17/03/2019
VNTB
- Chuyện Quốc Hội cố thông qua luật An ninh Mạng và sự giằng co
mặc cả với hai đại công ty Google và Facebook chứng tỏ VIệt Nam cố gắng
mà bất lực với trào lưu quốc tế
Bìa sách xuất bản
năm 1978
Tác phẩm “Bốn học thuyết
truyền thông” (Four Theories of The Press) của các nhà khoa học
người Mỹ : Fred S. Siebert, Theodore Peterson, Wilbur Schramm, do
nhà báo Lê Ngọc Sơn chuyển ngữ, nhà xuất bản Tri Thức phát hành lần
đầu năm 2013, tái bản lần 4 tháng 9 năm 2018. Gs.Chu Hảo chịu trách nhiệm xuất
bản.
Ba nhà khoa học truyền
thông Mỹ nghiên cứu truyền thông, chủ yếu căn cứ trên hệ thống
báo in (báo giấy), đài phát thanh và phim ảnh. Suy rộng ra các loại hình
báo chí khác về bản chất cũng như vậy.
Chúng ta cùng điểm qua lịch
sử báo chí thế giới, xem ta đang ở đâu ?
1/ Sơ lược 4 học thuyết theo quá
trình lịch sử
Bìa Xuất bản năm 1963 :
Bìa sách xuất bản ở Việt Nam
Nhà báo Lê Ngọc Sơn: “Lá cải
hoá” báo chí và sứ mệnh của truyền thông Việt Nam ngày nay.
PV: Vì sao ông dịch cuốn sách “Bốn học thuyết truyền thông”?
Nhà báo Lê Ngọc Sơn: Báo chí nước ta đang phát triển mạnh và đa dạng. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn bộc lộ một số khuynh hướng không lành mạnh, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của xã hội. Giới học thuật truyền thông chỉ ra rằng: Trên thế giới hiện có 4 hệ thống truyền thông chủ yếu: Độc tài, Tự do, Xô viết toàn trị và Trách nhiệm xã hội. Chúng ta cần biết những điều này để ứng dụng vào thực tiễn để phát triển. Và đó là lý do khiến tôi dịch cuốn sách này.
Tình trạng các báo lá cải
và những báo mạng đang đi theo hướng “cải hoá” hiện nay, để tăng lượng người
truy cập, họ đang tìm mọi kẽ hở để lôi được bạn đọc về phía
mình, bất chấp thông tin đó có hợp với thẩm mỹ, văn hoá, và chuẩn mực hay
không… Không ít đơn vị truyền thông đang tìm kiếm lợi ích mà không cần
quan tâm đến công chúng. Chức năng khai sáng của truyền thông dường như mờ nhạt.
“Bốn học thuyết truyền thông” là cuốn sách lý giải những câu
hỏi phức tạp ấy. Xuất bản năm 1956 tại Mỹ, do ba nhà khoa học là 2 Chủ nhiệm
khoa truyền thông và Hiệu trưỡng trường báo chí Mỹnghiên cứu và công bố.
“Bốn học thuyết truyền
thông” đã trở thành sách gối đầu giường của học giả và sinh viên
ngành báo chí – truyền thông và khoa học chính trị ở các nước phát triển.
Qua hướng phân
tích-nghiên cứu đó, nhìn lại lịch sử từ điểm mốc 1956 trở về trước,
các tác giả đã lần lượt nghiên cứu 4 học thuyết truyền thông: thuyết Độc
đoán, thuyết Tự do, thuyết Trách nhiệm xã hội và thuyết Toàn trị Xô
Viết. Trong đó thuyết Trách nhiệm xã hội kế thừa từ thuyết Tự do,
còn thuyết Toàn trị Xô Viết phát triển từ thuyết Độc đoán.
1. Thuyết
Truyền Thông Độc Đoán hay độc tài được bắt đầu áp dụng vào thế kỉ 16 và 17 tại Anh. Thuyết này được
xuất phát từ mô hình xã hội độc tài, xuất hiện trong tác phẩm của Plato,
Machiavelli, Hobbes, Hegel.
Nguyên lý cơ bản của thuyết
này bắt nguồn từ quan niệm con người độc lập không nhà nước là hoang dã
mông muội, còn con người khi có tổ chức nhà nước thì văn minh, tiến bộ, có
khả năng vô hạn đạt được mục tiêu cá nhân. Vậy nên nhà nước quan trọng hơn
mọi cá nhân và mọi cá nhân đều phải phụ thuộc vào nhà nước. Thuyết này
cũng quan niệm rằng có khác biệt về khả năng tư duy giữa con người
trong xã hội. (Một số ít tinh hoa sẽ toàn quyền ra quyết định, phần
còn lại thiếu hiểu biết thì cứ nghiêm chỉnh chấp hành, không được ý kiến
lôi thôi).
Từ các quan niệm về con
người và nhà nước như trên, những người theo thuyết Độc đoán quan
niệm về mục đích của truyền thông là hỗ trợ và ủng hộ cho
chính phủ để chính phủ hoàn thành mục tiêu của mình. Điều này sẽ được
Nhà nước kiểm soát và giám sát nghiêm ngặt. Ngoài chức năng đó, các phương tiện
truyền thông có thể giáo dục dân chúng qua việc đưa các kiến
thức dưới dạng cơ bản, dễ tiếp thu tới đại chúng.
Những nội dung bị cấm trong Thuyết truyền thông độc
đoán :
– Cấm chỉ trích trực tiếp
các lãnh đạo chính trị đương nhiệm cũng như quyết định và dự án của họ
– Cấm các nỗ lực lật đổ
chính quyền
– Được phép nói về bộ máy
chính trị nhưng không được nói về người điều hành bộ máy này.
– Cấm đưa thông tin về
các vấn đề chính phủ, trừ những quyết định cuối cùng. Phạm vi vấn đề thảo luận
phụ thuộc vào nhóm xã hội (công chúng được xem là không có khả năng hiểu về
chính trị nên thảo luận của nhóm này bị giới hạn, nhưng nhóm có kiến thức thì
được thảo luận rộng hơn).
Ở đây cũng xuất hiện
một khác biệt quan trọng giữa thuyết Độc đoán và thuyết Toàn trị Xô Viết:
trong mô hình Độc đoán, Nhà nước không đòi hỏi một sự đồng tình trọn vẹn,
chỉ cần không chỉ trích lãnh đạo đương nhiệm, không chống lại các dự án
đang tiến hành, không làm ảnh hưởng đến mục tiêu của Nhà nước.
Để thiết lập hệ thống
truyền thông độc đoán, Nhà nước phải kiểm soát được các phương tiện truyền
thông đại chúng. Trong điều kiện của thế kỷ 16, 17, một số phương
án kiểm soát sau đây được thực thi:
– Sử dụng hệ thống
cấp giấy phép, Cấp phép cho tổ chức truyền thông để các tổ chức truyền thông
này được độc quyền phát hành ấn phẩm. Đổi lại họ phải phục vụ chính phủ, thực
chất là nhà nước đồng nhất lợi ích của người tham gia ngành truyền thông với lợi
ích của Nhà nước;
– Sử dụng hệ thống
kiểm duyệt tác phẩm trước khi xuất bản, đặc biệt là các tác phẩm liên quan đến
tôn giáo, chính trị.
– Khởi tố người truyền
thông điệp chống đối chính phủ. Hai tội lớn nhất: mưu phản và nổi loạn.
Thuyết Độc đoán có mặt sớm nhất, từ khi các phương tiện truyền thông đại
chúng mới nhen nhóm và máy móc in ấn vẫn còn sơ khai hạn chế, nên việc kiểm
soát không gặp nhiều khó khăn. Đó là thời kỳ Phục Hưng (thế kỷ 14-
16)… Nhưng đến TK 16 đến cuối 17, máy in được cải tiến và xuất
hiện ngày một nhiều, ngành in mở rộng quy mô tràn lan, các sản phẩm truyền
thông đại chúng ngày càng nhiều hơn, khó kiểm soát hơn. Các phương án kiểm soát
cũ chỉ mang lại hiệu quả trong thời gian ngắn rồi lại nhanh chóng lỗi
thời. Càng về sau, các phương án kiểm soát càng mang tính chất phòng thủ trước
sự trỗi dậy mạnh mẽ của Thuyết tự do.
Ngày nay, để xây dựng
và duy trì hệ thống độc đoán trong một xã hội phát triển
phức tạp cần những thủ thuật tinh vi kín đáo hơn, bên ngoài có thể “giả tự do” để bên
trong thi hành các thủ thuật thao túng kiểm soát như độc quyền
hóa hoặc bội thực thông tin…
2. Thuyết
Truyền thông Tự Do
được bắt đầu áp dụng tại Anh
sau 1688 và ở Mỹ. Thuyết này xuất phát từ chủ
nghĩa tự do. Các nhà triết học và chính trị học ủng hộ thuyết này có
John Locke, John Milton, John Erskine, Thomas Jefferson, John Stuart Mill.
Nguyên lý cơ bản của thuyết Tự do hoàn toàn trái ngược với Thuyết độc đoán. Những người theo thuyết Tự do quan niệm cá nhân có tầm quan trọng lớn lao hơn mọi tập thể. Hạnh phúc của cá nhân là mục tiêu của xã hội. Nhà nước là công cụ hữu ích và cần thiết, nơi nhân dân giao phó, ủy thác quyền lực và cũng có thể thu hồi quyền lực. Xã hội tạo điều kiện cho con người nhận ra các tiềm năng của bản thân, vì thế các tổ chức xã hội không được trở thành vật cản đối với sự phát triển của con người. Mỗi con người tuy bẩm sinh khác nhau nhưng bằng nỗ lực tư duy đều có khả năng đạt tới chân lý.
Xuất phát từ những điểm
trên, những người theo thuyết tự do cho rằng truyền thông phải vì những mục
đích sau:
– Thứ nhất, hỗ trợ
con người nhận ra các tiềm năng của bản thân, giúp cung cấp cho con người sự thật.
Từ đó, con người trong xã hội tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề xã hội.
– Thứ hai, truyền
thông cần giữ cho chính phủ không vượt quá giới hạn của mình (không được hạn chế
con người tiếp cận sự thật, không được cản trở sự phát triển của con người).
– Thứ ba, truyền
thông tham gia kết nối người mua và người bán bằng quảng cáo, cung cấp dịch vụ
giải trí, duy trì khả năng độc lập tài chính.
Tuy là thuyết tự do,
nhưng tự do nào thì cũng phải nằm trong khuôn khổ, vậy nên những người
theoThuyết tự do cấm những nội dung sau đây xuất hiện trên
truyền thông:
– Phỉ báng cá nhân, gây
hiềm khích giữa sắc tộc, tôn giáo.
– Nội dung khiếm nhã,
khiêu dâm.
– Đặc biệt, trong thời kì
rối ren, người theo thuyết tự do có thể từ bỏ tự do để chính
phủ được phép kiểm soát truyền thông nhằm tránh các hoạt động xúi giục nổi loạn,
phạm pháp…vv.
Một số phương án triển
khai tự do truyền thông:
– Tạo điều kiện để mọi
tổ chức, cá nhân đều được tự do tham gia hoạt động truyền thông
– Triển khai tranh luận tự
do trong thị trường mở để tiếp cận sự thật. Mặc dù trong những thông tin đến với
công chúng có cả những thông tin sai và thông tin đúng, nhưng thuyết tự do
tin rằng khi công chúng tiếp cận với nhiều thông tin, công chúng sẽ tự tìm ra
được thông tin phù hợp cho nhu cầu của bản thân và xã hội.
– Truyền thông cung cấp
thông tin và giải trí cho công chúng, đồng thời kinh doanh và quảng cáo nhằm trở
nên độc lập với chính phủ.
– Quyền lực của nhà nước
đối với truyền thông cần phải được giới hạn. Chức năng của Nhà nước là tạo môi
trường để các cá nhân tự do tham gia truyền thông.
Thuyết tự do với cốt
lõi là tự do ngôn luận, tự do báo chí nên sẽ không có sự dự phòng
trong trường hợp xảy ra biến động lớn như chiến tranh, phản loạn, vv…
3. Thuyết
Trách nhiệm xã hội bắt đầu được áp dụng vào thế kỉ XX tại Mỹ. Thuyết này có thể coi là một phiên bản được sửa
đổi từ Thuyết truyền thông tự do: nếu thuyết tự do nhấn mạnh
việc tách truyền thông ra khỏi vòng tay kiểm soát chặt chẽ của chính phủ thì
thuyết TNXH bổ sung thêm rằng: truyền thông phải có trách nhiệm với xã hội.
Ủy ban Tự do Báo chí Mỹ là cơ quan ủng hộ phát triển học thuyết này.
Nguyên lý cơ bản: thuyết
tự do cho rằng con người có đạo đức, tư duy, khả năng và động lực đi tìm sự thật.
Trong dài hạn, con người sẽ suy xét được điều đúng sai. Thuyết trách nhiệm xã hội
cũng cho rằng con người có đạo đức và tư duy, nhưng nghi ngờ việc con người có
động lực đi tìm sự thật hay không. Con người có thể trở thành nạn nhân của sự lừa
dối và cám dỗ trong thời gian dài, trừ khi được định hướng trở lại. Điều này
cho thấy thuyết trách nhiệm xã hội ra đời sau và đã áp dụng nghiên cứu về tâm
lý học, xã hội học, rút kinh nghiệm từ sai sót của mô hình truyền thông tự do).
Thuyết truyền thông Trách
nhiệm xã hội vẫn liệt kê các mục đích của truyền thông tương tự như
Thuyết tự do: Cung cấp thông tin, tổ chức tranh luận liên quan tới vấn
đề chính trị, mở rộng kiến thức của công chúng để họ có khả năng tự trị, bảo vệ
quyền của cá nhân, giám sát chính phủ, quảng cáo, giải trí, duy trì độc lập tài
chính. Tuy nhiên học thuyết này yêu cầu tổ chức truyền thông cân bằng
giữa các mục đích: ưu tiên sự thật, kiến thức, bảo vệ quyền cá nhân; quảng
cáo, giải trí, kinh doanh có trách nhiệm.
Một số phương án triển khai thuyết truyền thông Trách
nhiệm xã hội
Cho ra đời các bộ quy
tắc ngành, trong đó quy định về trách nhiệm của cá nhân trong
ngành phải đảm bảo đối với nghề nghiệp của mình cũng như với toàn xã hội.
Cụ thể, do công chúng chỉ trích các tổ chức truyền thông quá nhiều, cộng với
việc tòa án Mỹ xử phạt các hành vi lũng đoạn thị trường của các tổ chức truyền
thông, các tổ chức này đã tự kiểm điểm bản thân, đề ra các nguyên tắc cho
ngành, (bộ quy tắc ngành báo chí Mỹ – 1923, BQT ngành điện ảnh – 1930, BQT
ngành phát thanh – 1937, BQT ngành truyền hình – 1952).
Để hiểu rõ hơn báo
chí phải có trách nhiệm gì đối với xã hội, xin trích dẫn 5 yêu cầu của Ủy
ban Tự do báo chí đối với hoạt động báo chí:
1. Báo chí cần miêu tả một
cách trung thực, súc tích và thông minh những sự việc trong ngày trong một bối
cảnh khiến cho chúng có ý nghĩa.
2. Báo chí cần phục vụ
như một diễn đàn để trao đổi, bình luận và phê bình.
3. Báo chí cần miêu tả một
bức tranh đại diện cho những nhóm cấu thành trong xã hội.
4. Báo chí cần truyền tải
và làm rõ những mục tiêu và giá trị của xã hội.
5. Báo chí phải cung cấp
đầy đủ thông tin trong ngày (phải cập nhật nhanh).
Chính phủ cũng can thiệp
vào thị trường truyền thông, loại bỏ các nội dung phản cảm, điều tiết hành vi của
các công ty để tránh thị phần bị thâu tóm bởi một số công ty lớn (chống độc
quyền).
Dòng chảy phát triển của
học thuyết truyền thông cũng song hành cùng học thuyết kinh tế. Thuyết truyền
thông tự do tương ứng với thuyết nền kinh tế tự do, tối thiểu
hóa can thiệp của chính phủ vào thị trường.
4. Thuyết
truyền thông toàn trị Xô Viết được áp dụng đầu
tiên tại Liên Xô. Người xây dựng là các
nhà quản lý nước Liên Xô, dựa trên học thuyết của Karl Marx. Tuy
nhiên tác giả nhận định rằng mô hình truyền thông này khác biệt so với
những gì Karl Marx mường tượng, và trong trường hợp Marx sống mãi trong
sự nghiệp chúng ta thì chưa chắc Marx đã đồng ý với mô hình này. Nền
tảng của học thuyết là quan niệm về Đảng và nhà nước Liên Xô như cố vấn toàn diện
cho các tầng lớp người dân, dẫn dắt họ vượt qua thời kì quá độ, loại bỏ tàn dư
của chế độ Tư bản. Người dân chấp nhận định hướng và vì vậy cũng chấp nhận sự
kiểm soát. Truyền thông là công cụ đắc lực để Đảng tập trung quyền lực, thực hiện
sứ mạng.
Truyền thông
toàn trị Xô Viết
– Là công cụ của nhà nước
và Đảng Cộng sản, có mối quan hệ chặt chẽ với các công cụ khác. Đây là điểm
khác biệt với thuyết Độc đoán.
– Thống nhất về nội dung.
Các nội dung từ nước ngoài không thể thâm nhập
– Hỗ trợ giác ngộ nhân
dân
– Tuyên truyền và vận động.
Thêm một điểm khác biệt nữa: đòi hỏi sự đồng tình trọn vẹn, phản đối ngầm
trong đầu cũng không được.
– Tuyên ngôn rằng, truyền
thông có trách nhiệm to lớn: đảm bảo quyền tự do cho người dân.
Giải thích cho điều này cần
xem xét: Tự do kiểu Liên Xô khác với tự do ở các nước tư bản mà chúng ta thường
dùng quen thuộc ngày nay:
Một số
phương án tổ chức:
Đảng kiểm soát đánh giá
và phê bình tổ chức truyền thông, kiểm duyệt nội dung truyền thông.
Nội dung đưa lên báo chí
không định hướng cập nhật sự kiện hay kinh doanh mà chủ yếu để giáo dục
người dân.
Trong thực tiễn hoạt động,
truyền thông phải có khả năng thay đổi quan điểm liên tục theo chỉ thịcấp
trên đảm bảo các mục tiêu của Đảng. Do mục tiêu của Đảng Xô Viết luôn là tối
cao, nên sựnhất quán trong thông điệp truyền thông có thể không được đảm bảo.
Truyền thông sẵn sàng tôn vinh một người hết mức nhưng ngày hôm sau phải hạ bệ người
đó nếu được yêu cầu.
Tóm lại, sau phần
trình bày về 4 học thuyết truyền thông, tác giả đã cung cấp góc nhìn: các
mô hình truyền thông khác nhau xuất phát từ nhiều yếu tố, nhưng yếu tố cơ bản
và quan trọng hơn cả làcấu trúc xã hội và thể chế của đất nước đó. Cách
nhà quản lý dựa vào quan niệm về bản chất của con người, bản chất của xã hội và
nhà nước, mối liên hệ giữa con người với nhà nước, bản chất của tri thức và của
chân lý để xây dựng mô hình truyền thông. Thông qua phân tích mô hình truyền
thông, chúng ta có thể hiểu được hệ thống kiểm soát xã hội.
2/ BẢN CHẤT TRUYỀN THÔNG ĐỘC
TÀI XÔ VIẾT VÀ SỰ BẤT CẬP CỦA NÓ
Bản thân Marx đã từng hơn một lần thể hiện sự thất vọng đối với
cách những người kế cận áp dụng lý tưởng của ông. Ông đã nói đầy mỉa mai “vậy
thì tôi không phải người theo chủ nghĩa Marx”. Và tới ngày hôm nay có
lẽ ông sẽ khước từ thêm lần nữa nếu có thể chứng kiến điều
gì xảy ra đối với học thuyết của mình ở nước Nga và các nước trong khối
xã hội chủ nghĩa (ngày càng teo dần). Bởi tư tưởng của Marx đã trải qua những
sự biến đổi sâu sắc từ những lớp học trò kế cận truyền dạy lời
ông, dưới áp lực hoàn cảnh mà Marx không thể dự đoàn được.
Ngay từ đầu, chủ nghĩa
Marx truyền thống đã thể hiện chủ nghĩa độc đoán, sự bất biến, một
xu hướng phân biệt rõ ràng giữa đúng và sai, một sự tự tin đáng ngạc
nhiên trong việc giải thích một phạm vi lớn các hành vi của con người chỉ dựa
trên một số ít các sự kiện kinh tế (!).
Những kết quả áp dụng
Marx chưa phải là cách mạng thật sự. Chúng chỉ mang tính chất chính
trịhơn là những cuộc cách mạng xã hội thực sự. Kết quả chỉ đơn
thuần là sự chuyển giao quyền lực đạt mà chưa đạt được sự biến
đổi xã hội sâu sắc. Marx cho rằng các cuộc cách mạng đó sẽ bắt
nguồn từ sự đối lập của giai cấp công nhân (lập đề) với giai cấp tư sản
(phản đề) và kết thúc bằng chiến thắng của những người công nhân và sự hình
thành một xã hội mới không có giai cấp (hợp đề). Nếu theo quá trình thay đổi biện
chứng thì có dừng lại ở tình trạng xã hội không giai cấp hay
không thì ông không chỉ rõ được (!?).
Ông Marx cho rằng nghệ thuật,
tôn giáo, triết học và tất cả các thành phần văn hóa khác cũng phải thay đổi,
đều phải theo lý tưởng và cơ sở của tầng lớp thống trị kinh tế.
(!)
Mục tiêu của CNCS là một
xã hội không phân chia giai cấp và không tồn tại nhà nước.
Theo Engels, khi giai cấp vô sản giành lấy phương tiện sản xuất, nó đánh dấu chấm
hết cho chính nó và mọi sự khác biệt và đối kháng giai cấp, cũng đặt dấu
chấm hết cho toàn bộ nhà nước. Hành động cuối cùng mang tính nhà nước
là chiếm lấy toàn bộ phương tiện sản xuất dưới danh nghĩa toàn xã hội. Sau
đó nhà nước tự động suy tàn.
Quả thực đây là một
cách nhìn lạc quan phi thường (hoang đường) về con người. Con người thực
ra chưa đủ hoàn hảo để sống không có chính phủ. Vậy lúc ấy, con
người được đào tạo thế nào đểđảm nhận vị trí “chỉ dưới các
thiên thần” ? Và khái niệm “nhà nước dần dần dần suy tàn là gì nữa? Marx
và Engels không đề cập tới cụ thể mặc dù họ quả quyêt
rằng “thời ký hoàng kim” ấy sẽ tới khi giai cấp công nhân nắm lấy
chính quyền. Bộ máy tuyên truyền của Liên Xô cũng đã lúng túng, gặp khó
khăn khi nói về “thời kỳ hoàng kim”.
Ngay từ Lê Nin và đồng
chí chỉ lo tập trung giành chính quyền. Họ không có nhiều thời gian
suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội sẽ có hình thái như thế nào
sau cách mạng. Ý tưởng của Lenin cho tương lai sau cách mạng hầu hết đề mờ
ảo, xa vời và không thực tế. Không hề có chương trình thống nhất nào đi
sau việc quốc hữu hóa công nghiệp và tịch thu các quĩ tư bản tư nhân.
Ngay cả đối với nông dân, (theo tư tưởng Marx, nông dân không thuộc về giai
cấp vô sản), chính sách của Lenin cũng rất mập mờ trong nhiều năm (chỗ thì
tư nhân chỗ thì nông trang tập thể). Do đó, sau cách mạng tháng 10 Nga
1917, kinh tế xã hội Liên Xô tiến hành rất chậm chạp và không vững chắc,
có khi thay đổi đường lối rất đột ngột.
Người lãnh đạo Đảng được
giao quyền năng vô hạn khi tại vị.
Họ chỉ dựa vào
hệ thống truyền thông của Đảng. Tờ báo Pravda phát biểu tuyên ngôn
ngày 7/7/1956 “Đảng cộng sản đã và sẽ luôn là người chủ duy nhất
của những khối óc và suy nghĩ, là người phát ngôn, người lãnh đạo và là người tổ chức
cho nhân dân trong suốt quá trình đấu tranh của họ vì chủ nghĩa cộng
sản”.
Bộ máy truyền thông
chỉ việc thực hiện tư tưởng chủ đạo đó. Không chấp nhận tự do
ngôn luận.
Tin tức là gì ? Với mọi xã hội khác, tin tức là các sự kiện
vừa xảy ra.
Với Liên xô, tin
tức là cách diễn dịch cái quá trình xã hội và nỗ lực xây
dựng Nhà nước Xô viết xã hội chủ nghĩa.
Sự tương
đồng của truyền thông Liên Xô và truyền thông ĐỨC quốc xã
- Truyền thông đại chúng
nghĩa là công cụ để rèn giũa công dân trở thành công cụ đắc
lực của quốc gia.
- Cả hai đều muốn định
hướng của lãnh đạo, không cho phép bất cứ chệch hướng hay nghi ngờ nào
ngoài đường lối của đảng- người dẫn đầu.
- Họ diễn dịch lại lịch
sử theo hướng phù hợp với sự diều hành của họ.
- Người lãnh tụ không
ngần ngại hi sinh một lượng lớn sinh mạng con người cho niềm tin mà họ tôn
thờ.
Tóm lại, với các nước tự do
dân chủ, truyền thông là một dịch vụ mang tiếng nói xã hội, phản ánh như cầu,
thị hiếu, ý tưởng đa hướng, cởi mở của công chúng, không
có kết quả định trước. Với Liên Xô, truyền thông là công cụ quan
trọng, được sử dụng bởi một số lượng nhỏ các cá nhân lãnh đạo, để cho
ra kết quả định trước.
3/ TRUYỀN THÔNG VIỆT NAM NGÀY NAY
Xuất phát từ nền
Truyền thông độc tài kiểu Xô viết, truyền thông Việt Nam dùng các
thủ thuật được tung ra để thao túng truyền thông.
- Ban tuyên giáo họp báo
đầu tuần hoặc khi có việc cần.
- Giao trách nhiệm
và kiểm soát tổng biên tập.
- Báo Thanh Niên “thay
máu đảng viên” với máu dân thường cho các chức vụ quản lý.
- Luật An ninh Mạng loay
hoay ra đời để kiểm soát ngôn luận.
Bất lực trước Mạng Xã Hội,
chiều 28/12, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền
thông và Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức hội nghị báo chí toàn quốc tổng
kết công tác năm 2018, triển khai nhiệm vụ năm 2019. (báo Dân
trí). Phát biểu kết luận hội nghị, ông Võ Văn Thưởng -Ủy viên Bộ Chính
trị, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương cho rằng, mạng xã hội đang ảnh hưởng
sâu rộng đến xã hội. Vấn đề được ông Thưởng nghiêm túc đặt ra đối với báo
chí là thông tin đi sau mạng xã hội, dù nhiều trường hợp báo chí biết trước
thông tin. Thực tế, kênh thông tin của báo chí rất đa dạng, đội ngũ thông tin
báo chí rất đông, hoàn toàn có thể chủ động thông tin, nhưng sự chậm
trễ của báo chí đã trao lợi thế cho mạng xã hội trong việc thông tin.
“Đúng là thách thức từ mạng
xã hội đối với báo chí là rất lớn, nhưng thách thức lớn hơn chính là tư tưởng,
tâm thế thất bại, thua cuộc của người làm báo. Ngoài ra, còn có việc hành
động chưa chặt chẽ, chưa đồng bộ, thiếu hiệu quả của các cơ chế phối
hợp, cũng như cơ chế quản lý nhà nước”, ông Thưởng đánh giá.
Chuyện Quốc Hội cố thông
qua luật An ninh Mạng và sự giằng co mặc cả với hai đại công ty
Google và Facebook chứng tỏ VIệt Nam cố gắng mà bất lực với trào lưu
quốc tế
Liệu Việt Nam có bắt
chước Trung cộng tận dụng Internet riêng để kiểm soát đảng viên cộng
sản hay không ?
Tin mới: Bắc Kinh yêu cầu
bắt buộc mỗi đảng viên, khuyến khích công chức, hàng ngày phải vào mạng của Đảng
từ 30 phút đến 1 giờ, đọc và hiểu công tác đảng. Đảng dùng biện pháp công
nghệ4.0 để theo dõi «chấm công đảng viên» tức là kiểm soát bộ não
của họ (!).
Cuốn sách được xuất bản
năm 1956 và chắc chắn đã có giá trị to lớn đối với các nhà nghiên cứu triết học
và truyền thông thế giới. Đến ngày nay vẫn có giá trị tham khảo và đối
chứng.
PHN: https://caphesach.wordpress.com/2015/12/12/phan-tich-tinh-thuc-tien-cua-bon-hoc-thuyet-truyen-thong/
Tham khảo:
-https://caphesach.wordpress.com/2015/12/12/phan-tich-tinh-thuc-tien-cua-bon-hoc-thuyet-truyen-thong/
No comments:
Post a Comment