Ngô Nhân
Dụng
Friday, May 02, 2014 5:48:28 PM
Ngày 30 Tháng Tư năm 2014, lần đầu tiên người dân miền Nam Việt Nam đã can đảm xuống đường, không phải để ca ngợi mà để chống chính quyền. Họ trưng những biểu ngữ công khai nói lên những sự thật, sau 39 năm bị bịt miệng: 30-4 NGÀY TANG DÂN TỘC! 30-4 DÂN VIỆT MẤT QUYỀN CON NGƯỜI!
Tại sao cuộc biểu tình này có thể thực hiện trong
một ngày “nhạy cảm” như vậy?
Vì kỹ thuật tổ chức của dân Việt ngày càng tinh vi,
nhưng cũng vì chính quyền không thể gán cho những người biểu tình tội “chống
Cộng” trong ngày 30 Tháng Tư, cho công an đàn áp ngay lập tức. Nhìn trong hình
thấy những bạn trẻ và các em bé chưa sinh ra trước ngày 30 Tháng Tư năm 1975.
Có cả những bà già có con đi theo cộng sản và chết, cho các quan chức bây giờ
được hưởng giàu sang. Những người biểu tình đeo khăn tang trên đầu, trên đó
viết chữ tự giới thiệu họ là những “dân oan.” Dân Oan một danh từ thường chỉ
chung những người đã bị đảng cộng sản cướp ruộng, cướp đất để khai thác chia
phần cùng với đám tư bản đỏ.
Nhưng tại sao dân biểu tình không bị đàn áp, có thể
rất dã man như những cụ già, phụ nữ, trẻ em, ở Dương Nội, Văn Giang chống cướp
đất đã bị đánh đập?
Vì chính quyền địa phương và guồng máy công an tại
Dương Nội, Văn Giang có quyền lợi thiết thực cho họ khi đảng cướp đất của nông
dân. Trên dưới tất cả đều được “chấm mút” trong những công trình rút ruột này.
Còn guồng máy công an và chính quyền tại Sài Gòn thường không được ăn miếng nào
khi các đồng chí lãnh đạo Bạc Liêu hay Cần Thơ cướp ruộng đất của nông dân. Có
ngu gì mà họ lại chấp nhận cảnh đứa khác ăn ốc để mình phải đi dọn vỏ?
Cũng trong ngày 30 Tháng Tư năm 2014, một Hội Dân
Oan Việt Nam ra đời. Trước đó ông Nguyễn Xuân Ngữ đại diện dân oan phía Nam đã
gặp gỡ nhiều dân oan các tỉnh phía Bắc, đồng ý chọn ngày 24 Tháng Tư làm Ngày
Dân Oan Việt Nam.
Cuộc
nội chiến Việt Nam đã chấm dứt từ năm 1975. Ngay sau đó cho tới bây giờ, một
cuộc chiến mới diễn ra. Một bên là chính quyền độc tài, tham nhũng, bất lực và
thối nát. Bên kia là người dân đấu tranh đòi quyền sống làm người, quyền được
hưởng tự do dân chủ. Những sinh viên học sinh, những nhà trí thức, và có những
nông dân chân lấm tay bùn cùng tham gia mặt trận đấu tranh.
Sau 39 năm, dân Việt vẫn phải đấu tranh đòi quyền
sống làm người, đòi được hưởng những quyền tự do tối thiểu như được nói, được
suy nghĩ, được hội họp tự do. Sau 39 năm, dân Việt Nam vẫn nghèo khó nhất trong
vùng Á Ðông. Trong những năm tới còn lo sẽ nghèo hơn cả người Campuchia, người
Lào. Sau 39 năm, mối họa phương Bắc cho thấy chính sách ngoại giao “cõng rắn
cắn gà nhà” từ năm 1950 đã gây họa trường kỳ cho dân tộc như thế nào. Cho nên
những người biểu tình năm nay đã nói đúng sự thật: 30 Tháng Tư năm 1975 là một
Ngày Tang của Dân Tộc. Cảnh nghèo nàn chậm tiến, mất tự do và lệ thuộc ngoại
bang hiện nay có thể đoán trước được từ ngày 30 Tháng Tư năm 1975, khi thi sĩ Nguyễn
Chí Thiện ngồi ở trong tù cũng nhìn thấy “Một mối nhục nhằn, một mối đau
thương” trùm lên đất nước.
Bài trước trong mục này kể lại những ngày kết thúc
cuộc nội chiến ở nước Mỹ vào Tháng Tư năm 1865; nhân ngày 30 Tháng Tư. Cả bài
chỉ kể chuyện về cung cách đối xử của những người chỉ huy miền Bắc nước Mỹ đối
với người miền Nam thua trận. Những gì xảy ra ở nước ta vào năm 1975 thì chắc
quý vị độc giả đã biết cả rồi. Khi đọc bài, chắc thế nào quý vị cũng nảy ra ý
so sánh cảnh các cuộc nội chiến kết thúc, ở Mỹ vào thế kỷ 19 và ở Việt Nam
trong thế kỷ 20.
Cuộc chiến tranh nào cũng tàn khốc, và gây nên nỗi
hận thù. Nhưng khi quân miền Bắc chiếm Richmond, Tổng Thống Abraham Lincoln vào
thủ đô của chính phủ miền Nam. Richmond lúc đó đã vô cùng hỗn loạn vì các cuộc
cướp phá, đốt nhà, hôi của. Khi Tướng Weitsel hỏi ý kiến nên đối xử với người
miền Nam thế nào, Lincoln bảo: “Hãy cho họ dễ dàng - Let 'em up easy!” Ông bị
nhiều người phản đối, kể cả phó tổng thống của ông, và vị bộ trưởng chiến
tranh. Vì vậy, khi nghe tin ông bị ám sát, người miền Nam lo lắng cho số phận
của họ. Vị tướng miền Nam Joseph Johnson đã nói với Tướng William Sherman miền
Bắc, khi hai người gặp nhau thảo luận về điều kiện đầu hàng: “Ðây là tai họa
lớn nhất cho miền Nam!” Nhưng sau cùng, tai họa cũng không xảy ra. Khi còn đang
đánh nhau, Tướng Sherman từng nói với dân và quân miền Nam rằng: “Khi nào hết
chiến tranh, các bạn cần gì cứ tìm đến tôi! Nếu tôi có mấy cái bánh cracker, sẽ
chia sẻ với bạn; tôi sẽ bảo vệ gia đình các bạn.” Hai ông tướng bàn bạc mất mấy
ngày mới đồng ý về điều kiện đầu hàng, cho quân sĩ miền Nam được tự do trở về
nhà, mang theo ngựa hoặc lừa, để cầy bừa vườn ruộng. Sau đó, Tướng Sherman còn
quyết định cung cấp cho tất cả 25,000 quân sĩ còn lại của Tướng Johnson mỗi người
mười ngày lương thực.
Sherman biết kho lẫm miền Nam đã cạn kiệt, chắc ông
muốn những địch quân của mình, trên đường trở về nhà không ai phải đi xin ăn
hay cướp bóc. Ðiều này không nằm trong các điều kiện đầu hàng đã ký kết. Khi
“Old Joe” Johnson nhận được “quà tặng bất ngờ” đó, ông thẳng thắn ca ngợi:
“Lòng yêu nước lớn lao” của vị tướng đối nghịch. Trước đây ông vẫn nghĩ rằng
phải đối đầu với Tướng Sherman trên chiến trường nỗi bất hạnh của đời mình; nay
hóa ra đó lại là điều may mắn cho cả đạo quân dưới quyền.
Nghĩ đến cảnh những người lính miền Nam nước Mỹ đem
theo mười ngày lương thực trên đường về nhà, lại nhớ đến cảnh ở Việt Nam, sau
ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Các sĩ quan và công chức miền Nam từ giã gia đình,
“đem theo lương thực đủ dùng trong mười ngày;” có người đem theo đủ một một
tháng, như ghi trong giấy mời trình diện. Họ ôm theo thức ăn, và quần áo, xà
bông, khăn mặt, kem đánh răng, tự mình đi vào tù, ai cũng nghĩ rằng sẽ chỉ phải
“học tập” một tháng là xong. Các lãnh tụ cộng sản ở Hà Nội tự vỗ bụng khen mình
là “đỉnh cao trí tuệ” vì đã bày mưu đánh lừa được mấy trăm ngàn người tự nguyện
chui đầu vào cái thòng lọng họ đã giương ra, sẵn sàng siết cổ. Bản thân ký giả
này, nếu không may mắn thoát đi trước, chắc cũng đã tự nguyện chui đầu vào cái
thòng lọng đó.
Nhiều người sẽ tự hỏi: Có phải người Mỹ vào thế kỷ
19 họ hiền lành, tử tế với nhau hơn người Việt Nam 110 năm sau hay không? Tôi
không nghĩ như vậy. Ðã đi qua nhiều nước và đọc truyện kể từ nhiều nơi, tôi vẫn
tin chắc rằng loài người ở đâu cũng như nhau, không ai tốt hơn mà cũng chẳng ai
xấu hơn ai.
Vậy thì tại sao chính quyền miền Bắc nước Mỹ, các
tướng lãnh và quân đội của họ lại đối đãi tử tế với những đạo quân miền Nam và
dân chúng miền Nam thua trận như vậy? Vì vào năm 1965, chế độ dân chủ ở nước Mỹ
đã được thực hiện hơn nửa thế kỷ. Một nguyên nhân chính gây nên cuộc nội chiến
là các tiểu bang miền Nam không công nhận người da đen có quyền công dân như
người da trắng, trong khi miền Bắc đã làm luật giải phóng nô lệ. Nhưng trong
thời gian nội chiến 4 năm, chính quyền cả hai miền đều dùng các Hiến Pháp bảo
đảm các công dân được bầu cử tự do, báo chí tự do, hội họp tự do, bộ máy nhà
nước phải tôn trọng hiến pháp, luật pháp và các công dân có quyền bình đẳng
trước pháp luật. Với thể chế tự do, những người lãnh đạo phải theo ý dân. Mà
dân chúng nước nào thì cũng sẵn sàng bao dung, đùm bọc đồng bào của mình.
Vào năm 1975, chế độ miền Nam Việt Nam được đặt trên
nền tảng dân chủ, mặc dù chưa vì trong cảnh chiến tranh không được đầy đủ như
nhiều người dân mong muốn. Tại miền Bắc thì chế độ cộng sản hoàn toàn bác bỏ
các quy tắc dân chủ, coi đó là một sản phẩm của chủ nghĩa tư bản. Nhưng nguyên
nhân chính khiến cho chế độ miền Bắc thắng trận đối xử với quân và dân miền Nam
một cách khắc nghiệt tàn tệ, là vì họ theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin.
Theo Mác-Lê Nin là theo một “tín ngưỡng,” mặc dầu
vẫn là vô thần. Những người cộng sản tin những điều Mác-Lê Nin nói đều là “chân
lý” tuyệt đối, không khác gì tín đồ các tôn giáo thời Trung Cổ. Tinh thần cuồng
tín đó được nhồi sọ cho các đảng viên cộng sản, bảo họ chia thế giới ra làm hai
phần; những người theo mình là bạn, còn tất cả những người khác ý kiến là kẻ
thù. Và đối với kẻ thù, họ không cần áp dụng các quy tắc luân lý cũng như luật
pháp nào cả. Cho nên họ tha hồ dùng thủ đoạn lừa gạt, dối trá, tha hồ dùng bạo
lực, cho đến việc thu hộ khẩu, cắt tem phiếu, và bây giờ là thu hồi quyền sử
dụng đất, để bắt mọi người phải phục vụ cho mình.
Các đảng viên cộng sản được đào tạo như vậy từ khi
xin vào đảng, từ 1920, 30 cho tới năm 1975 vẫn như vậy. Trong thế giới cộng sản
tình cảm giữa người với người bị xóa bỏ, thay vào đó là lòng trung thành tuyệt
đối với Ðảng (viết hoa), tức là sẵn sàng tuân lệnh cấp trên. Những người như Lê
Duẩn, Trường Chinh, Lê Ðức Thọ đã được đào tạo như vậy.
Ðược “giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lê Nin” cho nên các
lãnh tụ cộng sản vào năm 1975 trong lòng coi tất cả dân, quân miền Nam không
phải là người, không phải là “đồng bào;” mà chỉ là những kẻ thù của cuộc cách
mạng vô sản toàn thế giới.
Người Việt Nam bình thường không đối xử với nhau tàn
tệ như bọn lãnh tụ cộng sản vào năm 1975. Nếu được bỏ phiếu lựa chọn, chắc chắn
dân chúng miền Bắc không ai nỡ bắt dân chúng miền Nam phải qua cảnh tập thể
hóa, đánh tư sản, tù cải tạo. Vì chính họ đã bị đem ra làm thí nghiệm cho chủ
nghĩa cộng sản mấy chục năm rồi! Chính chủ nghĩa cộng sản đã biến dân Việt
Nam thành kẻ thù đối với nhau, chia rẽ cả dân tộc khắp mọi nơi chứ không chỉ
chia hai miền Nam Bắc.
Một độc giả mới gửi thư hỏi, “Tại sao nội chiến Mỹ
người ta nhanh bỏ qua, còn ở Việt Nam thì sau 39 năm rồi vẫn còn còn nhiều việc
phải làm?”
Câu trả lời là: Vì suốt 39 năm qua, dân Việt Nam vẫn
phải tiếp tục sống dưới quyền cai trị của một đảng cộng sản.
No comments:
Post a Comment