Thursday, 1 May 2014

VỀ LẠI BIỂN ĐÔNG CÚNG VONG NGƯỜI CHẾT, NHỚ NGƯỜI SỐNG (Đinh Quang Anh Thái)




Thứ Tư, ngày 30 tháng 4 năm 2014


Ảnh tư liệu: Ðinh Quang Anh Thái

Ðối với nhiều người Việt hiện nay đang tỵ nạn rải rác tại nhiều quốc gia trên thế giới, Biển Ðông là ám ảnh của nỗi chết và cũng là cửa ngõ của sự tái sinh. 

Kể từ biến cố 30 tháng Tư năm 1975, Biển Ðông đã vùi chôn bao nhiêu thân xác những người lao mình vào sóng dữ để trốn chạy một chế độ tàn bạo. 

Và nếu thoát, thì Biển Ðông cũng là hải trình đến cửa Tự Do.

Tự Do, niềm khao khát sục sôi của nhân loại. Nhất là với những người như dân tộc Việt Nam. 

Những người may mắn đến được bến bờ, ngày rời đảo tỵ nạn đi định cư tại các nước thứ ba, mấy ai dám nghĩ, sẽ có lúc trở về thăm lại nơi từng dung chứa mình những ngày đầu hít thở không khí Tự Do.

Vậy mà nhiều người đã trở lại.

Sáng 20 tháng Ba 2005, mặt trời vừa nhú trên biển, một buổi lễ cầu siêu do Hoà Thượng Thích Giác Nhiên chủ trì được tổ chức trang nghiêm trên bờ biển Merang-Malaysia. Sau đó, mọi người lên hai con tầu hướng ra khơi để bắt đầu chuyến đi cầu vong cho những người thác oan trên đường tìm kiếm Tự Do. 

Từng đợt sóng cao nhồi con tầu, có lúc tung con tầu lên cao rồi đập mạnh xuống mặt biển. Ðã có người non thốc nôn tháo, mặt tái xanh như tầu lá. 

Bốn giờ đồng hồ hải hành, tầu ra gần tới hải phận quốc tế. Các Năng Ni cùng các Phật tử bắt đầu nghi thức cầu siêu. Nhìn quanh, nhiều người nước mắt dàn dụa. Biển xanh đen, sóng lắc con tầu nghiêng ngả, y như ngày nào đối diện cái chết trên Biển Ðông. Từng cánh hoa được thả xuống biển, một nghĩa cử tượng trưng lòng nhớ thương người khuất mặt. Tiếng gõ mõ tụng kinh lẫn vào tiếng sóng, trong khi hàng trăm quả bong bóng đủ mầu được thả lên trời, những mong sao các oan hồn tức tưởi sớm siêu thoát. 

Mặt trời vừa dịu nắng, hai chiếc tầu chở đoàn người ra biển cầu siêu về bến lúc sập tối.

Mười một giờ đêm, trời tối mịt, biển gào thét. Trong bối cảnh đó, Linh mục Nguyễn Hữu Quảng cử hành thánh lễ cầu siêu theo nghi thức Công Giáo bên trong hội trường của khách sạn. Ngoài bờ biển, 30 Tăng Ni và cả trăm Phật tử cầu siêu theo nghi thức Phật Giáo. 

Gió giật từng cơn khiến hàng nến lúc tỏ lúc mờ. Gió cũng làm những nén nhang lập lòe huyền bí. 

Tiếng chuông mõ lẫn trong tiếng sóng xô vào bờ, từng đợt pháo bông phụt lên trời, ánh sáng xanh lóe lên rồi lịm tắt, như một lời nhắc nhớ  những đêm nào lênh đênh trên biển, những phận người đi tìm đất sống đã đốt các đống quần áo trộn với dầu để hy vọng ánh sáng sẽ đánh động lương tâm thủy thủ đoàn của các thương thuyền tại hải phận quốc tế dừng lại cứu vớt. 

Một tiếng nói phụ nữ thì thầm trong đám đông yên lặng: 
"Phải tin có linh hồn. Chính tai tôi và nhiều người trên cùng tầu với tôi khi vượt biên đã nghe tiếng than khóc vọng từ đáy biển. Tôi tin là những người thác oan đã cứu chúng tôi".

Chín giờ sáng ngày 21 tháng Ba, hơn 150 người đến từ Uùc, Mỹ, Gia Nã Ðại, Pháp, Thụy Ðiển nôn nóng chờ đợi tại bến tầu Merang thuộc tiểu bang Terangganu-Mã Lai Á, mong con nước lên để xuống phà ra khơi thăm đảo Bidong.

Chuyến đi được đặt tên là "Về Bến Tự Do" và do ông Trần Ðông, kỹ sư điện toán hiện ở Uùc và cũng là sáng lập viên Archive of Vietnamese Boat People cùng với Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Pháp chủ Giáo hội Tăng già Khất sĩ Thế giới, phối hợp tổ chức. Phái đoàn gồm có khoảng 30 Chư Tôn Ðức Phật giáo, trong số đó có  có 8 vị sư từ Việt Nam sang , Linh mục Nguyễn Hữu Quảng ở Uùc, và những người hầu hết từng xuất thân ở hai trại tỵ nạn Bidong-Mã Lai Á và Galang-Nam Dương. Ðặc biệt có sự tham dự của ba Soeur Công giáo, là những người đã từng làm thiện nguyện  nhiều năm giúp nguời tỵ nạn tại Biđong.

Như một trùng hợp ngẫu nhiên đến lạnh người, 11 giờ con nước vẫn chưa lên. Mười hai giờ con nước vẫn còn thấp. Hai chiếc tầu lớn không thể nào rời bến. Tâm lý chờ chực nhắc nhớ mọi người những giây phút âu lo chờ "cá nhỏ" để lên "cá lớn" như ngày nào đành đọan phải bỏ nuớc ra đi. 

Mọi người chuyện trò râm ran, nhưng nội dung chỉ xoay quanh những kinh nghiệm hãi hùng của những ngày vượt biển. 

Anh Lê Quang Nghĩa, phóng viên Ðài Á Châu Tự Do, giọng nói sũng nước mắt: 
"Tôi khóc suốt đêm hôm qua vì nhớ con gái. Cháu mất trên biển lúc cháu vừa 9 tuổi. Trên bàn thờ ở nhà, mỗi khi cúng giỗ, nhìn di ảnh cháu là cả nhà òa khóc. Cô ruột của cháu cũng bỏ mình trong chuyến đi đó".

Cô Huỳnh Mộng Châu, lúc đến Bidong năm 1983 mới được 13 tuổi. Cô nói, giọng xa vắng: 
"Tầu có hơn 200 người. Sau 22 ngày trôi dạt trên biển, không còn nước uống, cạn thực phẩm, trẻ em và phụ nữ kiệt sức dần, và bắt đầu có người chết. Có em bé vục mặt chết ngay đáy khoang tầu. Xác những người xấu số bị ném xuống biển. Làm sao em quên đuợc những ngày hãi hùng đó. Cuộc ra đi đã thay đổi em hoàn toàn, và suốt phần đời còn lại, em sẽ không còn được niềm vui nào trọn vẹn, cũng chỉ vì những ám ảnh không rời của tuổi 13". 

Chuyện của người nào nghe cũng nát lòng, như bản du ca cuối cùng của những phận người đi tìm đất sống.
Chờ mãi con nước vẫn chưa lên đủ để tầu lớn  có thể rời bến ra khơi. Ban tổ chức quyết định đưa tầu ra khỏi cửa biển và chỉ chở theo một số ít người nhằm tránh cho tầu bị mắc cạn vì sức tải quá nặng. Số người còn lại lên hai tầu nhỏ và được chuyển sang tầu lớn nơi cửa biển.

Có khác gì cảnh vượt biển trước kia?

Gần ba giờ chiều, tầu đã đến Bidong nhưng vẫn không cập được vào bến, chỉ vì con nước vẫn còn thấp. Thế là từng 10 người một xuống xuồng nhỏ để vào bờ.

Bidong trông sao mà tiêu điều, vắng lặng, khác hẳn thời còn thuyền nhân tạm dung để chờ ngày lên đường định cư. Chiếc cầu Jetty xưa kia đón nhận những người mới đến và chứng kiến người đi định cư, nay đã xập một đoạn dài, phần còn lại ọp ẹp tròng trành vì sóng nước. Bãi biển Bidong vẫn còn xác của con tầu sắt sừng sững ngày nào nhưng nay đã hen rỉ, phần mũi tầu trồi lên mặt cát, đuôi tầu ló lên tận bên trong những bụi cây rậm rạp của đảo. 

Nhiều người đã không cầm được nước mắt khi nhìn thấy cảnh cũ hoang tàn đỗ nát như thế. 

Hầu như Bidong chỉ còn rừng cây mọc chằng chịt và bãi cát trắng nguyên vẹn như ngày xưa. Những barrack từng là chốn nương thân của người tỵ nạn, nay chỉ còn vài ba cái đã đổ nát, mục rữa, chung quanh cỏ mọc xanh rì. Khu văn phòng Cao uỷ Tỵ nạn Liên hiệp Quốc cũng chung một số phận. Vì kể từ khi thuyền nhân cuối cùng rời đảo đi định cư vào tháng 11 năm 1990, Bidong đã trở thành đảo hoang, thỉnh thoảng mới có ngư dân ghé vào đảo để tránh bão. 

Tại Ðồi Tôn Giáo nhìn ra biển, khung cảnh gây nát lòng cho những người từng sống ở Bidong. Nhà thờ Công Giáo không còn gì ngoài cây Thánh Giá trắng trên bức tường úa màu thời gian; nhà thờ Tin Lành cũng vậy, thậm chí không còn biểu tượng của Ðấng Cứu Thế; khu thờ tự của Ðạo Cao Ðài chỉ còn lại dấu vết một tấm bảng chữ còn chữ mất; và Chùa Từ Bi thì thật thảm thương: nóc chùa bị tróc, bảng chùa rơi nghiêng xuống đất chỉ còn dính lơ lửng vào một cột chùa, tất cả tượng Phật Bà Quan Aâm, tượng Ðấng Chí Tôn đều bị kẻ ác chặt mất đầu. 

Còn chăng chỉ là những tấm bảng khắc nghuệch ngoạc trên đá với nội dung tạ ơn Ðức Mẹ, tạ ơn Phật Bà Quan Aâm. Dù vậy, sóng biển, gió núi cũng làm hoen mờ những lời bầy tỏ lòng thành kính biết ơn của những người may mắn đặt chân đến bến bờ Tự Do.

Ảnh tư liệu: Ðinh Quang Anh Thái

Ðứng trước cảnh hoang phế của Ðồi Tôn Giáo, anh Nguyễn Hoàng Dũng, đến từ miền Nam California nói trong nỗi ngậm ngùi: 
"Vào lúc cao điểm của làn sóng tỵ nạn, khoảnh núi nhỏ bé này đã là nơi dung chứa gần 60 ngàn thuyền nhân. Tôi từng quanh quẩn ở khu này nhiều tháng trời trước khi rời đảo. Buồn lắm, vì mình đi được trong khi nhiều người vùi thây dưới biển sâu. Và nhớ lắm, những người đã có thời chia nhau những vui buồn đời tỵ nạn".

Nằm về phiá vùng duyên hải phía Ðông của Mã Lai Á, cách bờ biển của bang Terangganu khoảng 30 cây số đường chim bay, không phải bây giờ Bidong mới là hoang đảo. Trước tháng Tư năm 1975, Bidong cũng không hề có người lai vãng. Họa hoằn mỗi khi sóng to biển dữ, dân đánh cá bản xứ mới tắp vào tránh gió bão.

Chính người tỵ nạn Việt Nam đã đem sinh khí đến cho đảo. Ðợt thuyền nhân đến đảo đầu tiên là năm 1975, lúc cộng sản vừa cưỡng chiếm miền Nam. Sau đó, làn sóng liều chết ùa ra Biển Ðông để tìm Tự Do ngày càng nâng cao số người đến Bidong khiến chính phủ Mã Lai Á phải quyết định biến hòn đảo này thành nơi dung chứa người tỵ nạn, và đồng thời cấm dân bản xứ lai vãng. Cao điểm của làn sóng thuyền nhân đến Bidong là khoảng thời gian từ năm 1978 đến 1990, với số người lần lượt đến đảo tạm dung rồi đi định cư là 245,513 người, trong đó có trên 4,000 trẻ chào đời tại đây.

Chính phủ Mã Lai Á tuyên bố đóng cửa trại tỵ nạn Bidong vào tháng 11 năm 1990, khi thuyền nhân cuối cùng giã từ cầu Jetty để lên đường định cư tại các quốc gia thứ ba. Từ đó cho đến tháng 9 năm 2004,  chính phủ Mã Lai Á mới có ý định phát động kế hoạch bảo tồn hòn đảo này như một di tích của người tỵ nạn Việt Nam.

Ðích thân Thủ hiến tiểu bang Terangganu đã đến thăm đảo, và sau đó ký sắc lệnh thành lập Bidong Heritage Fund nhằm vạch ra kế hoạch bảo tồn những di tích của người tỵ nạn và phát triển hòn đảo trở thành nơi du lịch. Hiện nay, chính phủ Mã Lai Á đang kêu gọi các tổ chức tư nhân và người Việt từng tỵ nạn tại Bidong góp tay để tiến hành các kế hoạch nói trên. 

Sau bữa cơm trưa theo lối dã chiến vào lúc 3 giờ chiều, hai nghi lễ tôn giáo đã được tổ chức ở Ðồi Tôn Giáo để cầu siêu cho những người chết oan khuất trên đường vượt biển.

Các Tăng Ni và Phật tử làm lễ tại ngôi chùa Từ Bi đổ nát, cùng lúc với thánh lễ do Linh mục Nguyễn Hữu Quảng chủ trì tại nhà thờ Công Giáo xiêu vẹo.  Sau đó là lễ cắt băng khánh thành tấm bia bằng đá, trên có khắc hình hai bàn tay nhô lên mặt biển vói ngọn đuốc Tự Do và giòng chữ viết bằng tiếng Anh, nội dung tri ân Liên Hiệp Quốc, Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế, Hội Lưỡi Liềm Ðỏ Mã Lai Á và chính phủ các nước đã cưu mang giúp đỡ thuyền nhân Việt Nam. 

Một viên chức đại diện chính phủ tại Terrangganu đã cùng Hòa Thượng Thích Giác Nhiên và Linh mục Nguyễn Hữu Quảng cắt băng khánh thành tượng đài trong tiếng pháo đốt mừng. 

Với sự có mặt đông đảo của báo chí người bản xứ và các cơ quan truyền thông như SBS, BBC, RFA, Little Saigon Radio, tuần báo Việt Tide, New Saigon Radio, Little Saigon TV, VNTV, tin tức về chuyến đi  về Biển Ðông đã được đăng tải chi tiết trên báo chí địa phương cũng như tường thuật đầy đủ tại nhiều quốc gia. Mọi diễn tiến và sắp xếp đều do công của ban tổ chức, đặc biệt là của ông Ðông Trần và Hòa Thượng Thích Giác Nhiên. 

Mặt trời sắp lặn, mà nhiều người vẫn không nỡ rời cầu tầu Jetty. Phát ngôn viên của ban tổ chức là anh Quốc Việt, dù hiểu tâm trạng lưu luyến đó, vẫn phải gắt lên thì mọi người mới chịu lên tầu rời Bidong để kịp về Merang dự buổi tiếp tân do các viên chức cao cấp của tiểu bang Terangganu khoản đãi.

Ngày mai em đi
Biển nhớ tên em gọi về...

Bài hát của Trịnh Công Sơn mỗi lần có chuyến đi định cư những ngày Bidong còn là trại tỵ nạn tưởng vẫn còn vang trên sóng nước.

Ba chiếc tầu nối đuôi nhau chạy một vòng quanh đảo. Mặt trời nhạt nắng, sóng biển nhấp nhô đen ngòm. 
Một anh đến từ Paris nói: 
"Buồn quá ha! Biết bao giờ mới có dịp gặp lại Bidong lần nữa?. 

Vâng! Thương người đã khuất, nhớ người còn. Làm sao mà vui được! 

Biển Ðông sóng dữ và những nấm mồ không hương khói 

Bà Lưu Quý Liên là cư dân của thành phố Gardena, California. Bà Liên cùng chồng, hai đứa con, mẹ ruột và người chị vượt biên năm 1978, trên một chuyến tầu chở hơn 200 người và sau 2 tuần lênh đênh trên biển, tầu cập vào Bidong. 

Bà Liên có 4 người em trai, lần lượt từng người đã đào thoát khỏi Việt Nam và đến được vùng đất Tự Do, cũng trên đất Mã Lai Á. Khi chuyến tầu của bà cập bãi Bidong, ngay sau đó một ngày, trong cuộc phỏng vấn của nhân viên Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc, bà biết 4 em của bà đã được chuyển vào trại trong đất liền chứ không còn ở Bidong nữa.

Tin về 4 người con đã làm mẹ bà Liên xuống tinh thần. Tội nghiệp cụ. Lúc xuống tầu rứt áo bỏ nước ra đi, cụ những mong xum họp với các con nơi bến bờ tự do. Muộn phiền khiến cụ trở bệnh và phải đưa sang nhà thương ở Terrengganu chữa trị. Ðau đớn thay, cụ đã bỏ mình nơi đất khách quê người, chỉ vài tháng sau khi thoát khỏi một chế độ tàn bạo đang cai trị quê nhà của cụ. Lúc cụ lâm chung, bà Liên không có mặt bên cạnh mẹ. Chỉ có người chị của bà Liên chứng kiến giây phút nát lòng đó. 

Thi hài của cụ được chôn cất tại Terrengganu. 

Năm 1982, vợ chồng anh ruột của bà Liên về lại Terengganu với hy vọng cải táng mộ mẹ, đem cốt của cụ về cùng các con đang sống bên Mỹ. Tới nghĩa trang nơi có phần mộ của cụ, người anh bốc mộ nhưng không thấy hài cốt của mẹ. Hỏi thăm dân địa phương, người anh được biết, người Mã Lai đã dời mộ bia ra chỗ khác để cất nhà ngay trên nấm đất chôn cất cụ. Bây giờ, dấu vết nơi an nghỉ cuối cùng của cụ đã bị xóa nhòa, không cách nào tìm được.

Trước hoàn cảnh xé ruột xé gan như thế, anh của bà Liên đành tiến hành nghi thức tôn giáo, dùng vải đỏ quấn tấm bia mộ của mẹ, rồi mướn thuyền ra khơi thả tấm bia xuống lòng đại dương bao la. Người anh của bà Liên trước khi rời Terengganu, đã hốt đem về Mỹ một nắm cát để thờ phụng với lòng mong mỏi là hồn thiêng của mẹ sẽ luôn hiển linh bên các con.

Sáng ngày 22 tháng Ba, 2005 tại khu mộ tập thể vô danh của 137 thuyền nhân xấu số được chôn cất tại một trong bốn nghĩa trang ở Terrengganu-Mã Lai Á, bà Liên khóc nấc lên khi nghĩ đến mẹ. Bà bảo, cho dù biết trước là sẽ không nhìn thấy mộ mẹ, bà Liên  vẫn về đất Mã cùng  các Tăng Ni với lòng tin rằng, lời tụng niệm của các Tăng Ni sẽ giúp mẹ của bà siêu thoát nơi cõi Niết Bàn. 

Khóc bên mộ chồng lạnh tanh hương khói. 

Bà Trần Thị Tiên hiện định cư tại Úc. Bà đến đảo Galang năm 1985, 7 tháng sau chuyến vượt biên của chồng. Hai người đoàn tụ trên cùng hòn đảo của Nam Dương.

Ba năm mỏi mòn trên đảo chờ được nhận đi định cư, những tưởng sẽ được sống với nhau suốt phần đời còn lại, không ngờ nửa đường đôi chim di gẫy cánh. Chồng bà Tiên bỏ bà năm 1988. Oâng nằm lại tại  nghĩa trang trên đảo Galang, chung quanh là 502 thuyền nhân bất hạnh khác.

Từ ngày rời đảo đến nay, bà Tiên không từ bỏ mong ước cải táng mộ chồng và xem hài cốt chồng về với bà nơi đất Uùc. Nhưng vẫn chưa được, vì chưa có giấp phép của chính quyền Nam Dương. 

  Hai giờ trưa ngày 24 tháng Ba, dưới cái nắng thiêu đốt của đảo, bà Tiên mọp bên mộ chồng. Khóc ngất.
Trước mộ phần chồng bà Tiên, Linh mục Nguyễn Hữu Quảng cùng các tín đồ Công giáo làm Thánh lễ. Sau đó, các Tăng Ni Phật tử tụng kinh cầu siêu. 

Không khí rờn rợn,  như trong lời thơ của Ðinh Hùng:
"Trời cuối Thu rồi anh ở đâu
Nằm trong đất lạnh chắc anh sầu 
Thu ơi đánh thức hồn ma dậy!
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu".                                      

Kể từ khi đất nước bị quy về một mối, dưới ách cai trị bạo tàn của chế độ cộng sản, hàng triệu người Việt Nam đã đành đoạn phải gạt lệ bỏ quê nhà ra đi. Trên đường đào thoát tìm Tự Do, nhiều người đã vùi thân đáy biển. Một số người tới được cửa ngõ của Tự Do là các trại tỵ nạn ở Ðông Nam Á, nhưng bất hạnh thay, đã thác nơi đất khách và xác thân chôn tại quê người

Số thác oan là bao nhiêu, không ai biết chính xác. Nhưng chắc là nhiều lắm. 

Tại Thái Lan, tại Phi Luật Tân, tại Hongkong, tại Macau, tại Nam Dương, tại Mã Lai Á, nơi nào có trại tỵ nạn Việt Nam, nơi đó có nghĩa trang của thuyền nhân. 

Tại đảo Galang ở Nam Dương, số mộ phần thuyền nhân là 503.

Trên đảo Bidong ở Mã Lai Á, nghĩa trang thuyền nhân vẫn còn đó.

Riêng tại tiểu bang Terrengganu trên đất Mã Lai, có 4 nghĩa trang, nơi đó người bản xứ, người Hoa gốc Mã, và người tỵ nạn Việt nằm an nghỉ cạnh bên nhau. Ngoại trừ một nghĩa trang chỉ có 4 mộ phần thuyền nhân, ba nghĩa trang còn lại, mộ phần người Việt rất nhiều. Nhiều ngôi mộ có bia đề tên tuổi người chết. Nhưng cũng có những mộ phần không tên tuổi. Hai trong 4 nghĩa trang tại Terrengganu có 4 ngôi mộ chôn tập thể những thuyền nhân chết oan khuất trên Biển Ðông.

Nhữmg người có công trong việc vớt xác thuyền nhân Việt Nam là dân bản xứ người Mã và người Mã gốc Hoa, trong đó có ông Alcoh Wong Yahow. Ông và các đồng bào người Mã gốc Hoa của ông đã chôn cất và vun xới các khu mộ tập thể của thuyền nhân tại Terrengganu. 

Theo lời ông Yahow, khoảng 4 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1979, trong lúc ông đang ngủ thì có người đập cửa và báo cho biết là có một chiếc tầu chìm ngoài khơi Mereng thuộc Terengganu. Cả hai ngày sau đó, ông và đồng bào ông cùng một số người Mã bản xứ dùng thuyền nhỏ đi vớt xác những người chết trên biển. Tổng số đem vào được đất liền là 137 thi thể đã tím ngắt. Không một nạn nhân xấu số nào có giấy tờ tùy thân. 

Sau đó, chính quyền địa phương đã đem chôn những người chết tại một nấm đất ở Terengganu. Nấm mồ tập thể đó, mãi tới năm 2003 mới được dựng một tấm bia ghi ngày tháng chôn cất những người dưới mồ. Và việc làm mộ bia cũng do sự vận động quyên góp của nhiều người bản địa và người Mã gốc Hoa.

Ông Yahow nói, "Chỉ dịp Tết Thanh Minh, chúng tôi mới có chút hương đèn đến tảo mộ những người chết tức tưởi đó. Còn ngày thường, ai cũng bận kiếm sống, dù nghĩ đến những nấm mồ không hương khói, chúng tôi cũng đành bó tay".

Không chỉ vớt và chôn cất thuyền nhân, ông Yahow còn lập một trang web với mục đích cung cấp một số thông tin ông đang có để gia quyến những người chết có thể tìm được mộ phần người thân của mình. 

Tình người của dân Mã Lai và cộng đồng ngưồi Hoa tại Terengganu đối với những thuyền nhân xấu số là một mẫu mực cho thấy, trước nỗi đau của con người, mọi biên giới chủng tộc và mầu da đã bị xóa nhòa, chỉ còn lòng thương cảm vô biên.

Về thăm Galang

Chiếc tầu tốc hành Wavemaster rời bến Tân Gia Ba được một lúc thì mắt của nhiều người trên tầu đã đỏ hoe. 

Ðoàn 150 người tham dự chuyến về thăm đảo Galang, hầu hết đã trải qua kinh nghiệm sóng dữ trên biển Ðông khi đào thoát tìm Tự Do, nên đều mang tâm trạng bồi hồi, xúc cảm khi sắp được nhìn lại hòn đảo từng là nơi dung chứa họ. 

Không bồi hồi xúc cảm sao được, khi dõi nhìn lại những ngày tháng cũ: đến Galang là đặt chân vào cửa sinh, bỏ lại sau lưng cửa tử. 

Ðoàn xe bus 4 chiếc di chuyển mất 35 phút thì bắt đầu tới con đường rẽ vào Galang. Trước kia, khi còn là trại tỵ nạn, muốn đi từ Tân Gia Ba đến Galang, người ta phải dùng tầu biển để cặp vào cầu Jetty. Từ 5 năm qua, con đường ngắn hơn vì tầu biển cặp bến Batam rồi dùng đường bộ vượt 6 cây cầu mới xây để vào Galang. 

"Ex Camp Vietnam": Tấm bảng làm nhói tim những người từng ở Galang. 

Galang ngày xưa không còn nữa! Những barrack biến đâu cả rồi, chỉ thấy cây cỏ mọc chi chít, xanh um. 

Con đường từ Galang 1 dẫn vào Galang 2, những con khỉ  dạn dĩ ra tận con đường tráng, ngơ ngáo nhìn đoàn người về thăm lại vùng đất từng là nơi họ tạm dung. Trước kia làm gì có cảnh đó, vì thuyền nhân ra vào tấp nập trên con đường này. 

Xưa kia, Galang 1 dành cho những người mới đến đảo và chờ làm thủ tục giấy tờ, đồng thời chờ được các phái đoàn phỏng vấn để đi định cư. Galang 2 là nơi dành cho những người đang chờ ngày rời đảo sau khi đã được nhận đi định cư ở các quốc gia thứ ba. Còn Galang 3 là cách gọi của dân tỵ nạn để nói về khu nghĩa trang chôn cất những người xấu số bỏ mình trên đảo.

Galang 1 không còn một dấu vết nào của những barrak một tầng trước kia. Thay vào đó là những cây rừng chi chít, phủ kín cả những con đường đất mà trước kia dập dìu người tỵ nạn. Phòng thông tin, Văn phòng Cao ủy Tỵ nạn, tòa soạn báo Tự Do, trụ sở Hướng Ðạo cũng biến mất. Các quán cà phê dọc con lộ cũng bị thiên nhiên xóa nhòa. Khu tỵ nạn của người Khmer, thời 1984 đã đổ nát lắm rồi, bây giờ chẳng còn lưu lại vết tích nào cả. 

Galang 2 thì chỉ khu "Zone Mỹ" - khu dành riêng cho những người được đi Hoa Kỳ - là còn một vài barrak, nhưng trần long, mái lở, vách siêu vẹo như chỉ cần một cơn gió lớn là ngã chúi xuống. Nơi đây những ngày cũ, biết bao người đã từng sống dưới sức nóng chẩy mỡ tỏa xuống từ mái tôn, nhưng sao mà vẫn hạnh phúc, vì trước mắt là tương lai thênh thang tại một xứ sở giàu đẹp, tự do. 

Galang 3 thì còn. Còn trong cảnh lạnh tanh không chút hương khói. Nghĩa trang có 503 ngôi mộ của những chết vì bệnh tật, chết vì rắn cắn hoặc bỏ mạng nơi đất khách vì tự tử với nhiều lý do khác nhau, trong đó có nỗi tuyệt vọng vì không được quốc gia nào nhận. 

Người cũ nay còn đâu?

Người cũ còn chăng là anh Abu, một người Nam Dương từng sống trên đảo suốt thời gian có thuyền nhân Việt Nam tạm dung nơi đây. Abu nói tiếng Việt bằng giọng lơ lớ: 
"Tôi nhớ người Việt lắm. Từ ngày đảo đóng cửa năm 96, nhiều lúc, tôi nói tiếng Việt với chính mình cho đỡ nhớ". 

Người dân Nam Dương thật nồng nhiệt. Dĩ nhiên, cũng có một số lính và cảnh sát coi đảo rất "cường hào ác bá" với dân tỵ nạn, nhưng đó không phải là tình cảm dân hải đảo. Phái đoàn vừa bước ra khỏi tầu Wavemaster đã được các viên chức và các thiếu nữ xinh đẹp của Batam chào đón. Mười người đại diện phái đoàn được các thiếu nữ choàng vòng hoa. Những người còn lại, ai cũng được một cánh hồng do các "bông hồng" Nam Dương xinh đẹp trao tặng. 

Ðoàn xe đi ngang khu nghĩa trang và một lần nữa, các viên chức Nam Dương đón phái đoàn tại Youth Center. Tại hội trường, một biểu ngữ nội dung chào đón phái đoàn căng ngang sân khấu. Ban vũ người Malay trình diễn một vũ điệu, sau đó từng cô, theo nghi lễ cổ truyền  tượng trưng cho lòng thành kính đối với khách, hai tay dâng tặng Hòa thượng Giác Nhiên, Linh mục Nguyễn Hữu Quảng, ông Trần Ðông những cánh hoa tươi đủ mầu sắc. 

Sau phần phát biểu chào mừng của đại diện chính phủ và đại diện phái đoàn, chủ và khách cùng tham dự bữa cơm trưa với những món hải sản nấu đúng hương vị dân bản xứ. Dừa tươi được mọi người yêu thích nhất. Nước dừa mát lạnh đã hạ được cơn khát do sức nóng hầm hập táp vào da mọi người.

Buổi lễ khánh thành bia tưởng niệm thuyền nhân diễn ra rất trang trọng ngay tại địa điểm có 4 con tầu từng là phương tiện để thuyền nhân vượt biển tìm tự do. Một trong 4 con tầu đã mục nát, chỉ còn những khung gỗ. Ðây là sáng kiến của chính quyền Nam Dương nhằm lưu lại dấu tích của một giai đoạn lịch sử trên đảo Galang, khi hàng trăm ngàn người Việt Nam lao vào sóng dữ để trốn chạy một chế độ tàn bạo tìm đất sống đúng với nhân phẩm con người. 

Ngoài 4 con tầu nói trên, chính quyền trên đảo còn xây một nhà thờ Công giáo, ngay trước sân là tượng Ðức Mẹ Maria đứng trên một con thuyền bằng xi măng, minh họa lòng biết ơn của những người tỵ nạn được Ðức Mẹ Nhân Từ cứu vớt trên biển Ðông. Cạnh nhà thờ là ngôi chùa Phật giáo với ba bức tượng Ðấng Chí Tôn, trong đó một bức Tượng Phật Nằm trông hiền hòa, khoan thứ. Trên đỉnh đồi trong khoảnh đất từng là Galang 1 trước kia, một ngôi chùa khác, kích thước to lớn đã hoàn tất công trình xây dựng và do một số Tăng Ni người Hoa chủ trì.

Theo lời một Ni Sư, Galang có nhiều hiện tượng linh thiêng, nên rất nhiều du khách từ Trung Quốc, Ðài Loan, Hongkong, Nhật đến đây, mang theo nhang đèn để cầu phước. 

Những phụ nữ còn rơi lại nơi cầu Jetty. 

Vài phút trước khi đoàn người rời Galang để lên tầu  về lại Tân Gia Ba, tin tức về một số phụ nữ Việt Nam đang sống tại cầu tàu Jetty trên đảo khiến mọi người xốn xang. Làm sao bây giờ? Làm sao đi thăm đồng bào mình, vì chiếc Wavemaster đang chờ để rời bến.

Theo lời Linh mục Cornelius Habakuk, một người Nam Dương gốc Hoa đã từng giúp thuyền nhân Việt Nam tại Galang nhiều năm trước, thì khi chính quyền quyết định đóng cửa trại tỵ nạn năm 1996, lúc đó còn khảng 100 phụ nữ bị rớt thanh lọc đang chờ ngày bị trục xuất về Việt Nam. Trước tình cảnh đáng thương đó, Linh mục Habakuk đã giúp những phụ nữ này lấy chồng người Nam Dương. Nhờ vậy, một số đã theo chồng qua các đảo khác sống, còn một số hiện buôn thúng bán bưng ngay cầu tầu Jetty. Linh mục Habakuk còn nhờ các cơ quan truyền thông Việt Nam loan báo tin này và tin về ông với hy vọng từ đó,  ông có thể bắt lại được liên lạc với những thuyền nhân trước kia từng quen biết ông nhưng hiện nay đang sống rải rác ở các nước thứ ba.

Trời tối mịt, con tầu rú máy lao ra khơi, để lại Galang chìm lỉm phía sau trong bóng đêm âm u của rừng, của núi. 

Ðứng ở đuôi con tầu, kẻ viết bài tưởng chừng như vẫn nghe vang vọng đâu đây tiếng hát của một giọng nữ ngày nào trên đảo, bài tỵ nạn ca của Trần Quốc Bảo:
...
Ðêm nay mưa trên đảo nghe nhớ quê nhà
Ðường tạm dung, một mình ta lặng lẽ
Khẽ kêu tên ai nước mắt tuôn trào
Oâi Galang mưa rơi lạnh lòng
Trùng dương nào chia cách đôi ta.
...



No comments:

Post a Comment

View My Stats