Monday, 22 May 2023

MẤY TRẢI NGHIỆM RIÊNG VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG (CSVN) TRONG VĂN HOÁ VĂN NGHỆ (Bùi Minh Quốc)

 



MẤY TRẢI NGHIỆM RIÊNG VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG (CSVN) TRONG VĂN HOÁ VĂN NGHỆ     

Bùi Minh Quốc

21-5-2023  16:12   

https://www.facebook.com/quoc.buiminh.568/posts/pfbid02GTLGKkXUjwpo1jCAJgD954GQM3o4dk96EMMdLrVUcMSjbBYir6fbetksarvaD4cvl

 

(Đưa lên đây với mong muốn góp phần gợi ý để các nhà nghiên cứu và những ai quan tâm tham chiếu và đào sâu)

 

Là nhà văn đảng viên, tôi luôn nghiêm túc gương mẫu chấp hành đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng, không những thế còn phải thuyết phục các nhà văn ngoài Đảng cùng làm theo. Văn nghệ phục vụ chính trị, đó là nguyên tắc bắt buộc, ai cũng phải thấm nhuần. không bàn cãi, cấm bàn cãi. Không có sự lãnh đạo của Đảng, văn hoá văn nghệ không thể phát triển được, dù Dảng cũng luôn nói Đảng tôn trọng tính đặc thù của văn nghệ. Khi sáng tác, tôi cứ viết theo sự thôi thúc của cuộc sống mà mình trải nghiệm , một nhu cầu tự thân, như thể không viết ra thì không sống được. Và giữa con người chính trị với con người sáng tác dần dần chạm nhau, một cách âm thầm. ngày càng gay gắt. Về chính trị, tôi luôn là người chiến sĩ cách mạng tiền phong gương mẫu gắn bó máu thịt với nhân dân, luôn có mặt ở tuyến đầu của tuyến đầu trong cuộc chiến đấu vì Độc llập của Tổ Quốc vặ Tự do của mỗi con người. Càng gương mẫu, tôi càng sáng tác tốt (có những bài thơ được nhiều người thích), nhưng lại bị Đảng đánh, ngày càng nặng. vì sáng tác (có những bài thơ được nhiều người thích nhưng trái ý Đảng).Đòn nặng đầu tiên diễn ra ngay tại chiến trường (Khu 5), một chiến trường rất ác liệt, nơi vợ tôi, nhà văn Dương Thị Xuân Quý hy sinh (tháng 3.1969 tại Xuyên Tân, Duy Xuyên, Quảng Nam). Đòn Đảng đánh vào sáng tác cũng rất ác liệt.

 

Xin bắt đầu từ một câu chuyện cụ thể.  Tháng 5 năm 1970, chiến tranh đang cực kỳ ác liệt, tôi về Kỳ Thịnh, một xã vùng ven thị xã Tam Kỳ. (Quảng Nam).Muốn về tới Kỳ Thịnh, phải vượt qua hai con đường lớn được canh phòng cẩn mật và hàng chục đồn bót của địch, chưa kể những ổ phục kích bất ngờ. Tôi phải chờ hai ngày trên ranh núi Kỳ Ngọc. Đêm thứ ba theo giao liên đột xuống, vừa vượt qua đường thì bị phục kích, may thoát chết, phải quay lại. Đêm thứ tư thì xuống lọt. Nhưng cũng bị xe tăng chốt ở rừng Rang nã đại liên xối xả, chạy muốn đứt hơi. Gần nửa đêm về tới Kỳ Thịnh, vừa bước vào hầm nhà một cán bộ thôn thì nghe tin dữ: hồi chiều, thằng Liên huyện uỷ viên trưởng ban an ninh huyện mới đi chiêu hồi. Tất cả mọi người đều đang ở trong tư thế sẵn sàng chống càn, bởi sợ thằng Liên khai báo, địch sẽ càn quét đánh phá tất cả những nơi mà hắn biết. Uống xong tộ nước chè khô thì may được gặp anh Sum bí thư và anh Tư ủy viên thường vụ huyện ủy. Các anh đang trên đường lên tỉnh họp gấp, ghé qua đây. Anh Sum người gầy gầy, dáng thư sinh. Anh Tư mập lùn, chắc nịch nhưng lanh lẹ, nước da ngăm đen, một cán bộ mà trước đó tôi đã được nghe nói là rất gan dạ, xông xáo. Ngoài khẩu súng ngắn và dây lựu đạn quanh thắt lưng, anh còn mang một khẩu AK với bốn băng đạn. Các anh bắt tay tôi thật chặt, hỏi han công việc, rồi dặn dò mấy cán bộ sẽ giúp đỡ tôi, và tiếp tục ra đi trong đêm. Sáng sớm hôm sau, tôi nghe tin các anh bị phục kích ở chính cái điểm mà tôi đã vượt đường đêm trước từ trên núi xuống. Nghe nói anh Sum bị thương, anh Tư hy sinh.

 

Ngày nào, đêm nào cũng có ngươi chết. Không mấy ngày là không có kẻ đi đầu hàng. Tôi theo anh Tín cán bộ tuyên huấn xã về ở nhà ông già Lịnh. Ông già Lịnh người thấp nhỏ nhưng rắn rỏi, queo quánh, dù đã ngoài bảy mươi. Đêm sáng trăng, ông đánh bò đi cày- “Tranh thủ ban đêm trời mát, ít máy bay, ít pháo” – ông bảo thế và dong bò đi, sau khi bỗ hết một tộ khoai chà và uống đầy một bụng cái thứ nước chè khô nấu đặc quánh. Xin nói thêm, khoai chà là thứ khoai lang luộc đem chà trong rổ rớt xuống thành hạt nhỏ rồi phơi khô, món lương khô quen thuộc lâu đời của nông dân Quảng Nam. Tôi kinh ngạc về sức khỏe lạ lùng của ông già ấy. Có hôm ông cày hết đêm rồi cày luôn cả ngày ngoài đồng đến chiều mới về, chỉ cần thằng cháu nội đem tiếp tế khoai chà, sắn luộc và nước chè. Gặp tàu rọ bất ngờ hạ cánh - một thứ máy bay trực thăng rất cơ động nom trống rỗng như cái rọ heo – ông ung dung dừng lại cho thằng Mỹ ở trong bước ra nắm râu ông coi râu thật hay râu giả. Biết chắc là râu thật, một ông già thật chứ không phải một du kích cải trang, nó bay đi, ông lại cày tiếp. Cũng không ít lần bọn tàu rọ bắn dọa (hoặc đùa giỡn giải khuây), đạn đại liên găm sục đất quanh chân ông và con bò, ông vẫn bình tĩnh đứng yên. Chính từ mảnh đất ấy, trong bom đạn tùm lum tối ngày, bất chấp hiểm nguy nhọc nhằn, bao nhiêu vụ khoai cùng lúa sạ vẫn được những người như ông gieo trồng đều đều lấy củ lấy hạt nuôi chúng tôi, những du kích, cán bộ, bộ đội quê ở đấy hoặc ở bất cứ từ đâu đến.

 

Ông già Lịnh còn nuôi cô Sáu Xuân, cán bộ binh vận xã, bị thương cụt chân đang còn băng bó. Mỗi khi có địch càn, nếu tình thế không thể hợp pháp trên mặt đất được, đích thân ông đưa cô Sáu xuống hầm bí mật, đích thân ông ngụy trang nắp hầm. Những ngày ở nhà ông già Lịnh, tôi đã suy ngẫm về ông và về vụ thằng Liên đi đầu hàng. Tôi làm hai bài thơ, kê sổ tay lên đùi mà viết ngay trong căn hầm tránh pháo vừa là nhà của ông. Đó là bài “BUỔI CHIỀU, CON BÒ KÊU NGOÀI ĐỒNG,,,” và bài “Ở ĐÂY, NGÀY HÔM QUA...”. Bài trước là hình ảnh ông già Lịnh cùng con bò thân yêu của ông đi cày trên đồng, giữa bom pháo. Bài sau nói về vụ thằng Liên đi đầu hàng. Xin ghi lại đây nguyên văn bài này, vì nó ngắn, và vì chính nó là bài bị Đảng đánh chí tử.

 

Ở đây, ngày hôm qua

vừa có kẻ đầu hàng, phản bội

hắn là huyện ủy viên

không ai ngạc nhiên

cuộc chiến đấu đang giữa hồi quyết liệt

những thử thách không chừa ai hết

thước đo lòng trung thành

không dài hơn cho tôi hoặc ngắn bớt cho anh.

 

Khi trở về căn cứ trên núi, tôi đưa hai bài thơ trên góp vào tạp chí Văn nghệ Giải phóng trung Trung bộ (tức Khu 5). Chỉ có bài” Buổi chiều, con bò kêu ngoài đồng...” được đăng. Bài kia bị gạt, không lý do. Tôi đành chỉ chuyền tay trong anh chị em đồng nghiệp. Ba năm sau, mùa xuân năm 1973, cơ quan văn nghệ khu 5 tổ chức học nghị quyết mới của Đảng và trao đổi ý kiến về vấn đề phản ánh hiện thực cuộc chiến đấu mới sau khi có hiệp định Paris. Ý kiến của hầu hết anh chị em là cần phải phản ánh hiện thực một cách toàn diện, cả mặt sáng và mặt tối, mặt phải và mặt trái, bề rộng và bề sâu, cả toàn cảnh xã hội lẫn số phận cá nhân. Từ quan điểm chung ấy, trong không khí thảo luận cởi mở, tôi lại đưa bài thơ “Ở đây, ngày hôm qua...” không được đăng đề nghị mọi người phân tích đánh giá đúng sai. Một số ít người ủng hộ. Một số im lặng. Nhiều người phê phán, nhất là sau khi có ý kiến phê phán rất gay gắt của nhà văn Nguyên Ngọc, chủ tịch hội Văn nghệ Giải phóng trung Trung bộ, người chủ trì cuộc thảo luận.

 

Trước đó, ông Vương Linh, bí thư Đảng đoàn văn nghệ khu 5 cùng nhà văn Nguyên Ngọc ủy viên thường vụ Đảng đoàn đã triệu tập riêng các đảng viên (trừ tôi, mặc dù lúc ấy tôi đang là Liên chi ủy viên) để chuẩn bị cho cuộc thảo luận, được xác định trong nội bộ là một cuộc đấu tranh chống những quan điểm lệch lạc nguy hại, mà đối tượng tập trung là tôi. Cuộc đấu tranh thật căng thẳng, vì tôi khăng khăng giữ quan điểm của mình, một vài anh em cũng cứng cỏi ủng hộ tôi. Với những người im lặng, Nguyên Ngọc đều buộc họ phải phát biểu. Cực chẳng đã, có người nói chung chung, có người nói nước đôi một cách khéo léo. Kết thúc hội nghị, Nguyên Ngọc kết luận bài thơ của tôi là một biểu hiện lệch lạc nghiêm trọng về quan điểm, dao động nghiêm trọng về ý chí, đây là một tình hình nguy hiểm đáng báo động, tác giả cần coi chừng. Tôi vẫn nhớ như in hai tiếng coi chừng với cái giọng rất căng của Nguyên Ngọc, đồng thời cũng nhớ như in cái cảm giác của mình lúc đó là hơi ngỡ ngàng trước một điều gì đó là lạ, khó hiểu, cái cảm giác ấy tiếp tục thúc đẩy tôi những ngày sau buộc phải cố khám phá xem ẩn ý gì chứa đựng đằng sau hai tiếng đó (sau này, khi đọc bài của nhà báo Hoàng Hải Vân viết về nhà thơ Phùng Quán bị đòn thời Nhân Văn - Giai Phẩm có kèm tư liệu bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc đánh Phùng Quán rất ác liệt, tôi không khỏi không nhớ lại cái giọng rất căng của Nguyên Ngọc năm nào khi cất lên hai tiếng “coi chừng !” ). Ông Lê Sâm, khu ủy viên, trưởng ban tuyên huấn Khu 5 cũng đến dự hội nghị này hầu như suốt các buổi để trực tiếp thị sát cuộc đấu tranh. Ông Vương Linh kêu lên với ông Lê Sâm : - Trời ! Y như Nhân Văn, thưa anh...

 

Ông Lê Sâm hỏi tôi, như kiểu thẩm vấn : - Anh Quốc, anh viết như thế nghĩa là anh ám chỉ lúc nào đó ủy viên Bộ chính trị cũng có thể đi đầu hàng, phải không ? Tôi không dám đáp lời giữa cái không khí đầy vẻ đấu tố dữ dằn ấy, nhưng bụng nghĩ đến những cán bộ cao cấp tiền bối đã đầu hàng như Lâm Đức Thụ, Ngô Đức Trì... Sau này, khi nghe tin ủy viên Bộ chính trị Hoàng Văn Hoan bỏ chạy theo giặc Bành trướng Bắc Kinh và bị kết án tử hình, tôi lại nhớ tới câu hỏi trên của ông Lê Sâm. Tôi nghĩ, khi hỏi tôi câu ấy, thực ra ông Lê Sâm còn am hiểu gấp mấy tôi cái mặt trái rác rưởi của nội bộ Đảng, nhưng ông không muốn chúng tôi biết tới, và nếu có biết phần nào thì cũng không được phép đưa vào văn chương. Tôi cũng nhớ lại lời nhà văn Phan Tứ kể rằng ông Tố Hữu dặn anh nếu có đụng đến cái tiêu cực thì chỉ nên nói từ cấp xã trở xuống thôi. Rõ ràng đó là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong lãnh đạo văn nghệ lúc ấy (và còn dai dẳng nhiều năm sau), thế nên Nguyên Ngọc dù cho trong thâm tâm có nghĩ khác cũng không thể nói khác, vì anh không chỉ là một nhà văn mà còn là một cán bộ lãnh đạo. Tôi tin chắc tác giả Mạch nước ngầm lúc ấy nghĩ khác.

 

Ít tháng sau, nhân một cuộc học nghị quyết mới nữa, vấn đề phản ánh hiện thực như thế nào lại được anh em văn nghệ đặt lại và tiếp tục thảo luận. Nguyên Ngọc , người chủ trì hội nghị, cho rằng hiện thực bao trùm nhất, đáng quan tâm nhất, là chủ nghĩa anh hùng cách mạng, và nhà văn muốn sáng tác có chất lượng thì điều tiên quyết là phải nhận ra cho được diện mạo người anh hùng, nhân vật trung tâm của văn học cách mạng. Anh còn nhấn mạnh thêm :khi nhà văn dao động thì trước hết là dao động về chính nhân vật trung tâm của mình. Tôi và Cao Duy Thảo nêu ý kiến : cần phải biểu hiện người anh hùng trong cả cái cao cả lẫn cái thấp hèn, và phẩm chất anh hùng chính là ở chỗ họ vượt lên được cái tầm thường, cái thấp hèn còn ẩn kín trong bản thân họ. Nhà văn Nguyên Ngọc phê phán nghiêm khắc quan điểm của chúng tôi, và khi kết luận hội nghị, anh khẳng định rành rọt : - Đối với nhà văn cách mạng, nếu trên gương mặt người anh hùng của chúng ta có một vết nhọ, chúng ta cũng phải chùi đi cho họ. Tôi và Cao Duy Thảo chỉ còn biết nhìn nhau khẽ lắc đầu chẳng biết nói sao. Một vài cán bộ lãnh đạo coi tôi như kẻ sẵn sàng đi đầu hàng địch. Điều này rất lâu về sau tôi mới biết.

 

Năm 1980, khi đã chuyển về tạp chí VĂN NGHỆ QUÂN ĐỘI, trong một lần tâm sự ôn lại chuyện cũ, nhà văn Nguyễn Chí Trung (nguyên ủy viên thường vụ Đảng đoàn văn nghệ khu 5) tiết lộ với tôi : sau chuyện đó, có lần ông Lê Sâm rỉ tai mình rằng nhiều dêm ông ấy ngủ không yên vì sợ thằng Quốc quăng lựu đạn vào võng. Tôi bàng hoàng vỡ nhẽ. Hoá ra, từ sự khác nhau về quan điểm văn nghệ đã có thể dẫn tới sự nghi ngờ nhau về chính trị dễ sợ tới mức ấy ! Và bây giờ tôi mới hiểu hết ẩn ý đằng sau hai tiếng coi chừng mà Nguyên Ngọc nhấn mạnh với tôi dạo nào. Đầu năm 1974, Nguyên Ngọc ra Bắc chữa bệnh và nghỉ ngơi. Sau này tôi cũng được biết, ở miền Bắc, trong các buổi được mời đi nói chuyện về văn nghệ Khu 5 chống Mỹ, Nguyên Ngọc luôn bảo vệ tôi, trực tiếp hoặc gián tiếp, trước ý kiến những ai đó, nhất là từ phía lãnh đạo, tỏ ra nghi ngờ về lập trường, quan điểm, ý chí của tôi. Điều tin chắc trước kia của tôi đã được minh chứng, việc anh phê phán tôi là do lúc ấy, trong cương vị của mình anh buộc phải áp đặt quan điểm chính thống cho anh em để giữ “trật tự, kỷ cương”.

 

Cuối năm 1975, ở Đà Nẵng, nhân một cuộc chuyện trò về nghề nghiệp, đề cập đến tính phức tạp của hiện thực, Nguyên Ngọc kể với tôi về những điều tầm thường, thậm chí ti tiện của một số cán bộ cao cấp mới từ trong khói lửa chiến đấu ở miền Nam ra cùng đi dưỡng bệnh với anh ở CHDC Đức.Tuy không nhắc lại vụ bài thơ “Ở đây, ngày hôm qua...”, nhưng tôi cảm thấy dường như đấy là một cách anh bóng gió thông báo vơi tôi những suy nghĩ thực của anh. Những suy nghĩ này về sau đã được thể hiện một phần trong bản Đề cương đề dẫn (gọi tắt là Đề dẫn) mà anh là người chủ trì soạn thảo cùng các ủy viên khác trong Đảng đoàn Hội nhà văn VN, và với cương vị bí thư Đảng đoàn chính anh đã công bố trong hội nghị đảng viên hội viên họp tại Hà Nội tháng 6 năm 1979. Tại Hội nghị này, bản Đề dẫn đã được đa số ý kiến nhiệt liệt tán thành nhưng đã bị nhà thơ Tố Hữu, lúc đó là ủy viên Bộ Chính Trị, trưởng ban tuyên huấn trung ưong đập cho tơi tả. Kết thúc hội nghị, Nguyên Ngọc vẫn gan góc kết luận : hội nghị căn bản nhất trí với Đề dẫn, đồng thời thấy cần nghiêm túc nghiên cứu ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tố Hữu, như.tôi đã kểt trong bài hồi ký MẤY KỶ NIỆM LÀNG VĂN BỊ TRÓI. Và không thể không kể lại chuyện này : Ngay sau hội nghị đấu tố tôi năm 1973, anh Phan Đấu, thư ký của anh Năm Công, tức Võ Chí Công, Bí thư Khu uỷ tới gặp tôi bảo tôi chép cho bài “Ở đây, ngày hôm qua” vì anh Năm Công muốn trực tiếp đọc. Tôi chép đưa anh Phan Đấu và hồi hộp đợi. Thời gian trôi qua. Không có chuyện gì lớn xảy ra với tôi. Anh Năm Công đã hiểu tôi, hiểu con người tôi và thơ tôi. Năm 1989, sau cuộc tổng bí thư Đỗ Mười mời gặp tôi để hỏi về vụ tôi (và Bảo Cự) bị khai trừ cách chức cắt lương, ông Mười bảo tôi nên gặp cố vấn Võ Chí Công. Tôi sang gặp anh Năm Công. Sau khi nghe tôi báo cáo vụ việc, anh bảo tôi : Trong các bài thơ của anh (BMQ) mà tôi đã đọc, tôi thích bài “Ôi bãi bờ tìm kiếm suốt đời ta…”. Thật bất ngờ đối với tôi, lần đầu tiên tôi được biết có một cán bộ ở cấp tối cao – anh từng là chủ tịch nước – thích bài thơ này. Tôi ghi lại chuyện này với niềm tri ân sấu sắc đối với anh Năm Công, ngừơi anh mà tôi thật lòng yêu kính, người bí thư Khu uỷ Khu 5 đã hiểu con người tôi và thơ tôi, thầm lặng cứu tôi thoát khỏi một bút nạn lớn thời chiến tranh.

 

Đà Lạt tháng 6.1994

.

 

MẤY DÒNG VIẾT THÊM

 

Năm 2012, nhân một lần đến Hội An, có dịp ngồi riêng với anh Nguyên Ngọc, hai anh em ôn lại chuyện đấu tranh tư tưởng về quan điểm sáng tác thời chiến tranh, tôi hỏi anh Nguyên Ngọc vụ bài thơ “Ở đây, ngày hôm qua” của tôi, có phải hồi ấy anh thực bụng nhận xét bài thơ nặng nề như thế không, anh đáp, giọng trầm buồn, chân tình : ừ, hồi ấy mình thực bụng nghĩ như thế. Tôi nhớ lại, hồi Nguyên Ngọc còn làm bí thư đảng đoàn Hội nhà văn Việt Nam, anh đã viết bài (đăng trên báo Văn Nghệ) phê phán nặng nề tập thơ “Bầu trời” (NXBVH) của nhà thơ Huyền Kiêu. Và có lần, anh đưa tôi bản đánh máy một bài thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi và bảo : này, cậu đọc đi để thấy ông Thi bây giờ tư tưởng có vấn đề như thế nào. Đó là bài “Cách mạng” (nhưng theo tôi, theo tôi đây là một bài thơ sâu sắc và hay...).

BMQ

 

--------------

 

CÁCH MẠNG

 

Những gì kia cuộn nhau

Trong bao đời bóng đêm

Cái ác của kẻ mạnh

Cái hèn của kẻ yếu

Cái tham của kẻ thừa

Cái thèm của kẻ thiếu

Dân tộc thù dân tộc

Con người sợ con người

 

Không sao chịu nổi

Lật hết đi

Thử xoay ngược lại

Xem thành cái gì

 

Cái hèn của kẻ mạnh

Cái ác của kẻ yếu

Cái thèm của kẻ thừa

Cái tham của kẻ thiếu

Dân tộc sợ dân tộc

Con người thù con người

 

Đã bao đời

Bóng đêm xoay ngược

Vẫn là bóng đêm

 

Nhưng nước mắt người mẹ

Làm đứng dậy người con

Giọt máu người ngã xuống

Thành ngôi sao dẫn đường

Và lặng im cũng thành tiếng gọi

 

Ra khỏi bóng đêm

Đi tới buổi sáng

Không có bóc lột ăn hiếp

Mỗi dân tộc cần đến mỗi dân tộc

Mỗi con người cần đến mỗi con người

 

Thưa bạn

Tôi nghĩ cách mạng là như vậy

Mở ra buổi sáng

Mới vỡ nghìn hang ổ

Của những gì cuộn nhau trong bóng đêm

 

Nhưng đó không phải chuyện một lúc

 

1982

NGUYỄN ĐÌNH THI

 

Nguồn : Trong cát bụi (thơ), Nguyễn Đình Thi, NXB Văn học, 1992

 





No comments:

Post a Comment

View My Stats