Nguyễn Đan Quế
08/02/2020
Khi Thế chiến II sắp kết thúc 75 năm trước, vào
tháng hai năm 1945, các lãnh đạo Anh, Mỹ và Liên Xô họp ở thành phố nghỉ mát
Yalta của Liên Xô bên bờ Hắc Hải, để phân chia vùng tiến quân của phe thắng trận.
Chưa đầy hai năm sau, tổng thống Mỹ tuyên bố Học
thuyết Truman, theo đó cam kết sức mạnh Mỹ sẽ kiềm chế các nỗ lực của Liên Xô
muốn mở rộng ra thế giới. Chiến tranh Lạnh bắt đầu.
Năm 1948, Liên Hiệp Quốc được thành lập. Hội Đồng Bảo
An gồm 5 nước có quyền phủ quyết là: Mỹ, Anh, Pháp, Nga và Trung Hoa (do Tưởng
Giới Thạch đại diện; sau thua Mao Trạch Đông, chạy ra đảo Đài Loan. Nhưng Liên
Hiệp Quốc vẫn công nhận Đài Loan là đại diện chính thức cho cả nước Trung Hoa
mà Hoa Lục bị phe CS tạm chiếm. Phía Mao Trạch Đông thì coi Đài Loan là 1 tỉnh
của mình và bị phe Mỹ tạm chiếm).
Mao lên cầm nguyền ở Bắc Kinh năm 1949, Hoa Lục chịu
thế gọng kìm qua sự bao vây bằng quân sự của Mỹ và chế ngự từ Liên Xô (Trung Cộng
không có tiếng nói tại Liên Hiệp Quốc, muốn nói gì phải qua đàn anh Liên Xô).
Trung Cộng dốc toàn lực kỹ nghệ hóa, sản xuất được xe tăng, pháo, máy bay… và
phát triển bom nguyên tử, năm 1964 cho nổ quả đầu tiên, trở thành cường quốc thứ
năm có nguyên tử sau Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp.
Cuối thập niên 1950 đầu 1960 Trung Cộng cho thi hành
Học thuyết Ba Thế Giới cùng một lúc vừa chống Mỹ vừa chống ‘xét lại Liên Xô’
(hòa hoãn với Mỹ). Theo Mao, thế giới chia làm 3: (a) thế giới thứ nhất Mỹ và
Nga (b) thế giới thứ hai là các nước đã phát triển (c) thế giới thứ ba gồm các
nước kém mở mang. Mao chủ trương: Thế giới thứ ba phối hợp với thế giới thứ hai
‘đập tan’ thế giới thứ nhất, thiết lập một trật tự thế giới mới công bằng hơn,
có lợi cho tất cả. Mao tung 2 đòn:
– Đòn quân sự: Thành lập các Mặt Trận
Dân Tộc Giải Phóng ở các nơi, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam VN là thí điểm
đầu tiên và quan trọng nhất. Cuối năm 1959, Hồ Chí Minh họp đại hội III đảng
CSVN ra nghị quyết ‘dùng bạo lực để giải phóng miền Nam VN’. Ngày 20-12-1960 Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời, bắt đầu đánh nhau với Mỹ giúp Nam VN
thành lập guồng máy chiến tranh kiểu tư sản chủ về hoả lực và Trung Cộng giúp Bắc
VN với guồng máy chiến tranh kiểu vô sản, chuyên đánh du kích.
– Đòn ngọai giao: Thành lập Phong Trào
Phi Liên Kết (1961) ở thủ đô Belgrade (Nam Tư) với hai khẩu hiệu chính: không
liên kết quân sự với Mỹ & Liên Xô vì cả hai đều là đế quốc & ủng hộ Mặt
trân Dân tộc Giải phóng khắp nơi trên thế giới.
Học thuyết ba thế giới diễn ra trong trong bối cảnh
hết sức đặc biệt: Thế kỷ XX có những phát minh làm biến đổi hẳn xã hội loài người:
Thuyết Tương Đối của Einstein mở ra kỷ nguyên nguyên tử, thám hiểm không gian;
sự ra đời của Cơ Học Lượng Tử dẫn đến internet, điện thoại thông minh, robot,
và cách mạng Số; Francis Crick & James Watson phát hiện chuỗi di truyền
DNA, mở ra nhiều hiểu biết về sinh vật, trong đó có con người.
Và đặc biệt nhất trên phương diện xã hội – chính trị,
khoa học chứng minh rằng không có mâu thuẫn ý thức hệ: tinh thần và vật chất là
2 mặt của sinh năng. Cộng sản lẫn tư bản tất phải biến đổi theo quan niệm mới về
con người: Tinh thần và vật chất là 2 mặt của Sinh năng. Sinh
năng là 1 phần của Vũ trụ năng. Vũ trụ năng ảnh hưởng trên Sinh năng. Tinh thần
và vật chất hỗ tương tác động và có thể hoán chuyển qua Sinh năng.
Vì thế, nền văn minh nhân loại thay đổi. Mỹ &
Liên Xô không thể không xét lại thế chiến lược toàn cầu Yalta chia đôi thế giới
theo ý thức hệ. Trung Cộng sẵn sàng tác động qua Phong trào Phi Liên Kết và nhất
là Mặt trận Dân tộc Giải phóng các nơi, đánh phá, gây ‘thiên hạ đại loạn’.
Trong khi đó, triển khai những khám phá mới của cơ học
lượng tử nhanh chóng trở thành mục tiêu của các nước có trình độ phát triển
cao, kể cả Nhật – Đức – Trung Quốc. Nga vì chạy đua vũ trang nên không còn tiền
phát triển kinh tế. Thập niên 1960, Mỹ sa lầy trong cuộc chiến VN. Tiếp tục Mỹ
sẽ mất vị thế hàng đầu. Đây mới là lý do thâm sâu Mỹ dừng cuộc chiến.
Cơ học Lượng tử đã nhanh chóng làm tương quan giữa
các siêu cường thay đổi. Và Chiến Lược Toàn Cầu bắt đầu có những dấu hiệu biến
đổi dần từ Đối đầu Đông – Tây sang Hợp tác Bắc – Nam nhằm giải quyết mâu thuẫn
chính là hố xa cách giầu – nghèo. Hòa đàm Paris về VN là bước đầu của biến đổi
lớn lao này. Sau đó, các nước giầu ngả dần sang khuynh hướng chạy đua nghiên cứu
áp dụng kỹ thuật số, phát triển kinh tế hơn là tiếp tục đối đầu:
* Ở Âu Châu, nhiều tiếng nói cất lên đòi một ‘Âu
châu nhất thể’, muốn Mỹ & Nga giảm bớt ảnh hưởng để Đông –Tây Âu trao đổi
ngoại giao, văn hóa, kinh tế.
* Hòa hoãn trong giọng điệu của điện Cẩm Linh với
phương Tây và đặc biệt là ký tài giảm vũ khí chiến lược với Mỹ qua Hiệp Định chống
phi đạn đạo ABM (1972).
* Trung Quốc đả kích bọn xét lại Liên Xô, lên đến
cao điểm là cuộc pháo kích qua lại dọc theo Hắc Long giang năm 1969.
* Trung, Nhật & Tây Đức sẵn sàng trở thành những
cường quốc kinh tế Số.
* Ngày
25-10-1971, Trung Quốc thay Đài Loan trong vai trò hội viên thường trực Hội Đồng
Bảo An Liên Hiệp Quốc, với quyền phủ quyết của 1 siêu cường, qua một cuộc
bỏ phiếu của toàn thể đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Từ đây, Trung Quốc chính thức
là siêu cường trong nền sinh hoạt chính trị toàn cầu.
* Ngày 27-2-1972: Trung Quốc với tư cách siêu cường,
ký thông cáo chung Thượng Hải với Mỹ.
* Ngày 27-5-1972: Mỹ – Xô ký thỏa ước Hạn chế vũ khí
chiến lược (SALT), xuống thang, không chạy đua vũ trang nữa.
Quan hệ giữa hai khối cộng sản – tư bản không còn đối
kháng mà bắt đầu chuyển dần sang hướng hợp tác Bắc – Nam. Đến nay gần ½ thế kỷ,
chúng ta đã chứng kiến nhiều biến cố chưa từng thấy. Và tiến trình thay đổi chiến
lược này hiện đang tiếp diễn mạnh mẽ tiến tới Hợp tác Bắc – Nam về kinh tế và
khai mở nền văn minh mới Nhân Bản cho nhân loại.
Bs
Nguyễn Đan Quế, Cao Trào Nhân Bản
Rằm tháng Giêng, Xuân Canh Tí 2020
No comments:
Post a Comment