là một chuyên gia bình luận của New York Times, hiện sống có Washington,
D.C. Gần đây nhất, ông là tác giả của cuốn “The Washington Book: How to Read
Politics and Politicians.”
Nguồn: Carlos Lozada, “Biden Is a Scapegoat. The Democrats
Are the Problem.,” New
York Times, 20/05/2025
----------------------------------------
Mỹ
mất gì nếu Trung Quốc chiếm được Đài Loan ?
Thanh
Hà - RFI
Đăng
ngày: 23/05/2025 - 15:27 - Sửa đổi ngày: 23/05/2025 - 17:05
https://www.rfi.fr/vi/ch%C3%A2u-%C3%A1/20250523-m%E1%BB%B9-m%E1%BA%A5t-g%C3%AC-n%E1%BA%BFu-trung-qu%E1%BB%91c-chi%E1%BA%BFm-%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c-%C4%91%C3%A0i-loan
Đài Loan
là nỗi ám ảnh lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình vì ít nhất ba lý do. Quan trọng
hơn cả là yếu tố địa chính trị : Chiếm được Đài Loan Bắc Kinh gỡ được nút
thắt duy nhất để làm chủ phần lớn Thái Bình Dương, cô lập các đồng minh của
Washington, đe dọa trực tiếp đến những lợi ích sống còn của Hoa Kỳ.
HÌNH
:
Công
nghiệp bán dẫn một lý do để Trung Quốc chiếm lĩnh Đài Loan. REUTERS -
Florence Lo
RFI
xin được giới thiệu bài viết của Pierre-Antoine Donnet, trên báo mạng chuyên về
châu Á Asialyst. Ông nguyên tổng
biên tập của hãng thông tấn Pháp AFP và từng là thông tín viên tại Bắc Kinh và
là tác giả của nhiều cuốn sách về Trung Quốc và Đông Bắc Á. Năm 2024 2024
Pierre-Antoine Donnet ra mắt độc giả cuốn Chine, l'empire des illusions – Trung
Quốc, đế chế của những ảo vọng (NXB Saint Simon) và Japon,
l'envol vers la modernité- Nhật Bản, chắp cánh bước vào thời kỳ hiện đại,
(NXB l’Aube)
******
Vì
sao một « vẩy móng tay » với chưa đầy 24 triệu dân
này lại có thể trở thành « nỗi ám ảnh » nhân vật quyền lực nhất Trung
Quốc, người nắm quyền sinh sát với 1,4 tỷ dân trên địa cầu ? Từ nhiều thập
niên qua, Lực Lượng Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc -tức quân đội nước này, đã
có những bước chuẩn bị để thâu tóm Đài Loan và quá trình chuẩn bị đó đã được
tăng tốc từ 2012 khi ông Tập Cận Bình lên cầm quyền.
Theo
tác giả bài viết trên báo mạng Asialyst lý do đầu tiên khiến ông Tập quan tâm đến
Đài Loan vì muốn đi vào lịch sử với thành tích « thống nhất đất nước »,
đem được vùng lãnh thổ này về với « đất mẹ ». Lý do thứ 2 là để chiếm
đoạt công ty Đài Loan TSMC, con chim đầu đàn trong ngành công nghiệp bán dẫn của
thế giới để qua đó Trung Quốc sẽ chót vót trên đỉnh cao kim tự tháp công nghệ
high tech.
Bẻ
khóa, tiến ra Thái Bình Dương
Tuy
nhiên như vừa nói yếu tố địa chính mới là lý do quan trọng nhất trong những nước
cờ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. « Đài Loan là một cánh cổng để tiếp cận với
vùng biển rộng lớn nhất hành tinh, bao phủ từ sát cạnh Hoa Kỳ đến châu Mỹ
Latinh, trải rộng mãi đến Nhật Bản và bán đảo Triều Tiên ».
Tác
giả trích dẫn đại tá Grant Newsham, một sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ nay
đã trở thành một nhà ngoại giao với kinh nghiệm nhiều năm tại Nhật Bản. Theo
Newsham nếu « Đài Loan rơi vào tay cộng sản Trung Quốc nhiều điều sẽ xảy
ra. Không một kịch bản nào thuận lợi cho Hoa Kỳ và thế giới tự do ». Đó là
chưa kể đến số phận của gần 24 triệu dân trên hòn đảo này.
Tại sao nguy cơ chiến
tranh tại Eo biển Đài Loan đang ngày càng cao hơn?
Bonny Lin, John Culver, và Brian Hart - Foreign Affairs
Viên
Đăng Huy, biên
dịch
22/05/2025
Nỗi
lo của Bắc Kinh về tương lai có thể sớm dẫn đến một tính toán sai lầm chết người.
Tình
hình căng thẳng ở eo biển Đài Loan đang gia tăng. Ngay cả trước khi Đài Loan bầu
ông Lại Thanh Đức làm tổng thống vào tháng 1 năm 2024, Trung Quốc đã mạnh mẽ phản
đối ông, gọi ông là “kẻ ly khai” và “kẻ gây chiến”. Trong những tháng gần đây,
Bắc Kinh đã gia tăng các cuộc công kích bằng lời lẽ: vào giữa tháng 3, người
phát ngôn Văn phòng Sự vụ Đài Loan của Trung Quốc gọi ông Lại là “kẻ phá hoại
hòa bình eo biển” và cáo buộc ông đẩy Đài Loan đến “bờ vực chiến tranh nguy hiểm”.
Hai tuần sau, khi Bắc Kinh tiến hành một cuộc tập trận quân sự quy mô lớn xung
quanh Đài Loan, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lan truyền các
hình ảnh biếm họa mô tả ông Lại như một con côn trùng. Còn có một hình ảnh còn
vẽ đôi đũa gắp “ký sinh trùng” Lại ra khỏi một Đài Loan đang bốc cháy.
VIDEO
:
Tại
sao nguy cơ chiến tranh tại Eo biển Đài Loan đang ngày càng cao hơn?
https://www.youtube.com/watch?v=Eld4smLzhOU
Nỗ
lực bôi xấu ông Lại phản ánh sự lo lắng sâu sắc của Bắc Kinh về tương lai quan
hệ hai bờ eo biển, đặc biệt là điều mà Trung Quốc coi là mong muốn của ông Lại
trong việc thúc đẩy Đài Loan độc lập. So với người tiền nhiệm Thái Anh Văn, ông
Lại đã có lập trường mạnh mẽ và thách thức hơn trước các mối đe dọa ngày càng
tăng từ Trung Quốc đối với hòn đảo, điều này thể hiện rõ trong lời lẽ và các biện
pháp chính sách mới của ông. Vào tháng 3 vừa qua, ông Lại gọi Bắc Kinh là “thế
lực ngoại bang thù địch” và công bố kế hoạch thực hiện 17 chiến lược toàn diện
để bảo vệ hòn đảo khỏi sự xâm nhập của Trung Quốc.
Việc
Trung Quốc bôi nhọ ông Lại gợi nhớ đến những lời lên án của Bắc Kinh đối với Trần
Thủy Biển, tổng thống Đài Loan khoảng hai thập kỷ trước. Bắc Kinh gọi ông Trần
là “kẻ ly khai ngoan cố” và “kẻ gây rối” đang “đi gần đến bờ vực, và không có dấu
hiệu nào cho thấy ông ta sẽ ghìm cương ngựa”. Bắc Kinh đã gia tăng áp lực bên
ngoài đối với ông Trần và hợp tác với các đảng đối lập ở Đài Loan để cản trở
chương trình nghị sự chính trị của ông. Trung Quốc đã suýt chút nữa sử dụng vũ
lực quân sự chống lại hòn đảo vào năm 2008 và có lẽ đã thực hiện nếu ông Trần
thành công hơn trong việc giành được sự ủng hộ của công chúng Đài Loan cho cuộc
trưng cầu dân ý của mình.
Thái
độ hiện tại của Bắc Kinh đáng lo ngại sâu sắc đối với Washington. Trung Quốc
không coi sự lãnh đạo của ông Lại chỉ đơn thuần là sự tiếp nối của bà Thái.
Thay vào đó, Bắc Kinh coi ông Lại là một người gây rối giống như ông Trần và
đang đối phó với ông tương tự như vậy. Kể từ khi ông Lại trở thành tổng thống,
Bắc Kinh đã thể hiện sự sẵn sàng ngày càng tăng trong việc sử dụng sức mạnh
quân sự để đe dọa và trừng phạt hòn đảo. Và hiện tại, họ đã chuẩn bị tốt hơn
nhiều để sử dụng vũ lực chống lại Đài Loan so với 20 năm trước.
Những
chia rẽ rõ ràng trong chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump về cách tiếp cận
Đài Loan càng làm gia tăng những rủi ro này. Nếu Bắc Kinh nghi ngờ cam kết của
Mỹ đối với hòn đảo, điều đó có thể khuyến khích Trung Quốc thực hiện các hành động
cưỡng ép hơn nữa đối với Đài Loan. Tất cả những yếu tố này làm tăng đáng kể khả
năng Bắc Kinh sẽ tính toán sai lầm – và rất có thể họ sẽ sử dụng vũ lực chống lại
hòn đảo vào khoảng năm 2027, khi Trung Quốc tiến gần đến các cột mốc hiện đại
hóa quân sự quan trọng và Đài Loan chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống tiếp
theo.
Vòng
xoáy leo thang
Những
luận điệu chính thức của Trung Quốc từ lâu đã nhấn mạnh rằng việc thống nhất
hòa bình với Đài Loan là điều không thể tránh khỏi. Nhưng trong những tháng gần
đây, Bắc Kinh ngày càng lo ngại rằng ông Lại có ý định tách rời Đài Loan khỏi
Trung Quốc một cách có hệ thống. Các phương tiện truyền thông Trung Quốc đã cáo
buộc ông Lại quân sự hóa xã hội Đài Loan khi ông ưu tiên các nỗ lực tăng cường
khả năng phòng thủ của Đài Loan, tái lập hệ thống tòa án quân sự để xử lý các vụ
gián điệp và phản quốc của các quan chức quân đội Đài Loan, đồng thời đẩy nhanh
quá trình huấn luyện và chuẩn bị cho khả năng Trung Quốc xâm lược Đài Loan. Bắc
Kinh đặc biệt chỉ trích các nỗ lực của ông Lại nhằm ngăn chặn sự xâm nhập và
chiến tranh nhận thức của Trung Quốc, cho rằng ông Lại đang ngăn cản việc nối lại
du lịch, đàn áp và truy tố các nhóm và cá nhân thân Trung Quốc, ngăn cản người
dân Đài Loan nộp đơn xin giấy tờ tùy thân của Trung Quốc, áp đặt các rào cản đối
với hợp tác học thuật giữa các trường đại học ở Trung Quốc và Đài Loan, và thay
đổi sách giáo khoa của Đài Loan để làm suy yếu sự gắn kết lịch sử và văn hóa.
Vào
tháng 3, một phát ngôn viên của chính phủ Trung Quốc tuyên bố rằng 17 chiến lược
của ông Lại nhằm “cản trở các hoạt động trao đổi và hợp tác trên eo biển Đài
Loan”. Trung Quốc cũng lên án các nỗ lực của ông Lại nhằm khuyến khích các
doanh nghiệp Đài Loan đầu tư nhiều hơn vào các quốc gia dân chủ, bao gồm cả Mỹ.
Bắc Kinh cho rằng những biện pháp này đã thất bại và chế nhạo Đài Bắc khi Mỹ đe
dọa áp đặt thuế quan cao đối với hòn đảo vào tháng Tư.
Nhiều
nhà phân tích Trung Quốc tin rằng vị thế chính trị của ông Lại yếu hơn so với
người tiền nhiệm Thái Anh Văn. Nhưng họ lo ngại rằng sự yếu kém này có thể khiến
ông Lại trở nên táo bạo hơn, vì ông có thể muốn tăng cường đối đầu với Trung Quốc
để cố gắng giành được sự ủng hộ của công chúng.
Dựa
trên phân tích này về ông Lại và tình hình nội bộ ở Đài Loan, những tiếng nói
diều hâu ở Trung Quốc đang thúc giục một cách tiếp cận ngày càng hung hăng hơn
đối với Đài Loan. Một số người kêu gọi sử dụng vũ lực quân sự chống lại hòn đảo
hoặc khôi phục cái gọi là các chiến dịch nội chiến, những cách thức phi hòa
bình để Bắc Kinh thống nhất hòn đảo, chẳng hạn như áp đặt phong tỏa hàng
hải đối với hòn đảo. Những người diều hâu khác đã công khai đặt câu hỏi liệu Bắc
Kinh có thể tạo ra một cuộc khủng hoảng ở Đài Bắc tương tự như Sự kiện Tây An
năm 1936 hay không, trong đó các tướng lĩnh phục vụ dưới quyền Tưởng Giới Thạch
– người đứng đầu chính phủ Trung Hoa Dân Quốc và lực lượng Quốc dân đảng của họ
– đã bắt giữ Tưởng và buộc ông ta phải liên minh với Đảng Cộng sản Trung Quốc để
chống lại quân đội Nhật Bản đã xâm lược miền bắc Trung Quốc.
Một
sự tương đồng đáng chú ý hơn có thể là một trong những giai đoạn nguy hiểm nhất
trong nhiệm kỳ của ông Trần Thủy Biển. Để tăng tỷ lệ cử tri đi bầu trong cuộc bầu
cử tổng thống Đài Loan vào tháng 3 năm 2008, ông Trần đã kết hợp cuộc bỏ phiếu
đó với một cuộc trưng cầu dân ý phổ biến về việc liệu hòn đảo có nên gia nhập
Liên Hợp Quốc dưới tên Đài Loan thay vì Trung Hoa Dân Quốc hay không.
Đề
xuất này đã tiến rất gần đến việc vượt qua lằn ranh đỏ của Bắc Kinh: vào năm
2005, Bắc Kinh đã thông qua Luật Chống Ly khai, trong đó quy định quyền sử dụng
vũ lực quân sự của Trung Quốc đối với Đài Loan trong một số điều kiện, bao gồm
cả khi “xảy ra các sự kiện lớn dẫn đến việc Đài Loan ly khai khỏi Trung Quốc”.
Khi luật được thông qua, một phát ngôn viên của chính phủ Trung Quốc gợi ý rằng
một cuộc trưng cầu dân ý trên toàn đảo có thể được coi là một rắc rối lớn. Và
vào năm 2007, sau khi ông Trần đề xuất cuộc trưng cầu dân ý, Chủ tịch Trung Quốc
Hồ Cẩm Đào đã cảnh báo Tổng thống Mỹ George W. Bush rằng Bắc Kinh hiểu cuộc
trưng cầu dân ý ở Đài Loan theo cách này.
Bắc
Kinh đã đưa ra những cảnh báo này kèm theo các động thái quân sự quan trọng.
Trung Quốc đã tăng cường triển khai tên lửa đạn đạo tầm ngắn nhắm vào Đài Loan
gấp bảy lần từ đầu nhiệm kỳ của ông Trần vào năm 2000 đến đầu năm 2008. Trước
cuộc trưng cầu dân ý, chính quyền Bush đã phát hiện ra rằng PLA đã đặt các đơn
vị tên lửa tầm ngắn di động gần eo biển Đài Loan trong tình trạng báo động cao.
Cộng đồng quân sự và tình báo Mỹ tin rằng Trung Quốc có thể bắn tên lửa xung
quanh Đài Loan, như họ đã làm trong cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan năm 1996
– hoặc tệ hơn, Trung Quốc thực sự có thể tấn công hòn đảo.
May
mắn thay, cuộc khủng hoảng năm 2008 đã qua mà không đổ máu. Tỷ lệ cử tri đi bầu
thấp đã làm mất hiệu lực cuộc trưng cầu dân ý của ông Trần, và ứng cử viên Quốc
dân đảng đối lập đã đánh bại ứng cử viên của Đảng Dân Tiến của ông Trần trong
cuộc đua tổng thống. Việc Mỹ triển khai lực lượng đáng kể gần Đài Loan cũng có
thể đã khiến Bắc Kinh phải chững lại. Nhận thấy nguy cơ leo thang nghiêm trọng,
Washington đã công khai phản đối cuộc trưng cầu dân ý của ông Trần và triển
khai hai tàu sân bay ở phía đông bắc và đông nam Đài Loan, và một chiếc thứ ba
gần Singapore, trước cuộc bỏ phiếu. Tuy nhiên, sự kiện này cho thấy Bắc Kinh
nghiêm túc về việc sử dụng vũ lực nếu bị khiêu khích bởi những gì họ coi là các
hoạt động “ủng hộ độc lập”.
Điềm
gở
Kể
từ cuộc khủng hoảng năm 2008, năng lực quân sự của Trung Quốc đã tăng trưởng
đáng kể. Lục quân, hải quân và không quân của họ đã hiện đại hóa nhanh chóng,
và lực lượng tên lửa thông thường của họ hiện có một loạt tên lửa tầm xa mạnh mẽ
hơn nhiều, bao gồm cả tên lửa đạn đạo siêu thanh và chống hạm tiên tiến. Trung
Quốc cũng đã tăng gấp đôi quy mô kho vũ khí hạt nhân của mình trong năm năm
qua. Bên cạnh những tiến bộ về năng lực cứng, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình
đã tiến hành các cuộc cải cách tổ chức sâu rộng để cho phép PLA thực hiện các
hoạt động công nghệ cao phối hợp hơn, và ông đã tiến hành các chiến dịch chống
tham nhũng chưa từng có để loại bỏ các trở ngại đối với khả năng sẵn sàng chiến
đấu của quân đội.
Sự
sẵn sàng sử dụng quân đội của Bắc Kinh cũng đang gia tăng. Trung Quốc từ lâu đã
tiến hành các cuộc tập trận quân sự để rèn luyện năng lực và đe dọa Đài Loan.
Trong nhiệm kỳ của Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu từ năm 2008 đến 2016, Bắc
Kinh đã hạn chế những hành động gây hấn này khi họ tìm cách khuyến khích sự gắn
kết lớn hơn giữa hai bờ eo biển. Nhưng Trung Quốc đã nối lại các cuộc tập trận
lớn khi bà Thái Anh Văn, người nhấn mạnh chủ quyền và an ninh của Đài Loan, kế
nhiệm ông Mã. Vào tháng 8 năm 2022, vào cuối nhiệm kỳ của bà Thái, Trung Quốc
đã tiến hành các cuộc tập trận lớn hơn và gây hấn hơn gần Đài Loan so với bất kỳ
cuộc tập trận nào trước đây.
Giờ
đây, tốc độ và quy mô các hoạt động quân sự của Trung Quốc đang gia tăng. Chưa
đầy một năm sau khi ông Lại nhậm chức, Trung Quốc đã phá vỡ tiền lệ bằng cách tổ
chức ba cuộc tập trận quy mô lớn, được đặt tên để nâng cao tầm quan trọng và
phân biệt chúng với các cuộc tập trận nhỏ hơn.
Trong
một thay đổi đáng kể, PLA hiện đang sử dụng các cuộc tập trận quân sự quy mô lớn
như vậy để trừng phạt chính quyền của ông Lại vì các hành động chính trị trong
nước. Tất cả các cuộc tập trận lớn trước đây của Trung Quốc – vào các năm 1995
đến 1996, 2022 và 2023 – đều được tiến hành sau khi các nhà lãnh đạo Đài Loan đến
thăm Mỹ hoặc gặp gỡ các quan chức cấp cao của Mỹ. Tháng 12 năm ngoái, Trung Quốc
đã tiến hành một cuộc tập trận lớn – nhưng không được đặt tên – sau khi ông Lại
dừng chân ở Hawaii và Guam trong chuyến công du Thái Bình Dương. Nhưng cả ba cuộc
tập trận quy mô lớn gần đây đều phản ứng lại các bài phát biểu hoặc tuyên bố
trong nước của ông Lại.
Các
hoạt động quân sự này đã trở nên hung hăng hơn, khó đoán hơn và phức tạp hơn rõ
rệt. Trong cuộc tập trận tháng Tư, mang tên “Lôi Đình Eo Biển – 2025A”, các tàu
hải quân của PLA được cho là đã tiến vào vùng biển cách bờ biển Đài Loan 24 hải
lý. Trung Quốc đang tiến hành các hoạt động quy mô lớn xung quanh Đài Loan
quanh năm và tăng cường các hoạt động ở phía đông Đài Loan. Phá vỡ thông lệ trước
đây, PLA hiện cung cấp rất ít hoặc không có cảnh báo trước về các cuộc tập trận
của mình. Điều này đã làm dấy lên lo ngại ở Washington và Đài Bắc về thời gian
chuẩn bị mà Mỹ và Đài Loan có thể có nếu Trung Quốc quyết định sử dụng vũ lực để
chiếm hòn đảo.
Trong
một thay đổi khác so với những năm trước, các đợt tập trận gần đây đã chứng kiến
lực lượng cảnh sát biển Trung Quốc phối hợp với hải quân để diễn tập phong tỏa
Đài Loan. Lực lượng dân quân biển của Trung Quốc, một mạng lưới các tàu dân sự
do nhà nước hậu thuẫn thường được triển khai để khẳng định các yêu sách lãnh thổ
của Trung Quốc, cũng ngày càng tham gia nhiều hơn. Sự tham gia của các lực lượng
mới này cho thấy Trung Quốc đang chuẩn bị tiến hành nhiều loại chiến dịch khác
nhau, chẳng hạn như xâm lược, bao vây do hải quân PLA dẫn đầu và phong tỏa Đài
Loan do cảnh sát biển Trung Quốc dẫn đầu.
Cuối
cùng, Trung Quốc cũng đang hoạt động trên một phạm vi địa lý rộng lớn hơn: cuộc
tập trận vào tháng 12 bao gồm một trong những đợt triển khai lực lượng hải quân
lớn nhất từ trước đến nay từ cả ba bộ chỉ huy ven biển của PLA. Trung Quốc đã
tiến hành các chiến dịch xung quanh Đài Loan và ở Biển Hoa Đông và Biển Đông,
thể hiện khả năng thống trị các khu vực bên trong chuỗi đảo thứ nhất – một vòng
cung các đảo và quốc gia ở Tây Thái Bình Dương kéo dài từ Nhật Bản đến các khu
vực của Indonesia – và ngăn chặn các lực lượng bên ngoài can thiệp để hỗ trợ
Đài Loan.
Ngoài
các chiến dịch lớn như vậy, Trung Quốc hiện tiến hành các cuộc xâm nhập quân sự
gần như hàng ngày vào vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan, một khu vực tự
tuyên bố mở rộng ra ngoài không phận chính thức của hòn đảo. Năm 2024, quân đội
Trung Quốc đã thực hiện kỷ lục 3.075 lần xuất kích vào khu vực này, tăng hơn
80% so với năm 2023. Các hoạt động này nhằm mục đích làm mất tính hợp pháp các
yêu sách của Đài Loan đối với vùng trời và vùng biển xung quanh và làm phức tạp
khả năng giám sát và theo dõi các hoạt động xung quanh hòn đảo của Đài Loan.
Một
số cuộc xâm nhập đường không này diễn ra như một phần của “các cuộc tuần tra sẵn
sàng chiến đấu chung” bao gồm không chỉ các khí tài trên không mà còn các chiến
dịch hàng hải phối hợp. Các cuộc tuần tra này hiện đang diễn ra gần như hàng tuần
và mang lại cho Trung Quốc cơ hội nhanh chóng gia tăng áp lực đối với Đài Loan
mà không cần đến các cuộc tập trận quy mô lớn hơn nhiều. Ví dụ, vài ngày sau
khi ông Lại công bố 17 chiến lược của mình vào tháng 3, Trung Quốc đã tiến hành
hai cuộc tuần tra sẵn sàng chiến đấu chung và sau đó, hai tuần sau đó, đã tổ chức
cuộc tập trận “Lôi Đình Eo Biển-2025A”.
Yếu
tố khó lường
Các
quan chức Mỹ đang đưa ra cảnh báo về những hoạt động quân sự đáng chú ý này của
Trung Quốc. Vào tháng Hai, Samuel Paparo, người đứng đầu Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương
– Thái Bình Dương của quân đội Mỹ, khẳng định rằng “các cuộc diễn tập hung hăng
của Trung Quốc xung quanh Đài Loan hiện nay không phải là các cuộc tập trận…
Chúng là các buổi diễn tập”.
Tuy
nhiên, khi Trung Quốc tăng cường các hoạt động quân sự chống lại Đài Loan, nhiều
người ở Bắc Kinh không biết lập trường của Washington là gì. Bắc Kinh tương đối
tự tin rằng chính quyền Trump muốn tăng cường cạnh tranh với Trung Quốc, đặc biệt
tập trung vào quan hệ kinh tế. Các nhà phân tích Trung Quốc cũng thường tin rằng
Trump sẽ cố gắng sử dụng Đài Loan như một quân bài trong cuộc cạnh tranh này,
nhưng không có sự đồng thuận về cách ông ta sẽ làm điều đó.
Các
chuyên gia Trung Quốc đánh giá rằng Trump và nhóm của ông ta có sự chia rẽ về vấn
đề Đài Loan. Nhiều người tin rằng Trump muốn đàm phán các thỏa thuận với Trung
Quốc và rằng ông ta cùng nhiều người ủng hộ muốn tránh các vướng mắc quân sự ở
nước ngoài. Nhưng những người diều hâu về an ninh quốc gia trong chính quyền,
chẳng hạn như Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio, vẫn tập trung vào việc kiềm chế sự
gây hấn và ảnh hưởng của Trung Quốc. Các đối tác Trung Quốc lưu ý rằng đội ngũ
an ninh quốc gia của Trump không tiếp thu những lo ngại của Trung Quốc về ông Lại,
và họ lo ngại rằng khi nói đến chính sách hàng ngày đối với Đài Loan, chính quyền
này có khả năng sẽ tăng cường quan hệ với Đài Bắc thông qua hợp tác sâu rộng
hơn và tăng cường bán vũ khí.
Những
đánh giá mâu thuẫn này khiến Bắc Kinh không chắc chắn về việc liệu Mỹ có bảo vệ
Đài Loan khỏi các cuộc tấn công quy mô lớn hoặc các kịch bản cường độ thấp hơn
hay không. Nhưng các quan chức Trung Quốc tin rằng, nếu không được kiểm soát, Mỹ
có khả năng sẽ tiến gần hơn nữa đến Đài Loan. Điều đó tạo ra một động lực dễ dẫn
đến tính toán sai lầm. Trung Quốc có thể xác định rằng họ cần đối xử với Đài
Loan một cách quyết liệt hơn để làm rõ với đội ngũ an ninh quốc gia của Trump rằng
họ sẽ không dung thứ cho việc quan hệ Mỹ-Đài Loan ngày càng gia tăng cũng như
các động thái mà họ coi là gây hấn của Đài Loan. Trong khi đó, việc Trung Quốc
nhận thấy rằng Trump không hoàn toàn sẵn lòng bảo vệ Đài Loan có thể khiến Bắc
Kinh cân nhắc các hành động leo thang hơn nữa chống lại hòn đảo.
Sửa
chữa sai lầm
Các
nhà hoạch định chính sách của Mỹ và các đồng minh không được bỏ qua những thay
đổi trong nhận thức của Trung Quốc về Đài Loan và các hành động của họ đối với
hòn đảo. Khi nhiệm kỳ của ông Lại tiếp tục, Bắc Kinh và Đài Bắc có khả năng sẽ
bước vào một tình huống nguy hiểm hơn. Các chuyên gia Trung Quốc tin rằng ông Lại
có thể thực hiện các biện pháp quyết liệt hơn để thúc đẩy độc lập của Đài Loan
vào năm 2027 trước thềm cuộc bầu cử tổng thống tiếp theo. Nếu ông Lại không được
lòng cử tri trong các cuộc thăm dò, các nhà phân tích Trung Quốc lo ngại rằng
ông có thể leo thang lập trường chống Bắc Kinh để giành được sự ủng hộ bầu cử,
giống như ông Trần đã làm vào năm 2008. Bản thân Tập Cận Bình đã đặt ra thời hạn
năm 2027 để PLA có khả năng dùng vũ lực chiếm Đài Loan. Với việc ông Tập thúc đẩy
hiện đại hóa PLA, khó có khả năng các lãnh đạo quân sự của ông sẽ nói với ông
vào năm 2027 rằng Trung Quốc không có khả năng thực hiện thành công các hoạt động
quân sự quy mô lớn chống lại Đài Loan, nghĩa là ông Tập có thể cảm thấy tự tin
hơn vào thời điểm đó – và sẵn sàng gây ra một cuộc khủng hoảng hoặc xung đột.
Sự
kiên nhẫn càng suy giảm và ý định cứng rắn hơn của Bắc Kinh càng làm cho việc
chính quyền Trump đảm bảo rằng Trung Quốc hiểu rõ quyết tâm của Mỹ và sự sẵn
sàng của họ trong việc chống lại sự gây hấn của Trung Quốc trở nên quan trọng
hơn. Mỹ phải thực hiện những nỗ lực lớn hơn để ngăn chặn một cuộc xung đột hoặc,
nếu không thành công, để bác bỏ và đánh bại chủ nghĩa mạo hiểm quân sự của
Trung Quốc. Bên cạnh việc xây dựng năng lực quân sự của chính mình – cũng như của
Đài Loan và các đồng minh – và tăng đáng kể chi tiêu quốc phòng của các đồng
minh và đối tác, Washington phải tích hợp tốt hơn các yếu tố khác nhau trong
chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc và Đài Loan để tăng cường răn đe và giảm
thiểu rủi ro hiểu lầm từ các đối thủ tiềm năng.
Điều
này quan trọng bởi vì Bắc Kinh không chỉ đánh giá quyết tâm của Mỹ bằng cách
nhìn vào những gì Mỹ đang làm về quốc phòng. Ví dụ, khi các chuyên gia Trung Quốc
theo dõi các cuộc đàm phán thương mại và thuế quan giữa Mỹ và Trung Quốc, một số
người nhận thấy Washington đã nhanh chóng vừa tăng cường vừa tạm thời rút lui về
thuế quan như thế nào. Điều này cho thấy Trump ban đầu chỉ đang giương oai và
chính quyền hiện tại nhận ra rằng họ cần hợp tác với Trung Quốc, bất chấp việc
họ tập trung vào cạnh tranh.
Khi
Mỹ đang hành động nhanh chóng trên nhiều mặt trận, điều quan trọng là phải chú
ý đến cách Bắc Kinh có thể xâu chuỗi các chính sách khác nhau của Mỹ để xây dựng
một sự hiểu biết lớn hơn về chiến lược và ý định của Mỹ. Nếu Trung Quốc đang hiểu
lầm Mỹ, thì điều cực kỳ quan trọng là chính quyền Trump phải sửa chữa và bác bỏ
những cách giải thích của Trung Quốc, cả công khai lẫn riêng tư.
Nếu
chính quyền Trump không muốn một cuộc khủng hoảng xảy ra, họ không nên để ngỏ
cánh cửa như vậy cho Bắc Kinh. Tình hình eo biển Đài Loan vốn đã đủ bất ổn
trong vài năm tới, vì vậy đừng để những nhận định sai lệch của Trung Quốc về việc
Mỹ sẵn sàng làm gì – hoặc không sẵn sàng làm gì – làm mọi thứ thêm rối ren.
-----------------------------------------------------
BONNY
LIN là
Giám đốc Dự án Sức mạnh Trung Quốc và Cố vấn Cấp cao tại Trung tâm Nghiên cứu
Chiến lược và Quốc tế (CSIS).
JOHN
CULVER là
Nghiên cứu viên Cấp cao Không thường trú tại Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc
John L. Thornton thuộc Brookings. Ông từng là sĩ quan CIA trong 35 năm, bao gồm
cả vị trí Sĩ quan Tình báo Quốc gia về Đông Á từ năm 2015 đến 2018.
BRIAN
HART là
Phó Giám đốc và Nghiên cứu viên của Dự án Sức mạnh Trung Quốc tại Trung tâm
Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS).
Nguồn: Bonny Lin, John Culver, và Brian
Hart, “The Risk of War in the Taiwan Strait
Is High—and Getting Higher”, Foreign
Affairs, 15/05/2025
-------------------------------------
Chiến
tranh Ukraina: Châu Âu vỡ mộng lớn với Donald Trump
Anh Vũ - RFI
Đăng
ngày: 23/05/2025 - 13:48 - Sửa đổi ngày: 23/05/2025 - 16:53
Chiến
tranh Ukraina, chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, châu Âu cùng những
tác động kinh tế và địa chính trị trên thế giới vẫn là những chủ đề thời sự quốc
tế được các báo Pháp ngày 23/05/2025 phản ánh nhiều.
HÌNH
:
Tổng
thống Mỹ Donald Trump (trái) tiếp tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky tại Nhà
Trắng ngày 28/02/2025. © Ben Curtis / AP
Về
chủ đề chiến tranh Ukraina, Le Figaro có bài : « Ukraina: Các nước
châu Âu tỉnh ngộ khi bị Donald Trump đánh lừa ».
Bài
viết phản ánh sự vỡ mộng của châu Âu về vai trò của Donald Trump trong cuộc chiến
Ukraina. Ban đầu, nhiều quốc gia châu Âu kỳ vọng Trump sẽ gây áp lực với
Vladimir Putin để buộc Nga chấp nhận một lệnh ngừng bắn. Tuy nhiên, Trump không
những không ép Kremlin nhượng bộ mà còn tỏ ra do dự trong việc gia tăng trừng
phạt. Những cuộc tiếp xúc giữa Mỹ và Nga chủ yếu giúp Nga kéo dài thời gian và
duy trì quan hệ tích cực với Trump.
Putin
vẫn giữ lập trường cứng rắn, đòi phi quân sự hóa Ukraina, thay đổi chính quyền
Kiev và chấm dứt viện trợ phương Tây. Trong khi đó, Trump dường như hướng đến một
chính sách « bình thường hóa » quan hệ với Nga, với mục
tiêu hợp tác kinh tế và địa chính trị, đặc biệt ở Bắc Cực và các vùng xa xôi của
Nga.
Các
nước châu Âu, dù có những nỗ lực đàm phán, lại thiếu khả năng quân sự sau nhiều
thập kỷ giải giáp vũ trang. Liên minh « tình nguyện » do
Pháp và Anh khởi xướng để hỗ trợ Ukraina bị nghi ngờ về hiệu quả thực tế. Sự phụ
thuộc vào Mỹ vẫn là vấn đề lớn, trong khi Trump không coi cuộc chiến ở Ukraina
là ưu tiên, ông từng tuyên bố: « Đây không phải là cuộc chiến của
tôi ».
Le
Figaro nhận xét, khi đối mặt với sự từ chối thỏa hiệp của Vladimir Putin,
Donald Trump có thể làm như những gì mà ông đã làm trong nhiệm kỳ đầu tiên của
mình với Bắc Triều Tiên: Bỏ qua chuyện đề này.
Trong
khi đó sự liên kết của Nga với các quốc gia chuyên chế và « Nam
bán cầu » (Global South) ngày càng sâu sắc. Trung Quốc, Iran
và các nước vùng Vịnh tiếp tục hỗ trợ Nga, bất chấp nỗ lực của Trump nhằm tách
Trung Quốc khỏi Nga.
Theo
nhiều chuyên gia, chiến tranh đã trở thành « bình thường mới » đối
với Nga. Ukraina chỉ là một bước trong kế hoạch lâu dài của Putin, có thể lan rộng
đến các nước NATO. Châu Âu đang thua về chiến lược vì từng xem sự sụp đổ của
Liên Xô là « hồi kết của lịch sử » .
Tờ
báo dẫn nhận định một chuyên gia về khu vực này : Phương Tây, « đã thua
cuộc chiến vì thiếu tầm nhìn chiến lược, vì họ coi sự kết thúc của Liên Xô là sự
kết thúc của Lịch sử. Để đạt được hòa bình, sẽ không đủ nếu chỉ có một nước Nga
không có Putin ».
Theo
Le Figaro, châu Âu đang đứng trước nguy cơ bị bỏ rơi trong cuộc khủng hoảng
Ukraina, khi không còn có thể dựa vào Mỹ và đối mặt với một nước Nga sẵn sàng
kéo dài chiến tranh. Tương lai an ninh châu Âu sẽ phụ thuộc nhiều vào kết cục
cuộc xung đột này.
Putin
sẽ không nhượng bộ
Cũng
liên quan đến cuộc chiến tranh Ukraina, nhật báo Le Monde có bài phóng sự dài với
tiêu đề : « Putin sẽ không nhượng bộ vấn đề cốt lõi ».
Bài
báo ghi lại quan điểm trái chiều của người dân Matxcơva về cuộc chiến ở Ukraina
và các nỗ lực đàm phán quốc tế gần đây, đặc biệt là giữa Nga và Mỹ dưới thời
Donald Trump.
Bài
phóng sự của Le Monde ghi nhận, tại Matxcơva, người Nga đang ở giữa thái độ
hoài nghi và lạc quan về cuộc chiến ở Ukraina. Các nhân chứng trong bài phóng sự
là những công dân bình thường, họ có thể là những người ủng hộ tổng thống Nga
hay là những người cam chịu đều tỏ tán đồng với lập trường cứng rắn của
Kremlin.
Một
bộ phận tầng lớp trung lưu giàu có và có học ủng hộ mạnh mẽ chiến dịch quân sự
của Nga. Họ tin rằng phương Tây đang cố gắng đóng băng xung đột vì Nga đang chiếm
ưu thế, và cho rằng không thể có hòa bình chừng nào « chế độ phát xít ở
Kiev còn tồn tại. Họ vẫn nghi ngờ đối với Trump và phương
Tây.
Một
số khác được Le Monde phỏng vấn thuộc giới trí thức và có tư tưởng tự do, phản
đối chiến tranh và mong đợi vào khả năng Trump giúp chấm dứt xung đột.
Tóm
lai phóng sự của Le Mond cho thấy, tại Matxcơva, giữa bối cảnh tuyên truyền Nhà
nước và đàn áp tiếng nói đối lập, người dân dao động giữa sự ủng hộ, hoài nghi,
và mong muốn hòa bình, nhưng phần lớn đều không tin rằng Nga sẽ nhượng bộ trong
các đàm phán.
Đối
đầu Mỹ -Trung : Đất hiếm càng hiếm hơn
Trở
lại với nhật báo Le Figaro với chủ đề cuộc chiến tranh thương mại. Trang kinh tế
Le Figaro đề cập đến cuộc cạnh tranh chiến lược gay gắt Mỹ -Trung với bài có tựa
đề : « Đất hiếm – trung tâm cuộc chiến toàn cầu giữa Trump và Tập
Cận Bình ».
Bài
báo tập trung phân tích vai trò chiến lược của các kim loại đất hiếm trong cuộc
đối đầu kinh tế và địa chính trị giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Đất
hiếm đang là yếu tố cốt lõi trong cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc và là
thách thức lớn cho an ninh năng lượng, công nghiệp và quân sự phương Tây. Trung
Quốc giữ ưu thế vượt trội, còn Mỹ và châu Âu vẫn đang loay hoay tìm cách giảm
phụ thuộc, nhưng con đường này khó khăn và kéo dài.
Le
Figaro ghi nhận, một vài năm trước, không ai ngoài các chuyên gia từng
nghe đến « đất hiếm ». « Tuy nhiên, hiện nay những khoáng sản
này lại là nguyên nhân chính gây ra các cuộc chiến tranh kinh tế và thương mại
đang làm xé nát hành tinh này ».
Bằng
chứng về tầm quan trọng của đất hiếm, theo Le Figaro, Donald Trump chỉ giảm bớt
thái độ thù địch đối với Kiev sau khi đạt được thỏa thuận về việc khai thác các
khoáng sản quan trọng ở Ukraina, nơi được cho là nắm giữ 5% trữ lượng đất hiếm
của thế giới. Tổng thống Mỹ cũng không ngần ngại đe dọa sử dụng vũ lực để chiếm
Groenland, hòn đảo Bắc Cực rộng lớn với lòng đất giàu đất hiếm và các kim loại
quan trọng khác.
Đất
hiếm cũng là đòn bẩy được Trung Quốc sử dụng vào ngày 4 tháng 4, hai ngày sau
khi Donald Trump áp đặt mức thuế hải quan cắt cổ. Bắc Kinh đã quyết định hạn chế
xuất khẩu những kim loại thiết yếu nhất này, đồng thời vẫn giữ miếng về
chuyện này khi ký tạm ngừng cuộc chiến thuế quan với Washington hôm
12/05.
Dù không
hiếm trong vỏ trái đất, nhưng việc khai thác và tinh luyện đất hiếm cực kỳ tốn
kém, độc hại và phức tạp. Hoa Kỳ cũng như Châu Âu đã dần từ bỏ việc khai thác
và tinh chế đất hiếm. Vì thế Trung Quốc chiếm lĩnh trận địa này và hiện chiếm
khoảng 60% sản lượng khai thác và 90% năng lực tinh luyện đất hiếm toàn cầu.
Giờ
đây đất hiếm được Trung Quốc sử dụng như một thứ vũ khí kinh tế, đặc biệt
khi Donald Trump tuyên chiến thuế quan với cả thế giới chủ yếu nhắm vào Trung
Quốc. Việc hạn chế xuất khẩu để trả đũa Mỹ trong căng thẳng thương mại, giúp Bắc
Kinh kìm hãm mạnh mẽ sự phát triển công nghệ mới của Mỹ. Hơn thế nữa, là ngăn
chặn sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ.
Le
Figaro cho thấy mức độ lệ thuộc của phương Tây vào đất hiếm Trung Quốc : Mỹ
nhập khẩu hơn 80% đất hiếm từ Trung Quốc. Châu Âu nhập 46%, tăng so với năm trước.
Phương
Tây thức tỉnh muộn. Le Figaro cho biết việc phục hồi chuỗi cung ứng phương Tây
đang diễn ra chậm : Mỹ tái khởi động mỏ Mountain Pass nhưng vẫn phải gửi quặng
sang Trung Quốc để tinh chế. Dự án khai thác mới (Mỹ, Úc, Thụy Điển, Pháp...) vẫn
còn nhỏ lẻ và thiếu hiệu quả ngắn hạn. Dự án quốc tế như Quad Critical Minerals
(Mỹ, Nhật, Ấn, Úc), robot tái chế của Apple, sáng chế của nhà khoa học Marie
Perrin, và các chính sách hỗ trợ công nghiệp ở Liên Âu... là các bước đi nhằm
giảm phụ thuộc. Tuy nhiên, theo giới chuyên gia, việc xây dựng lại chuỗi cung ứng
riêng sẽ mất nhiều năm và tốn kém. Trung Quốc vẫn có thể gây bất ổn thị trường
toàn cầu bằng cách thao túng giá và cung ứng.
Chính
sách bảo hộ của Trump : Kinh tế châu Âu thấm mệt
Vẫn
trong lĩnh vực kinh tế. Nhật báo Les Echos quan tâm đến những tác động đối với
châu Âu từ chính sách bảo hộ và biệt lập của Donald Trump với bài viết : «
Hiệu ứng Trump bắt đầu được cảm nhận thấy trong hoạt động kinh tế châu
Âu ». Bài báo cho thấy chính sách bảo hộ thương mại của Trump
đang gây tổn thương dần đến kinh tế châu Âu, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ và
xuất khẩu. Tuy chưa phải là một cú sốc lớn, nhưng tác động sẽ rõ rệt hơn trong
những tháng tới, đặc biệt nếu Mỹ tiếp tục chính sách bảo hộ hiện nay.
Tờ
báo nhận xét : Không phải là một cú hãm mạnh, nhưng nền kinh tế châu Âu
đang dần chậm lại. Chỉ số S&P Global PMI thực hiện cho thấy đối với các
công ty ở Lục địa già vào tháng 5. Chủ nghĩa bảo hộ của Donald Trump đang bắt đầu
ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế châu Âu. Những bất ổn trong chính sách của tổng
thống Hoa Kỳ đã tạo ra tâm lý lo ngại và chần chừ trong giới doanh nghiệp.
Chỉ số PMI (đo mức độ hoạt động của ngành sản xuất và dịch vụ rong nền kinh tế)
của khu vực đồng euro đã giảm từ 50,4 điểm vào tháng 4 xuống còn 49,5 điểm
trong tháng này.
Les
Echos trích dẫn phân tích của giới chuyên gia dự báo châu Âu sẽ mất khoảng 37 tỷ
euro xuất khẩu do chính sách bảo hộ của Mỹ. GDP có thể giảm khoảng 0,3%. Kỳ vọng
tăng trưởng châu Âu năm 2025 là 1%, chủ yếu nhờ các nước miền Nam như Tây Ban
Nha. Kinh tế Đức tiếp tục đình trệ năm thứ ba liên tiếp, chỉ có thể phục hồi nếu
triển khai các biện pháp kích thích tài chính mạnh từ năm sau. Việc Trump tạm
hoãn áp thêm thuế đến tháng 7 tạo ra kỳ vọng ngắn hạn, nhưng tình hình còn bấp
bênh. Nếu Mỹ không gia hạn đình chỉ thuế, châu Âu có thể hứng chịu tác động lớn
hơn nữa. Tuy nhiên Les Echos cũng cho biết, các chuyên gia dự đoán Trump có thể
rút lại một số chính sách nếu kinh tế Mỹ gặp khó khăn nghiêm trọng.
Khi
trí tuệ nhân tạo tràn vào điện ảnh
Chuyển
qua lĩnh vực văn hóa. Liên hoan quốc tế điện ảnh Festival Cannes 2025 đang chuẩn
bị bế mạc. Nhật báo Kinh tế Les Echos có bài : Kịch bản, quay phim, hậu
kỳ…. khi Trí tuệ nhân tạo (AI) làm đảo lộn quy trình sản xuất phim .
Bài
viết phân tích cách trí tuệ nhân tạo (AI) đang giúp làm một cuộc cách mạng
trong điện ảnh liên quan đến toàn bộ quy trình sản xuất phim, từ kịch bản đến hậu
kỳ và phân phối. Công cụ đã sẵn có từ ChatGPT,
Midjourney hay Face Engine nhưng vẫn còn nhiều thách thức pháp lý và nghệ thuật khiến
ngành điện ảnh thận trọng trong việc áp dụng rộng rãi.
Tại
Festival Cannes 2025, chủ để này cũng đang cuốn hút đông thời cũng gây lo ngại
cho những người hâm mộ môn nghệ thuật thứ 7.
Bài
viết liệt kê các khâu trong quy trình sản xuất phim có thể tận dụng tiềm năng của
AI.
Khâu kịch
bản : AI
như ChatGPT, Jasper.ai hỗ trợ biên kịch phát triển ý tưởng và cấu trúc cốt truyện.
Một số công cụ như Cinelytic còn giúp đánh giá tiềm năng thành công của kịch bản.
Khâu tiền
kỳ : AI
hình sử dung các cảnh phim qua mô tả văn bản (Midjourney, Stable Diffusion).
Các studio dùng AI để thiết kế bối cảnh, kiểm tra tính khả thi và tối ưu hóa kế
hoạch quay.
Quay phim : AI tích hợp trong
máy quay giúp tự động điều chỉnh thông số kỹ thuật. Trong lĩnh vực hoạt hình,
AI giúp tiết kiệm chi phí lớn nhờ khả năng tự động hóa cao.
Hậu kỳ :AI hỗ trợ biên tập,
đồng bộ lời thoại, chỉnh sửa hình ảnh, cải thiện âm thanh. Công nghệ như Face
Engine cho phép biến đổi gương mặt, giúp nâng cao chất lượng hiệu ứng đặc biệt
mà không tăng chi phí. AI cũng giúp dịch và lồng tiếng phim dễ dàng hơn.
Phát hành
phim :
AI có thể tự động tạo trailer, điều chỉnh nội dung quảng bá cho từng mạng xã hội
và cá nhân hóa đề xuất phim trên nền tảng streaming để tăng tương tác người
xem.
Quản lý
kho phim:
AI giúp phục hồi và tái phát hành phim cổ, đồng thời tự động hóa việc lập chỉ mục
phim để nâng cao khả năng tìm kiếm và doanh thu từ các nền tảng số.
Thể
thao : Roland -Garros 2025 và những con số
Nhật
báo kinh tế dành trang sự kiện cho giải quần vợt quốc tế Roland-Garros, khai cuộc
vào ngày Chủ nhật này. Les Echos cho hay, Rafael
Nadal, mới
giải nghệ, sẽ trở lại Roland-Garros 2025 để có buổi lễ vinh danh hoành tráng
vào ngày 25 tháng 5, sau giải đấu cuối cùng đầy thất vọng của anh năm 2024. Những
nhân vật tiêu biểu khác của quần vợt Pháp cũng sẽ được vinh danh : Mary Pierce, 25 năm sau danh hiệu
của cô, vào ngày 5 tháng 6, và Richard
Gasquet,
trong giải đấu cuối cùng của anh.
Về
giải đấu năm nay, tờ báo cho biết : Tuần lễ vòng loại ngày càng thu hút
khán giả, với 75.000 vé bán ra năm 2024, dự kiến tăng lên 90.000 trong năm
nay. Ban tổ chức cũng mở rộng độ phủ sóng quốc tế, đặc biệt tại Mỹ, nhờ hợp
tác với Warner Bros Discovery (TNT Sports), giúp khán giả Mỹ xem được toàn bộ
các trận đấu – thay vì chỉ cuối tuần như trước với NBC.
Mặc
dù không đông đảo, khán giả Mỹ lại đóng góp doanh thu lớn thông qua mua sắm và
các gói VIP (bao gồm vé, ăn uống, chỗ ở…). Doanh thu Roland-Garros năm 2024 đạt
346 triệu euro, chủ yếu từ bản quyền truyền hình (35%), gói VIP (hơn 20%), bán
vé thường và tài trợ.
Về
chi phí, tổng tiền thưởng cho các tay vợt năm nay tăng 5,2% lên 56,3 triệu
euro. Người vô địch đơn nam và nữ sẽ nhận 2,55 triệu euro, còn người bị loại
ngay vòng loại đầu tiên cũng nhận 21.000 euro.
----------------------------------------------
Tổng thống Nga thông báo thiết lập một vùng đệm ở biên giới
Ukraina
Thanh Phương - RFI
Đăng
ngày: 23/05/2025 - 11:04 - Sửa đổi ngày: 23/05/2025 - 11:38
Tổng thống
Nga Vladimir Putin hôm qua, 22/05/2025, thông báo quyết định thiết lập « một
vùng đệm an ninh » dọc theo biên giới với Ukraina và cho biết quân đội Nga
hiện đang thực hiện nhiệm vụ này.
HÌNH
:
TT
Nga, Vladimir Putin tại Matxcơva sau cuộc điện đàm với TT Mỹ, Donald Trump hôm
19/05/2025. AP - Vyacheslav Prokofyev
Theo
hãng tin AFP, ông Putin đưa ra thông báo nói trên khi mở đầu cuộc họp hội đồng
bộ trưởng Nga ngay sau khi trở về từ « một chuyến đi làm việc ở vùng Kursk ».
Trước
đây, chủ nhân Điện Kremlin đã nhiều lần nêu lên khả năng thiết lập vùng đệm ở
biên giới Ukraina và nay bắt đầu cho thực hiện dự án này. Tuy nhiên, ông Putin
không cho biết chi tiết về « công trình phục hồi và tái thiết những gì đã bị
phá hủy » tại ba khu vực biên giới Kursk, Belgorod và Briansk. Hiện giờ, địa điểm,
diện tích của vùng đệm, cũng như thời điểm thiết lập chưa được xác định.
Thông
báo về thiết lập vùng đệm ở biên giới Ukraina được đưa ra vào lúc đàm phán giữa
Kiev và Matxcơva nhằm chấm dứt chiến tranh vẫn gặp bế tắc. Điện Kremlin hôm
22/05/2025 cho biết là hai bên chưa đạt được thỏa thuận về việc tổ chức vòng
đàm phán thứ hai, mà theo báo chí Mỹ, có thể sẽ được tổ chức ở Vatican. Vào đầu
tuần này, tổng thống Volodymyr Zelensky đã cáo buộc Nga cố tình kéo dài thời
gian đàm phán về ngừng bắn để có thể tiếp tục cuộc chiến xâm lược Ukraina. Hôm
Thứ Tư 21/005/2025 phát ngôn viên Điện Kremlin đã bác bỏ cáo buộc đó.
Trên
mạng xã hội X, ngoại trưởng Ukraina Andrii Sybiha, đã bày tỏ sự phẫn nộ về quyết
định của Putin thiết lập vùng đệm ở biên giới Ukraina, cho rằng quyết định này
« rõ ràng đi ngược lại các nỗ lực vãn hồi hòa bình và cho thấy Putin đã và vẫn
là lý do duy nhất khiến cho cuộc giết chóc tiếp diễn ».
Họp
tại Canada, các bộ trưởng Tài Chính của nhóm G7 hôm 22/05/2025 tuyên bố muốn «
gây áp lực tối đa » với Nga, đặc biệt là qua việc tăng cường các trừng phạt, nếu
Matxcơva vẫn không chấp nhận ngừng bắn. Các bộ trưởng G7 còn quyết định rằng những
nước nào « đã tài trợ hoặc cung cấp cho cỗ máy chiến tranh của Nga » đều sẽ
không được tham gia vào công cuộc « tái thiết Ukraina » sau này.
Giao
thông hàng không ở Matxcơva bị gián đoạn do drone Ukraina tấn công
Quân
đội Ukraina, hôm qua 22/05, đã phóng hàng loạt drone nhắm vào Matxcơva, khiến
giao thông hàng không ở thủ đô Nga bị gián đoạn nghiêm trọng. Bộ Quốc Phòng Nga
cho biết các hệ thống phòng không đã bắn hạ và ngăn chặn tổng cộng 105 drone của
Ukraina, trong đó có 35 chiếc nhắm trực tiếp vào Matxcơva.
Thị
trưởng Matxcơva Sergei Sobyanin, được AFP trích dẫn, thông báo trên Telegram rằng
lực lượng cứu hộ đã có mặt tại những khu vực mà mảnh vỡ drone rơi xuống. Buổi tối
cùng ngày, ông cho biết thêm là 11 drone khác cũng đã bị đánh chặn khi đang bay
về hướng thủ đô. Sáng nay 23/05, Nga tiếp tục đánh chặn 112 drone của Ukraina,
với 24 chiếc bay về phía Matxcơva
Những
cuộc tấn công bằng drone của Ukraina đã khiến cơ quan hàng không Nga
Rosaviatsiya ra lệnh tạm ngưng các chuyến bay tại nhiều sân bay chính ở
Matxcơva bao gồm Sheremetyevo, Vnukovo, Domodedovo và Zhukovsky.
Về
phần mình, không quân Ukraina cho biết Nga đã phóng 128 drone tấn công Ukraina
trong ngày 22/05 và đã bắn hạ 112 chiếc.
Từ
khi Nga phát động chiến dịch quân sự tại Ukraina cách đây hơn 3 năm, hai bên gần
như sử dụng drone tấn công qua lại hàng ngày. Tuy nhiên, những vụ tấn công nhắm
trực tiếp vào Matxcơva vẫn còn hiếm hoi.
«
Đức và các đồng minh kiên quyết bảo vệ từng tấc đất lãnh thổ NATO »
Thủ
tướng Đức Friedrich Merz trong chuyến thăm Vilnius, thủ đô Litva, hôm qua,
22/05/2025, khẳng định « bảo vệ Vilnius cũng là bảo vệ Berlin ». Theo thủ tướng
Đức, « bất cứ thế lực nào thách thức NATO, cần phải hiểu rằng chúng ta sẵn
sàng. Bất cứ thế lực nào đe dọa một đồng minh NATO, cần hiểu rằng NATO sẽ cùng
nhau bảo vệ từng tấc đất lãnh thổ của Liên minh Bắc Đại Tây Dương ».
Hãng
tin Reuters cho biết chuyến đi của thủ tướng Đức diễn ra trong bối cảnh các
lãnh đạo NATO sẽ họp trong hai ngày 24 và 25/06, để xác định các mục tiêu mới
liên quan đến việc tăng gấp bội đầu tư cho quốc phòng của châu Âu, trong bối cảnh
chính quyền Mỹ muốn giảm bớt đầu tư cho việc phòng thủ châu Âu.
--------------------------------------------
Chiến
tranh Ukraina : Trừng phạt của Châu Âu chưa đủ mạnh để chặn đứng cỗ máy chiến
tranh Nga
Thanh
Phương - RFI
Đăng
ngày: 23/05/2025 - 13:58
Các đồng
minh châu Âu của Ukraina đang đe dọa sẽ thi hành "những lệnh trừng phạt
to lớn" đối với Nga nếu nước này vẫn tiếp tục từ chối ngừng bắn. Nhưng
thực sự các trừng phạt đó có tác dụng gì đối với Matxcơva?
HÌNH
:
Lãnh
đạo Ngoại Giao Liên Âu tại cuộc họp về Quốc Phòng của toàn khối. Ảnh tại
Bruxelles, ngày 20/05/2025. AP - Virginia Mayo
Các
trừng phạt đã ban hành
Kể
từ khi tổng thống Vladimir Putin phát động cuộc chiến tranh xâm lược Ukraina
vào ngày 24/02/2022, Liên Hiệp Châu Âu đã ban hành tổng cộng 17 "gói" trừng
phạt đối với Nga. Khoảng 2.400 tổ chức và cá nhân đã bị trừng phạt, bao gồm cả
tổng thống Putin. Tuy nhiên, những trừng phạt đó vẫn không ngăn chặn được cỗ
máy chiến tranh của Điện Kremlin.
Gói
trừng phạt mới nhất, được thông qua ngày 20/05/2025, chủ yếu nhắm vào đội tàu
"ma" mà Nga sử dụng để lách các lệnh trừng phạt đối với hoạt động
sản xuất và xuất khẩu dầu thô của Nga. Cùng lúc đó, Anh Quốc cũng công bố một
loạt trừng phạt nhắm vào 18 tàu trong "hạm đội ma" này. Khoảng 342
tàu "ma" hiện đang nằm trong tầm ngắm của Liên Âu. Nhưng theo ước
tính của bộ trưởng Quốc Phòng Estonia Hanno Pevkur, tổng số tàu "ma" của
Nga là khoảng 500 chiếc, tức là vẫn còn hơn 150 chiếc "ngoài vùng phủ
sóng". Thế mà hơn 60% lượng dầu thô xuất khẩu của Nga chính là được vận
chuyển bằng đội tàu "ma" này.
Các
trừng phạt đang được chuẩn bị
Một
gói trừng phạt thứ 18 đang được chuẩn bị nhằm mục đích thắt chặt việc kiểm soát
đội tàu "ma" của Nga. Liên Âu cũng đang tìm cách phòng chống
tốt hơn những hành động lách lệnh trừng phạt và mỗi gói trừng phạt mới lại xác
định thêm những thực thể hoặc cá nhân đang giúp Nga củng cố cỗ máy chiến tranh
của mình. Các biện pháp trừng phạt bổ sung đối với ngành tài chính Nga cũng
đang được xem xét.
Tuy
nhiên, khả năng trừng phạt của Liên Âu lại tùy thuộc vào thiện chí của Hungary,
quốc gia thân Nga nhất ở châu Âu. Cho đến nay, Hungary vẫn bật đèn xanh cho mỗi
gói trừng phạt mới, nhưng các nhà ngoại giao ở Bruxelles lo ngại về khả năng thủ
tướng Viktor Orban sẽ đổi ý, trong khi mỗi lệnh trừng phạt mới đều phải có sự
nhất trí của 27 quốc gia thành viên Liên Âu.
Trừng
phạt nào sẽ hiệu quả nhất?
Nguồn
tài chính phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược Ukraina chủ yếu là từ việc bán
dầu khí, mang lại hơn 600 triệu euro mỗi ngày, theo ước tính mới nhất vào tháng
4 của CREA, một viện chuyên về các vấn đề năng lượng của Phần Lan.
Torbjörn
Becker, giám đốc Viện Kinh tế Chuyển đổi Stockholm (SITE), chuyên theo dõi nền
kinh tế Nga, cho biết tại Bruxelles tuần trước: "Từ 60 đến 90% tăng trưởng
kinh tế của Nga phụ thuộc vào những diễn biến trên thị trường dầu hỏa quốc tế".
Tuy đã ban
hành các lệnh trừng phạt, Liên Âu vẫn là khách hàng chính của khí đốt Nga, đứng
đầu là Pháp.
Vốn đã chặn hoàn toàn xuất khẩu dầu mỏ của Nga vào Liên Âu, 27 nước thành viên
của khối này đã đề ra mục tiêu từ đây đến năm 2027 sẽ chấm dứt mua khí đốt của
Nga. Trong thời gian từ đây đến đó, các nước châu Âu tìm cách tác động vào
doanh thu của Nga từ dầu mỏ bằng cách áp dụng mức giá tối đa là 60 đô la/thùng.
Theo số liệu chính thức, kể từ khi Liên Âu áp dụng mức giới hạn đó và lệnh trừng
phạt đối với đội tàu "ma", doanh thu từ dầu mỏ của Nga đã giảm
38 tỷ euro. Nhưng ngưỡng 60 đô la này hiện là mức giá trung bình trên thị trường
quốc tế, cho nên biện pháp này không còn hiệu quả như trước. Tại Bruxelles vào
đầu tuần này, Ngoại trưởng Ukraina Andrii Sybiga cho rằng mức giá "hợp
lý" sẽ là 30 đô la/thùng. Lãnh đạo ngành ngoại giao của Liên Hiệp Châu
Âu Kaja Kallas cũng xác nhận rằng việc giảm ngưỡng giá dầu "sẽ có tác động
rõ rệt đến nền kinh tế Nga". Nhưng quyết định như vậy tùy thuộc vào
nhóm bảy nước công nghiệp phát triển nhất, tức nhóm G7, mà trong khối này thì
không chắc Hoa Kỳ sẽ ủng hộ.
Hoa
Kỳ có sẵn sàng?
Các
nhà lãnh đạo châu Âu gần đây khẳng định họ đang phối hợp với Hoa Kỳ để tăng cường
sức ép lên Nga. Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky hôm 21/05/2025 cũng nhấn
mạnh là "mọi quyết định phải được phối hợp ( với Mỹ ) thì các lệnh trừng
phạt mới có hiệu quả". Trong Quốc Hội Mỹ, hơn 80 thượng nghị sĩ Mỹ ủng
hộ một dự luật ban hành những trừng phạt mới nhắm vào Nga. Các nghị sĩ này, thuộc
cả hai phe Cộng Hòa và Dân Chủ, muốn gia tăng áp lực với tổng thống Vladimir
Putin sau khi cuộc điện đàm giữa ông với tổng thống Donald Trump hôm thứ Hai
(19/05) đã không đạt được một thỏa thuận ngừng bắn như hy vọng của Ukraina và
các đối tác châu Âu.
Dự
luật trừng phạt Nga bao gồm mức thuế 500% đối với dầu nhập khẩu từ Nga và mức
thuế 500% đối với hàng nhập từ các quốc gia hiện vẫn tiếp tục nhập khẩu dầu khí
từ Nga. Nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy tổng thống Donald Trump sẵn sàng
thi hành biện pháp đó.
*****
No comments:
Post a Comment