Được đăng ngày Thứ năm, 01 Tháng 5 2014 13:31
Liên hiệp quốc lấy ngày 3 tháng 5 hàng năm làm Ngày
Tự do báo chí thế giới. Nhân dịp này, năm nay tại Quốc hội Mỹ vào ngày 29/4 sẽ
tổ chức buổi điều trần về tự do thông tintại Việt Nam. Chủ đề buổi điều trần là
"Media Freedom in Vietnam - Tình Hình Tự Do Báo Chí tại Việt Nam".
Đây là một diễn đàn quốc tế để Quốc Hội, các tổ chức vận động cho tự do thông
tin và các blogger trình bày về tình hình tự do báo chí, cũng như cùng thảo
luận về các chính sách của Hoa Kỳ nhằm hỗ trợ việc xây dựng xã hội dân sự tại
Việt Nam.
Việt Nam là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên
Hiệp Quốc, nhưng các báo cáo nhân quyền gần đây cho thấy nhà cầm quyền Hà Nội
vẫn không ngừng sách nhiễu, đàn áp các quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin
và rất nhiều các quyền căn bản khác của người dân. Việt Nam không có truyền
thông độc lập hay tư nhân và nhà cầm quyền luôn tìm cách áp bức và giam cầm,
bắt giữ các blogger và nhà báo độc lập khi họ phổ biến quan điểm của họ.
Trong phái đoàn các bloggers, nhà báo độc lập đến từ
Việt Nam có 3 người bị cấm xuất cảnh đó là:
Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng
Blogger Nguyễn Lân Thắng
Phóng viên độc lập Anna Huyền Trang
Nhân kỷ niệm Ngày tự do báo chí thế giới 3/5 và cuộc
điều trần tại Quốc hội Mỹ về tình hình tự do báo chí tại Việt Nam, nhà báo Phạm
Chí Dũng đã có cuộc trò chuyện với nhà báo Trần Quang Thành.
Nội dung như sau. Mời quí vị theo dõi:
Trần
Quang Thành: Xin chào nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng.
Phạm
Chí Dũng: Xin chào nhà báo Trần Quang Thành. Sắp tới ngày
3-5 là ngày tự do báo chí của thế giới và các nhà báo độc lập trên thế giới,
chúc anh một năm mới bình yên và độc lập hơn.
Trần
Quang Thành: Thưa nhà báo Phạm Chí Dũng, như anh đã nói ngày 3-5
đã được Liên hiệp quốc chọn là ngày Quốc tế tự do báo chí. Anh đánh giá thế nào
về ngày mà LHQ chọn?
Phạm
Chí Dũng: Cảm xúc hơi khó tả. Vì với tôi từ trước tới giờ,
những năm gần đây đã quen với ngày 21/6 là ngày nhà báo Việt Nam, và tôi nghĩ
rằng có lẽ sẽ phải chuyển ngày 21/6 ngày nhà báo Việt Nam thành ngày 3/5. Đó là
một sự chuyển biến từ một không gian không độc lập sang một không gian độc lập,
vì ngày 3/5 là ngày nhà báo tự do của thế giới.
Một kỷ niệm mà tôi nhớ là vào ngày 3/5/2012, trên
một diễn đàn quốc tế, Tổng thống Barack Obama đã vinh danh nhà báo Điếu Cày
Nguyễn Văn Hải. Mặc dù đối với nhiều tờ báo Đảng trong nước họ không quan tâm
đến việc này và họ chưa từng xem Điếu Cày là một nhà báo chính danh. Với họ một
nhà báo chính danh là người ít nhất phải có thẻ nhà báo được cấp bởi Bộ văn hóa
thông tin trước đây và Bộ thông tin truyền thông ngày nay của chính quyền. Tất
nhiên nhà báo Điếu Cày Nguyễn Văn Hải không thể có cái thẻ như vậy rồi. Nhưng
xét theo tiêu chí của nhà báo tự do quốc tế thì anh không cần có bất kỳ một thẻ
nhà báo nào do Bộ thông tin truyền thông cấp. Vì vậy chúng ta có thể nói đó là
sự vinh danh về tính độc lập của một nhà báo.
Bây giờ chúng ta cùng tranh luận thế nào là một nhà
báo độc lập vì một nền báo chí độc lập. Một nhà báo độc lập trước hết phải độc
lập đối với hệ thống định hướng tuyên truyền của nhà nước, của chính quyền, đặc
biệt trong chính thể cầm quyền ở Việt Nam hiện nay. Đã quá lâu rồi Ban tuyên
giáo trung ương, Bộ TTTT và các sở ban ngành thông tin ở các địa phương đã duy
trì một hệ thống thông tin một chiều và chỉ có một chiều mà thôi, làm lụi tàn
sáng tạo của các nhà báo chân chính - những nhà báo thực sự muốn có những sáng
tạo độc lập, những phát kiến độc lập, những bài điều tra độc lập chống tham
nhũng và nêu lên chính kiến của mình thể hiện quyền tự do phát biểu chính kiến,
quyền tự do biểu đạt. Nhưng quá lâu rồi họ đã bị ngăn cản bởi hệ thống thông
tin rất kinh viện, không những không đi sát và phản ánh thực tế đời sống của
người dân mà còn né tránh xa rời nó giống như là một hệ thống thông tin đóng
thùng vậy…
Trong khi đó các nhà báo độc lập có không gian hoạt
động riêng và ít nhất là họ độc lập về mặt tư tưởng đối với nhà nước. Do sự độc
lập về tư tưởng như vậy mà trong những năm qua đã có một số nhà báo lề phải của
Việt Nam cũng cần được vinh danh không kém Điếu Cày Nguyễn Văn Hải. Đó là những
nhà báo đã có những bài điều tra, mặc dù trong những hoàn cảnh hết sức khó
khăn, về nạn tham nhũng trong lĩnh vực ODA. Còn nhớ hồi năm 2008 hai phóng viên
của báo Thanh Niên đã bị tù tội trong việc chống tham nhũng trong lĩnh vực ODA.
Tổ chức bảo vệ nhà báo thế giới (CPJ) đã xếp Việt
Nam vào quốc gia đứng thứ ba về kỷ lục giam giữ các nhà báo. Có tới 18 nhà báo
đang bị giam giữ trên toàn quốc và đó là một thành tích rất đáng không khích
lệ, không khuyến khích được nền tự do báo chí ở Việt Nam. Cho dù điều 69 Hiến
pháp 1992 và HP sửa đổi 2013 vẫn luôn luôn cho rằng báo chí ở Việt Nam có tự
do, nhưng thực tế ở Việt Nam báo chí gần như không có tự do. Tôi muốn dùng
chính xác cụm từ "gần như không có tự do". Tất nhiên các phóng viên
có quyền sáng tác riêng, nhưng hầu hết các Ban biên tập lại bị chi phối bởi các
cơ quan nhà nước cấp trên - là nơi mà những bài báo chân chính khó mà lọt được
vào, khó có thể qua được sự kiểm duyệt vô hình được thiết lập từ trên xuống
dưới.
Đó là vấn đề tôi muốn nên lên để trả lời câu hỏi của
nhà báo Trần Quang Thành rằng ngày nhà báo tự do Quốc tế có ý nghĩa như thế
nào. Và tôi muốn nêu một đề xuất nhỏ bé thôi, là đã đến lúc chúng ta - những
người làm báo và những người viết báo chân chính - nên suy nghĩ để chuyển ngày
nhà báo Việt Nam ngày 21/6 hàng năm sang ngày 3/5 là ngày nhà báo tự do Quốc
tế, để cần có một sự tôn trọng đối với sự độc lập của nhà báo.
Dù sự chuyển đổi đó có thể làm mích lòng Ban tuyên
giáo trung ương, Bộ TTTT hay là toàn bộ hệ thống TTTT một chiều của Đảng, nhưng
bù lại nó vinh danh sự độc lập, tự do tư duy, tự do biểu đạt của các nhà báo
trong một xã hội khép kín, trong một chế độ chính trị khép kín . Điều đó cực kỳ
cần thiết vì nó làm cho các nhà báo có không gian, có đất để sáng tạo. Sẽ có
nhiều bài báo hay và thiết thực với dân chúng chứ không hẳn là chỉ thiết thực
với chế độ chính trị.
Trần
Quang Thành: Những người lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam nói
rằng mở một cuộc vận động sâu rộng trong quần chúng là "đọc và làm theo
báo", nhưng mà báo ấy là báo lề Đảng độc nói một chiều tư tưởng. Vậy theo
anh thì làm sao chúng ta có thể thực hiện được điều đó?
Phạm
Chí Dũng:Có một tiêu chí để chúng ta có thể phân định việc có
nên đọc và làm theo báo đảng hay không. Báo chí được quyết định bởi cái gì? Về
mặt nghiệp vụ thì đó là nội dung thông tin và số lượng phát hành và lượng tiêu
thụ thực tế. Thế thì thử hỏi những tờ báo Đảng ở Việt Nam như Nhân dân, Quân
đội nhân dân, Đại đoàn kết, Sài Gòn Giải Phóng ở Sài Gòn hay là Công an nhân
dân của Bộ CA… có được lượng phát hành là bao nhiêu?
Tôi đơn cử tờ Nhân dân và Quân đội Nhân dân hiện nay
được phát hành "ấn", tức từ lâu lắm rồi những tờ báo này phát hành
theo một hệ thống nội bộ các cấp ủy từ trên xuống dưới, thậm chí là bán
"ấn" cho đến cấp ủy cơ sở phường xã địa phương. Nếu đằng thẳng ra thì
bán được rất ít. Có thể thấy các báo Nhân dân, Quân đội Nhân dân hầu như không
xuất hiện trên các sạp báo ở ngoài đường. Có thể nói là tiêu chí của tờ báo
phát hành có thành công hay không là có thấy tờ báo ấy xuất hiện trên các sạp
báo bán lẻ ngoài đường hay không. Rất nhiều tờ báo đã xuất hiện, chỉ trừ các tờ
báo Đảng. Theo tôi biết thì các tờ Nhân dân hay Quân đội Nhân dân chỉ phát
hành vài ba chục ngàn bản, mà đó là bán theo chỉ đạo của các cấp ủy ở trên tới
các cấp ủy địa phương và các địa phương buộc phải mua. Nếu không có chỉ đạo
thì có lẽ các địa phương sẽ rất tiết kiệm trong việc đặt mua báo Đảng.
Trong khi đó, số lượng phát hành của các tờ báo khác
có vẻ gần gũi với quần chúng hơn như Thanh Niên là trên 300 ngàn bản, Tuổi Trẻ
trước đây cũng trên 300 ngàn, gần đây mặc dù đã xuống thấp nhưng vẫn còn trên
200 ngàn, từ 200-250 ngàn. Số lượng này gấp gần 10 lần các tờ báo Đảng, cho
thấy độc giả đang quan tâm đến những gì? Họ quan tâm đến những vấn đề mà Thanh
Niên Tuổi Trẻ đề cập gần với đời sống hơn hay họ quan tâm đến vấn đề ý thức hệ
hay hệ thống Đảng trị ngự trên các tờ Nhân dân và Quân đội Nhân dân? Điều đó
cũng gián tiếp trả lời câu hỏi của anh Trần Quang Thành là người dân có nên làm
theo báo Đảng hay không.
Trần
Quang Thành: Với chế độ thực dân Pháp trước đây thì Đảng cộng sản
đã giảng rõ rằng nó là thứ chủ nghĩa ngu dân vì nó chỉ rao giảng những gì có
lợi cho chủ nghĩa tư bản. Nhưng thực tế trong chế độ thực dân Pháp cũng còn có
báo tư nhân, cũng còn có tiếng nói của những nhà báo độc lập. Nhưng dưới chế độ
của CS Việt Nam hiện nay thì chúng ta không ngu dân nhưng chỉ tuyên truyền độc
đảng theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin, không được tự do báo chí, không có báo chí tư
nhân. Vậy nên nỗi lo của người dân Việt Nam bây giờ là có lẽ báo chí dưới chế
độ hiện giờ đang là ngu dân. Anh Phạm Chí Dũng nghĩ sao?
Phạm
Chí Dũng:Thực ra nói Việt Nam không có báo chí tư nhân cũng
không hẳn đúng đâu anh. Đã hơn 20 năm qua sau thời mở cửa kinh tế, báo chí tư
nhân bắt đầu xuất hiện, từ những năm 1994-1995 dưới dạng phụ trương, phụ san
của những tờ báo chính thống.
Nhưng chưa bao giờ nhà nước thừa nhận báo chí tư
nhân về mặt hình thức, chưa bao giờ trong Hiến pháp và trong tất cả các văn bản
pháp quy thừa nhận báo chí tư nhân. Báo chí chịu sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng
và nhà nước, đó là nguyên tắc bất di bất dịch hiện nay. Nhưng mà có chút tréo
ngoe thế này: cách đây mười mấy năm là đã có ít nhất vài chục tờ báo tư nhân ra
đời, song song với hệ thống báo chí nhà nước hiện hành. Những tờ báo tư nhân
này không được nhà nước chú ý bởi đó chỉ là những tờ báo thương mại thuần túy,
những tờ báo mà người ta gọi là theo xu hướng cướp - giết - hiếp, chỉ tung ra
những chiêu câu khách cực kỳ rẻ tiền để có thể bán báo và lấy quảng cáo mà
thôi. Sự tồn tại của báo chí tư nhân trên bình diện như vậy vô hình chung làm
cho cho nhà nước hài lòng nhưng cả một nền báo chí cảm thấy bị xúc phạm.
Vậy thì với vấn đề báo chí tư nhân hiện nay, chúng
ta cần cái gì? Nền báo chí chính thống cần phải có tính độc lập của báo chí tư
nhân, thể hiện quan điểm chính kiến độc lập của báo chí tư nhân về các vấn đề
chính trị xã hội chứ không phải là cho ra báo chí tư nhân trá hình, bỏ mặc nó
muốn làm gì thì làm và đẩy nền nhận thức và dân trí của xã hội xuống vực thẳm
như tình trạng báo chí tư nhân hiện nay.
Theo quan điểm của tôi, với báo chí tư nhân hiện nay
cho dù được hợp thức hóa thì tôi cũng không đồng ý, vì đó là nền báo chí tư
nhân nhếch nhác tởm lợm với mọi thông tin câu khách cướp để bán báo thôi, mọi
thông tin cướp - giết - hiếp thì làm sao mà người dân có thể chấp nhận được.
Việc đọc và mặt bằng dân trí của người đọc bị tồi tệ hóa đi theo những thứ báo
chí như vậy. Chính những tờ báo chí tư nhân cùng với một số báo chí nhà nước cùng
hướng đến tôn chỉ cướp - giết - hiếp như vậy đã làm cho nền báo chí Việt Nam
trở nên rất đáng xấu hổ.
Cái mà chúng ta cần đối với xã hội tương lai của
Việt Nam là những tờ báo tư nhân có tiếng nói độc lập, với những nhà báo độc
lập dám thể hiện quan điểm chính thống. Đó cũng là một vấn đề mà cộng đồng quốc
tế đang đặt ra đối với nhà nước Việt Nam. Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị cũng đặt ra vấn đề là cần phải có truyền thông tư nhân, nhưng hơn
hai chục năm qua thì Hiến pháp Việt Nam cũng như toàn bộ các văn bản, kể cả não
trạng của tất cả giới chức cầm quyền Việt Nam, vẫn chưa thể bằng lòng với
chuyện tồn tại song song một nền báo chí độc lập của tư nhân. Đó là một điều
rất đáng tiếc. Nhưng tôi hy vọng trong những năm tới đây và không còn xa lắm,
tiếng nói chính thức của các nhà báo độc lập sẽ được nâng lên và giới cầm quyền
phải dần tôn trọng những tiếng nói độc lập đó hơn, và họ sẽ không thể dùng Ban
tuyên giáo TW như là một hệ thống kìm kẹp tư tưởng hay một vòng kim cô về não
trạng để có thể làm cho những nhà báo chân chính phải tắt tiếng.
Trần
Quang Thành:Trên thực tế hiện nay ở nước ta đang song song tồn
tại hai hệ thống báo chí mà người dân gọi là hệ thống báo chí lề Đảng và hệ
thống báo chí lề dân, nhà báo Phạm Chí Dũng bình luận sao về vấn đề này?
Phạm
Chí Dũng:Đó là vấn đề thú vị, vì ít nhất thể hiện rằng triết
học nhị nguyên có cơ sở của nó. Triết học nhị nguyên có cơ sở của nó từ thời cổ
đại mà cho tới thời cận đại và hiện đại vẫn mang giá trị phổ quát của nó. Lịch
sử đã chứng minh rằng 98% các chế độ nhất nguyên trên thế giới đã xảy ra khủng
hoảng chính trị và khủng hoảng quân sự liên tục, và đó là những chế độ dễ chao
đảo nhất, dễ biến động biến loạn nhất, hết chiến tranh này đến nội chiến khác.
Trong khi đó phần lớn chế độ dân chủ chấp nhận nhị nguyên và đa nguyên thì ít
có xáo động, ít biến loạn xã hội. Điều đó cũng liên quan trực tiếp đến vấn đề
truyền thông và báo chí, có nghĩa là nếu chỉ duy trì cái nhìn một chiều, tư
tưởng một chiều nhất nguyên thì không thể có sự sáng tạo được. Đến lúc nào đó
theo quy luật áp bức về tư tưởng thì chủ nghĩa nhất nguyên sẽ gây một sức nén,
một sự đàn áp về tư tưởng với xã hội đủ lớn, để trước hết là những tầng lớp
dưới đáy xã hội phản ứng, sau đó là tầng lớp trí thức, khiến xã hội rơi vào trạng
thái biến loạn thường xuyên và liên tục.
Như vậy việc hình thành truyền thông lề trái hay còn
gọi là lề dân, hay còn một cụm từ khác mới sau này là truyền thông xã hội, là
việc chuyển đổi tuân theo quy luật chuyển hóa từ lượng sang chất và chuyển hóa
từ tư tưởng nhất nguyên sang tư tưởng nhị nguyên, thể hiện ở ít nhất hai hệ
thống thông tin chứ không phải là chỉ một hệ thống.
Ở Việt Nam cho tới giờ có một điều cũng đáng mừng là
1/3 dân số đã biết sử dụng Internet trong đó có tôi (tôi thuộc số người có lẽ
là chậm tiến nhất vì chỉ gần đây mới biết sử dụng Internet). Nhưng phần lớn
người sử dụng Internet không biết cách vượt tường lửa để vào những hệ thống
thông tin đa đạng của truyền thông xã hội, nên hiệu quả của truyền thông xã hội
ở Việt Nam hiện nay là không lớn, khá ngược lại với hiệu ứng của truyền thông
xã hội Việt Nam đối với dư luận và tâm lý người Việt Nam ở hải ngoại, bởi họ
không phải vượt bức tường lửa mà vẫn có thể vào đúng trang thông tin xã hội để
đọc.
Nhưng vượt bức tường lửa ở Việt Nam là khá khó khăn.
Đó cũng là một trong những yêu cầu đối với các quốc gia trong những kỳ kiểm
điểm phổ quát về nhân quyền, là phải ngay lập tức hủy bỏ chế độ rào chắn tường
lửa đối với các thông tin trên Internet. Nhưng cho đến giờ thì đại đa số các
trang gốc của truyền thông xã hội vẫn bị ngăn chặn một cách rốt ráo. Tuy chưa
có con số thống kê chính thức, nhưng người ta cho rằng hàng năm nhà nước phải
bỏ ra một số tiền rất lớn để duy trì cơ chế chặn các bức tường lửa như hiện
nay, và duy trì một con số lớn có lẽ đến hàng chục ngàn dư luận viên từ cấp TW
đến cấp xã phường để có thể lung lạc tình hình tranh đấu trên mạng truyền
thông. Điều này có thể có cơ sở vì Trung Quốc duy trì 2 triệu dư luận viên dùng
từ tiền thuế của dân, làm tất cả để phục vụ hệ thống thông tin một chiều của
Đảng. Lề dân ở Việt Nam cũng đang phải đối phó với thách thức như vậy.
Nhưng dù gì, đây là một triển vọng đáng mừng vì từ
giữa năm 2011 đến nay, mới chỉ gần 3 năm mà hệ thống truyền thông của lề dân đã
phát triển khá nhanh. Ở Việt Nam có ít nhất 20 trang web và blog đáng chú ý.
Những trang tin tổng hợp cũng có, thông tin chuyên ngành cũng có và tập trung
những cây viết có tên tuổi và viết ngày càng sắc sảo. Có những trang gần như một
tờ báo, và nếu như có sự chuyển từ chế độ nhất nguyên sang nhị nguyên thì tôi
tin rằng chỉ trong một sớm một chiều những trang Web đó sẽ trở thành những tờ
báo có sức cạnh tranh đáng kể với những tờ báo có số lượng phát hành lớn nhất ở
Việt Nam hiện nay như Tuổi Trẻ, Thanh Niên. Còn đối với những tờ báo đảng như
Nhân dân, Quân đội Nhân dân thì chắc chắn là bị báo chí truyền thông xã hội
vượt xa.
Trần
Quang Thành: Ngày quốc tế tự do báo chí năm nay được ghi dấu bằng
một sự kiện là một số dân biểu Hoa Kỳ, các tổ chức bảo vệ nhà báo và nhân quyền
đã mời một đoàn những người làm báo ở Việt Nam qua Hoa Kỳ để mở cuộc vận động
cho tự do báo chí ở Việt Nam. Ông đánh giá sao về sự kiện này?
Phạm
Chí Dũng:Tôi thấy hình ảnh chị Kim Chi - nữ diễn viên điện
ảnh có tiếng một thời - nở nụ cười tươi rói ở phi trường Dulles ở Washington
DC, và tôi thấy nụ cười này nói lên tất cả, rằng mặc dù chị chưa bao giờ là một
nhà báo, mặc dù chị chưa bao giờ là một blogger, nhưng mà chị đang tự do về tư
tưởng và trên hết chị đang tự do về tâm hồn. Có lẽ chị biểu cảm cho điều mà
người ta hay tuyên truyền ở Việt Nam là chỉ số hạnh phúc của người Vn đứng thứ
nhì thế giới, nhưng có lẽ chỉ số đó chỉ biểu hiện ở ngoài biên giới Việt Nam mà
thôi, chứ ở Việt Nam thì không thể được như vậy.
Ít nhất cũng có vài ba người, và tôi đang nghe là
con số có thể lên đến 5 người đến được hội thảo báo chí về nền báo chí độc lập
kỳ này tại Washington DC. Tôi cầu chúc họ thay mặt các nhà báo độc lập và kể cả
các nhà báo lề phải ở Việt Nam, nói lên được tiếng nói chính trực và độc lập
rằng nền báo chí độc lập ở Việt Nam có cần thiết hay không và cần thiết ở mức
độ nào, nếu cần thiết thì phải làm gì để xây dựng nền báo chí độc lập ấy, phải
làm gì để nền báo chí độc lập của Việt Nam không bị treo cổ.
Trần
Quang Thành:Nhà nước Việt Nam nói rằng ở Việt Nam báo chí rất là
tự do. Họ còn khoe là có khi báo chí Việt Nam tự do nhất thế giới, chuyện đi
lại của người dân rất được tôn trọng. Nhưng trên thực tế, trong thời gian gần
đây những nhà báo không nói lên ý của Đảng đều bị trù dập, bị cản trở xuất
ngoại. Anh là một điển hình của hai lần liên tiếp bị cản trở, từ lúc bị cản trở
dự UPR tháng 2/2014 cho đến lần này lại đang bị cản trở, không biết có khắc
phục được cản trở để dự hội thảo vấn đề tự do báo chí vào ngày 29/4 và ngày 3/5
sắp tới tại Hoa kỳ. Nhà báo Huyền Trang của Dòng chúa cứu thế cũng bị chặn ở
sân bay. Ông Nguyễn Lân Thắng, người có nhiều tập ảnh chụp cung cấp cho các
trang tin quốc tế, cũng bị chặn không được đi tiếp. Anh nghĩ sao về những lời
nói và việc làm cản trở của nhà nước Việt Nam đối với những nhà báo tự do?
Phạm
Chí Dũng:Chính xác là họ đang cản trở chính họ. Chính xác là
nhà nước Việt Nam đang có những động thái cản trở chính nhà nước Việt Nam trong
việc hội nhập với thế giới. Và chính xác hơn nữa là nhà nước Việt Nam đang làm
lùi đi bước tiến trong việc gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình dương
TPP.
Về vấn đề TPP cũng như triển vọng làm đối tác chiến
lược toàn diện với Hoa kỳ hay Hiệp định đa phương thương mại với Cộng đồng Châu
Âu, tôi nghĩ rằng sau vài chục vòng đàm phán liên tục trong mấy năm vừa qua,
nhà nước Việt Nam đã tiến khá gần cái đích mà họ mong muốn. Một trong cái đích
họ đã đạt được chính là cái ghế trong Hội đồng nhân quyền LHQ. Nhưng quyền lợi
cụ thể hơn phải nằm trong những hiệp định thương mại, kinh tế chứ không phải là
những danh hiệu ảo. Vấn đề là nhà nước Việt Nam đang tự cản trở họ, vì đối với
Phương tây không thể có TPP nếu không có nhân quyền - đó là điều kiện tiên
quyết và đó cũng là một qui luật nhân quả đối với nhà nước Việt Nam, với những
gì mà họ đã thể hiện trong ít nhất vài chục năm qua đối với cái được gọi là
"nền tự do báo chí".
Việc ngăn cản đối với cá nhân tôi chỉ là việc rất
nhỏ, nhưng qua đó cho thấy sự ngăn trở và ràng buộc đối với toàn bộ hệ thống tư
tưởng của con người, của các công dân trong xã hội. Điều đó thể hiện ở sân bay,
khi cô Huyền Trang không đi được, đòi có một biên bản và phải có lệnh cấm xuất
cảnh, nhưng không những người ta không cung cấp cho cô mà còn kẹp cổ cô lôi ra
ngoài. Người ta dùng luật rừng ! Hình ảnh ấy cho tôi cảm giác tái hiện lại
không khí và hình ảnh mà các nhân viên an ninh không mặc sắc phục bịt miệng
Linh mục Nguyễn Văn Lý tại tòa trong một phiên xử. Một hình ảnh gây chấn động
đối với thế giới và rất hay là một ai đó đã chụp được bức ảnh ấy, bức ảnh xuyên
thế kỷ cho thấy quyền tự do chính kiến, quyền tự do biểu đạt và quyền được lên
tiếng của người dân vẫn còn nằm trong bóng tối mà chưa hề được đưa ra ánh sáng.
Cho đến khi nào mà nhà nước Việt Nam chưa chủ động đưa điều đó ra ánh sáng thì
họ vẫn còn kìm kẹp chính họ, họ còn cản trở chính họ trên con đường tiến tới ít
nhất là một mục đích rất sát sườn, rất thiết thân như TPP.
Trần
Quang Thành:Để có thể nhanh chóng có một nền báo chí tự do, có
một nền báo chí của dân để nói lên tiếng nói của nhân dân mà không bị bịt
miệng, không bị làm cho ngu dân thì chúng ta phải làm những công việc gì trước
mắt?
Phạm
Chí Dũng:Có nhiều động lực, động thái có thể dẫn đến một nền
báo chí độc lập, nhưng phải mất thời gian khá lâu, đặc biệt là ở Việt Nam với
những đặc thù chính trị. Nhưng rất may cho Việt Nam là có một nhãn tiền, một
tiền lệ rất gần gũi với Việt Nam về địa lý, đó là Miến Điện. Ở Miến Điện, cho
đến năm 2011 chẳng ai hy vọng gì. Ngay cả khi ông Thein Sein được ông Than Shwe
nâng đỡ và trở thành tổng thống dân sự đầu tiên của Miến Điện đọc diễn văn nhậm
chức, cũng chẳng mấy ai hy vọng đến những chuyển biến ngoạn mục sau này. Sau đó
bắt đầu từ việc phóng thích lãnh tụ những đảng đối lập Aung San Suu Kyi và bắt
đầu với việc thả người giống như Việt Nam cũng đang bắt đầu thả người.
Đến năm 2012 người ta mới bắt đầu chủ đề là phải có
một nền báo chí tự do, và đầu tiên là hủy bỏ một sắc lệnh cấp tụ tập cấm biểu
tình. Lúc đó dân chúng được thành lập hội, đi biểu tình thoải mái. Đến tháng 4
năm 2013 thì chính thức cho ra báo tư nhân ở Miến Điện - điều cực kỳ thú vị. Có
những phóng viên bản địa ở Miến Điện khóc rưng rức khi nói chuyện với nhau và
với phóng viên AFP, họ không thể tin nổi có một sự chuyển đổi kỳ diệu như thế
từ một không gian bị bóp nghẹt, từ một không gian mà cuộc cách mạng áo cà sa bị
đàn áp đẫm máu gần 10 năm trước đó. Toàn bộ hệ thống tư tưởng đều một chiều
theo độc tài quân sự đã chuyển sang không gian mở để báo chí bắt đầu trở thành
một công cụ của người dân chứ không chỉ là một công cụ của chế độ như trước
đây.
Đó là bài học nhãn tiền cho Việt Nam, và tôi nghĩ
rằng nó phụ thuộc đến 80% vào ý chí của giới lãnh đạo Việt Nam nếu họ nhìn nhận
vấn đề Miến Điện là một bài học đáng giá cho họ và cũng là một lối thoát đối
với họ. Họ nên mở ra một lối mở cho ít nhất là tự do báo chí. Vì khác với Miến
Điện, ở Việt Nam đã có báo chí tư nhân rồi, mặc dù chỉ là báo chí tư nhân trá
hình mà thôi nhưng dù sao hạ tầng cơ sở ở Việt Nam vẫn tốt hơn rất nhiều so với
Miến Điện, cộng thêm chuyên môn nghiệp vụ của các nhà báo Việt Nam khá hơn rất
nhiều so với các phóng viên ở Miến Điện. Đó là điều kiện rất cơ bản để nền báo
chí Việt Nam phát triển được. Chỉ còn thiếu tự do tư tưởng nữa mà thôi. Nếu
NNViệt Nam khắc phục chuyện đó và họ mở ra cái chuyện đó thì tôi tin là không
chỉ kinh tế Việt Nam đi lên mà nền báo chí tự do cũng đi lên. Lúc đó sẽ không
cần đặt ra vấn đề ý thức hệ hay định hướng, lề phải hay lề trái, lề Đảng hay lề
dân nữa, mà tất cả sẽ cùng nhìn vào một hướng, đó là xây dựng một nhà nước pháp
quyền và một xã hội dân sự tốt đẹp.
Tất nhiên đó là một điều kiện lý tưởng, mình mong
muốn như vậy nhưng trong thực tế có lẽ phải kéo dài một số năm nữa cho tới lúc
mà nhà nước Việt Nam cảm thấy quá khó, quá khó về kinh tế, quá khó về nội tình
chính trị và về đối ngoại, buộc họ phải có thay đổi. Nhưng thay đổi sẽ khá chậm
chạp.
Trong thời gian đó thì xã hội dân sự làm gì? Trong
xã hội dân sự, nền báo chí độc lập chiếm vai trò trọng yếu, cực kỳ xung yếu,
nếu không muốn nói là quyết định trong thời gian 3 năm vừa qua, vì nếu không có
truyền thông xã hội thì không biết bao nhiêu người dân đã tiếp tục âm thầm bị
bưng bít thông tin và người Việt Nam hải ngoại cũng chẳng biết gì nhiều hơn.
Nhưng vì có truyền thông xã hội và có thông tin trong nước đưa ra, có thông tin
ngoài nước đưa vào nên mọi người có thể mở mắt và mở lòng được. Cuối cùng chỉ
còn là tỷ lệ người vượt tường lửa sẽ tăng dần lên, lúc đó nền báo chí độc lập
cũng như xã hội dân sự sẽ phát triển.
Tôi cho rằng không cần phải chờ sự thành tâm của nhà
nước và của Đảng, mà xã hội dân sự phải chủ động để xây dựng một hệ thống báo
chí độc lập. Hội thảo cũng như những vận động về báo chí độc lập ở Việt Nam
diễn ra tại các cơ quan thông tấn cũng như là các địa điểm ở nước ngoài nên bàn
về các mạng lưới dân sự độc lập, cũng như truyền thông quốc tế như tổ chức CPJ
hay là Tổ chức phóng viên không biên giới nên có những động thái cụ thể hơn để
hỗ trợ cho truyền thông Việt Nam trong thời gian tới bằng cách là đào tạo những
nhà báo độc lập. Hiện nay vấn đề báo chí độc lập ở Việt Nam khủng hoảng về
chuyên môn nghiệp vụ, cụ thể hơn là khủng hoảng về khả năng viết, rất thiếu,
rất hiếm người viết và viết được đúng yêu cầu.
Đó chính là yêu cầu của nền báo chí độc lập Việt Nam
trong thời gian tới. Ứng với tình hình và điều kiện trong tương lai mới thì
phải có những con người mới, những cây viết sáng tạo. Tôi còn hy vọng đến lúc
nào đó sẽ có những tờ báo chuyên nghiệp như là Le Monde của Pháp hay mang phong
cách của những tờ báo Mỹ chuyên nghiệp như Washington Post, lúc ấy mới có thể
đánh giá được sự thăng tiến của nền báo chí độc lập là như thế nào.
Trần
Quang Thành: Xin cám ơn nhà báo Phạm Chí Dũng.
Trần
Quang Thành - Phạm Chí Dũng
No comments:
Post a Comment