19/05/2023
https://www.tuthuc-paris-blog.com/post/t%C3%B4-thu%E1%BB%B3-y%C3%AAn-kinh-kh%E1%BB%95
Tô Thuỳ Yên ra đi ngày 21/5/2019.
Những lúc lạc lõng, không biết mình đang ở đâu, đi đâu, nhiều người
quay về với thơ phú, với thi sĩ. Nhất là một thi sĩ, ngoài cái ngổn ngang tâm sự
riệng, còn chia cái đau chung của đồng bào. Một thi sĩ chứng nhân của một cơn
ác mộng, một thời đại khủng khiếp, một thi sĩ mang cái đau của mình để nói lên
cái đau chung của cả một dân tộc. Dùng ngôn ngữ rất riêng tư, cái nhìn rất
riêng tư, để nói thay những người đau, nhưng không biết diễn tả cái đau của
mình.
Có người nói sách để đọc một vài lần, thơ để đọc cả đời, càng đọc càng
thấm, mỗi lần đọc tìm thấy một cảm giác lạ, một xúc động mới. Nhất là khi thơ
đã đạt, như thơ Tô Thuỳ Yên (TTY). Thơ TTY không phải để “ru với gió, mơ
theo trăng và thơ thẩn cùng mây” như Xuân Diệu.
Thơ TTY là chứng nhân của một cuộc bể dâu, là một lời xưng tội, một tụng
niệm giải oan cho những trầm luân của một kiếp đoạ đầy. Một kinh khổ.
Đúng là kinh khổ, bởi vì thơ TTY rất gần với tư tưởng nhà Phật, thấy đời
là bể khổ, nhưng rất zen, rất thiền, không một chút oán thù.
Đọc “Ta Về”, bài thơ dài TTY viết về ngày ra khỏi trại cải
tạo, (chút rượu hồng đây xin rót xuống/ Giải oan cho cuộc bể dâu này), tưởng
như nghe Văn tế Thập Loại Chúng Sinh của Nguyễn Du:
“Thương
thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn
phách chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa
đã không nơi nương tựa
Hồn mồ
côi lần lữa bấy niên” – (Nguyễn Du)
Nếu tình yêu dễ diễn tả qua thơ hơn là văn vần, hơn là diễn văn, cái
đau thương uất nghẹn cũng vậy. Phải bao nhiêu trang mới nói đuợc tất cả cái đau
đớn trong 2 câu thơ Tô Thuỳ Yên, diễn tả cuộc chạy giặc:
“Xứ khổ,
gây chi mùa thảm khốc
Hỡi ơi
trời đã bỏ rơi dân”
Hay tia hy vọng le lói trong bể khổ:
“Xin
cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới
vui vì những chuyện lẻ loi”
Đọc TTY, nhiều khi nghĩ tới thơ Quang Dũng, cái hình ảnh ghê rợn về chiến
tranh trong thơ Quang Dũng:
“Mẹ già
tôi em có gặp đâu không
Những
xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ
một thằng con bé nhỏ
Bao
nhiêu rồi xác trẻ trôi sông”
(Mắt Người Sơn Tây – Quang Dũng)
Quang Dũng mơ ước: “Bao giờ tôi gặp em lần nữa/ Chắc đã thanh bình rộn
tiếng ca/ Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ/ Em có bao giờ em nhớ ta?” TTY
thề nguyền, cam kết: “Ta về dẫu phải đi chân đất/ Khắp thế gian này để gặp
em”.
Người Việt làm thơ rất nhiều, nhưng thi sĩ, rất hiếm. Thi sĩ một mình một
chiếu như Tô Thuỳ Yên còn hiếm hơn nữa.
Thanh Tâm Tuyền nói TTY là một nhà thơ miền Nam. Vừa đúng vừa sai.
Đúng, bởi vì thơ TTY không hề có căm thù, kêu gào chém giết như thơ miền Bắc
“xã hội chủ nghĩa”. Đúng là tâm hồn của một miền Nam hiền hoà, độ lượng, của một
xã hội nhân bản, trong đó tình người là cái đáng quý trọng nhất.
TTY là sĩ quan tâm lý chiến của VNCH, nhưng không hề nhìn người khác là
ta, là địch, chỉ thấy một dân tộc đoạ đầy.
“Mối
sầu như nước sông
Chẩy
hoài mà không cạn….
Giữ làm
gì đau thương
Đã
đôi lần nhầm lẫn”
(
Đêm qua bắc Vàm cống)
Sai, bởi vì mặc dù sinh ra ở miền Nam (Gò Vấp, Tân Định), ngôn ngữ TTY
không phải là ngôn ngữ dễ dãi và dễ thương của miệt vườn, nhưng là ngôn ngữ rất
cầu kỳ của một nhà thơ miền Bắc, đài các của một nhà thơ Huế.
Về ngôn ngữ, thơ TTY chững chạc, cổ điển như thơ Đường, nhưng mới lạ,
táo bạo hơn thơ mới. Đạo mạo như một người đứng tuổi, một ông đồ già, từng trải,
ngồi nhâm nhi bên tách trà, ngẫm nghĩ về nhân tình thế thái, về cuộc đời dâu biển:
“Ta ngẩn
ngơ trông trời đất cũ
Nghe
tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có thế.
Trời câm đất nín
Đời im
lìm đóng váng xanh xao”
Nhưng trẻ, mạnh, vũ bão như thanh niên vào đời, muốn yêu, muốn thương,
muốn nhớ. Muốn sống:
“Ta về dẫu
phải đi chân đất
Khắp thế gian
này để gặp em”
Những yếu tố chính của thơ là từ ngữ, hình ảnh, âm điệu, và tư tưởng.
Thơ TTY có đủ:
“Bao giờ,
cho đến bao giờ nữa.
Em gánh
vui về họp chợ đông”
Trong các yếu tố đó, quan trọng hàng đầu là từ ngữ. Thi sĩ Pháp
Mallarmé dứt khoát hơn nữa: “Không phải với ý tưởng người ta làm thơ,
nhưng với từ ngữ” (Ce n’est pas avec des idées qu’on fait des vers;
c’est avec des mots).
TTY cũng nghĩ như vậy, và cực kỳ trân trọng với từ ngữ. Ông nói, trong
một cuộc phỏng vấn dành cho Nguyễn An Dân: “Tôi rất dễ bị ray rứt,
dằn vặt, chỉ vì một tứ chưa ổn, một chữ chưa đắc”.
Và giải thích: “Thơ biến cái thật thành cái không thật. Bất cứ nhà
thơ nào cũng sử dụng và đồng thời chối nhận ngôn ngữ. Sự mới mẻ độc
đáo trong thơ, trái với các bộ môn khác trong văn chương không nằm trong đề tài
(đề tài trong thơ thường khi rất thông thường và được coi như hằng cửu. Thi
sĩ nhìn thấy cái đẹp ở những cái tầm thường)”.
Từ ngữ TTY đài các nhưng gần gũi, sáng tạo cực kỳ nhưng tưởng như dễ
dãi. Vừa lạ, vừa thực. Vừa xa vừa gần gũi. Chuyện đó không phải dễ. Có người
dùng chữ lạ, câu lạ, nhưng không thực, chỉ lộ cái lập dị, giả tạo. Có người rất
thực, nhưng nhàm, nếu không thô tục, bởi vì cái thực trong nghệ thuật, nó khác
với sự thực ngoài đời.
Về tư tưởng, thơ TTY đau xót, bi quan nhưng bao dung; đứng ngoài, đứng
trên cái thù hận, để thấy cái bát ngát của đất trời, cái giới hạn của kiếp người.
Muốn nói được phần nào cái đau thương, uất hận, cái mệt mỏi, cái chịu đựng
vô hạn, cái sức sống lạ kỳ trong đại hoạ của dân tộc Việt, phải có những nhà
văn dài hơi, với tầm vóc Tolstoi, Pasternak mà chúng ta chưa có. Hay một thi sĩ
như tác giả “Ta về”.
“Ta về như
bóng ma hờn tủi
Lục lại
thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt
mà thương từng phế liệu
Như từng
hài cốt sắp vô danh”
Nằm tù cải tạo ra, gia đình chia ly, cuộc đời tan nát, nhà cửa quê
hương tang thương, nhưng cái ghê rợn nhất đối với thi sĩ là một xã hội không còn
nhân phẩm, đánh mất lương tri. Ông viết: “Chiến tranh, nhất là chiến
tranh uỷ nhiệm, huynh đệ tương tàn, bao giờ lại chẳng gây
thương tổn nặng nề cho nhân phẩm”.
Đôi khi tôi hoài nghi khả năng của văn chương Việt Nam trong việc diễn
tả cái kinh hoàng cùng tận của một cuộc đổi đời, nhưng hoàn toàn tin là thơ Việt
Nam có đủ khả năng đó. TTY là một bằng chứng.
Nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: Văn chương chỉ có ở một vài nước, nhưng
thơ thì cùng khắp. Jorge Luis Borgnes không nói gì khác: Trong mọi trường
hợp, thơ đến trước văn vần, hình như người ta hát (hay khóc) trước khi biết nói
( Dans tous les cas, la poésie est antérieure à la pose, on dirait que l’homme
chante avant de parler).
Tháng 5-1019, TTY ra đi, bỏ dở thiên trường ca về nỗi đoạn trường của một
dân tộc. “Ta tiếc đời ta sao hữu hạn/ Đành không trải hết được lời ta”.
Thơ cũng không trải hết được lòng ta, thôi đành tiền miên trong cô quạnh:
“Ta hỏi
hiu quạnh hề, Hiu quạnh lớn
Mà sao
Hiu quạnh lớn cứ làm ngơ”
Sáng dậy, nghe tin TTY “đi xa”, cứ muốn tin là một fake news, một chuyện
không có thực:
“Đi xa
như lạc trong trời đất
Thủy tận,
sơn cùng xí xoá ta
Cõi chiều
đứng lại, khóc như liễu
Có thật
là ta đã đi xa?” (Đi xa)
Sơn cùng, thủy tận xí xóa người, nhưng sẽ bó tay, làm sao xóa được “Ta
Về”, “Chiều trên Phá Tam Giang”. Làm sao xoá được Tô Thuỳ
Yên?
Edgar Allen Poe nói: Nếu thơ chưa xé nát tâm hồn của bạn, bạn chưa biết
thơ là gì (If a poem hasn’t ripped apart your soul, you haven’t experienced
poetry). Với TTY, nhiều người đã biết thơ là gì.
Paris, Tháng Năm 2023
Từ Thức
TA VỀ
Tô
Thùy Yên
Ta về một
bóng trên đường lớn
Thơ chẳng
ai đề vạt áo phai
Sao bỗng
nghe đau mềm phế phủ
Mười
năm đá cũng ngậm ngùi thay
Vĩnh biệt
ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng
thiêng im tiếng nghìn thu
Mười
năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa
thân thành vượn cổ sơ
Ta về
qua những truông cùng phá
Nếp
trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn
ngơ trông trời đất cũ
Nghe
tàn cát bụi tháng năm bay
Chỉ có
thế. Trời câm đất nín
Đời im
lìm đóng váng xanh xao
Mười
năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc
màu đi, đất bạc màu
Ta về
như bóng chim qua trễ
Cho vội
vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng
trông vời mây nước đó
Ngàn
năm râu tóc bạc phơ phơ
Một đời
được mấy điều mong ước
Núi lở
sông bồi đã mấy khi
Lịch sử
ngơi đi nhiều tiếng động
Mười
năm, cổ lục đã ai ghi
Ta về
cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng
từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn
hoa đã vì ta nở
Thế giới
vui từ nỗi lẻ loi
Tưởng
tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta
ngựa đá đã qua sông
Người
đi như cá theo con nước
Trống
ngũ liên nôn nả gióng mừng
Ta về
như lá rơi về cội
Bếp lửa
nhân quần ấm tối nay
Chút rượu
hồng đây xin rưới xuống
Giải
oan cho cuộc biển dâu này
Ta khóc
tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm
như đá dưới chân ta
Mười
năm chớp bể mưa nguồn đó
Người
thức mong buồn tận cõi xa
Ta về
như hạt sương trên cỏ
Kết tụ
sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng
cũng thì sinh, dị, diệt
Tội
tình chi lắm nữa người ơi
Quán dốc
hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười
năm người tỏ mặt nhau đây
Nước
non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống
lưng thôi bát nước mời
Ta về
như sợi tơ trời trắng
Chấp chới
trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi
ai đi ngoài cõi vắng
Dừng
chân nghe quặn thắt tâm can
Lời thề
buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc
tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ
người xa ngoài nỗi nhớ
Mười
năm ta vẫn cứ là ta
Ta về
như tứ thơ xiêu tán
Trong
cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ
mừng còn nguyên mái, vách
Nhện
giăng, khói ám, mối xông nền
Mọi thứ
không còn ngăn nắp cũ
Nhà
thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu
nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách
cũ không còn, khách mới thưa
Ta về
khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy
đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể
lại mười năm chuyện cũ
Một lần
kể lại để rồi thôi
Chiều
nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi
từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi,
hoa tầm xuân có nở?
Mười
năm, cây có nhớ người xa?
Ta về
như đứa con phung phá
Khánh
kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười
năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ
cha đèn sắp cạn dầu
Con gẫm
lại đời con thất bát
Hứa
trăm điều một chẳng làm nên
Đời
qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ
sương thầm khóc biến thiên
Ta về
như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác
lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu
ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh
như biển vẫn chờ song
Ta gọi
thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng
giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe
như máu ân tình chảy
Tự kiếp
xưa nào tưởng lạc nhau
Ta về dẫu
phải đi chân đất
Khắp thế
gian này để gặp em
Đau khổ
riêng gì nơi gió cát
Thềm
nhà bụi chuối thức thâu đêm
Cây bưởi
xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm
chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình
xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn,
khua từng nỗi xót xa
Ta về
như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ
đi tìm một tối vui
Trăng
sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời
nỗi nhớ sáng khôn nguôi
Bé ơi,
này những vui buồn cũ
Hãy sống,
đương đầu với lãng quên
Con dế
vẫn là con dế ấy
Hát
rong bờ cỏ giọng thân quen
Ta về
như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu
mười năm luống nhạt mờ
Thân
thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời
nghe trống trải hơn xưa
Người
chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn
ai nữa đứng bờ ao
Khóc
người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc
ôi ngày một một hao
Ta về
như bóng ma hờn tủi
Lục lại
thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt
mà thương từng phế liệu
Như từng
hài cốt sắp vô danh
Ngồi
đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại
bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó
trong hồn ta thổn thức
Vầng
trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Ta về
như hạc vàng thương nhớ
Một thủa
trần gian bay lướt qua
Ta tiếc
đời ta sao hữu hạn
Đành
không trải hết được lòng ta
No comments:
Post a Comment