Đoàn Viết Hoạt
April 19, 2014
April 19, 2014
Ngày
9 tháng 6 năm 1885 là một ngày cần được ghi nhớ trong lịch sử Việt Nam nói
chung, và lịch sử văn hóa-chính trị Việt Nam nói riêng. Ngày đó tuy cách đây gần 130 năm nhưng lại rất gần và rất có ý nghĩa
trong bối cảnh quan hệ Việt-Trung hiện nay. Đó là ngày triều đình nhà Thanh ký
với Pháp Hòa ước Thiên Tân công nhận Pháp bảo hộ Việt Nam và phân định đường
biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa.
Đó cũng là ngày chấm dứt việc Việt Nam lệ thuộc
Trung Hoa, chấm dứt tục lệ Việt Nam triều cống thiên triều phương Bắc. Ngày đó
cũng chính thức mở ra thời kỳ Việt Nam rơi vào vòng ảnh hưởng của phương Tây,
khởi đi bằng Pháp thuộc để sau đó tiếp nối với ảnh hưởng Mỹ và Nga –một tiến
trình đến tận hôm nay vẫn chưa thật sự chấm dứt. Chủ nghĩa Mác và chế độ CS,
cũng như chủ nghĩa tư bản, là phó sản kinh tế, chính trị và văn hóa-chính trị
của nền văn minh phương Tây.
Dưới chế độ CS, Việt Nam hiện nay vẫn chưa ra khỏi
quỹ đạo Tây phương đó. Nói đúng hơn, Việt Nam hiện nay còn tròng trành giữa hai
đường lối kiến quốc tư bản và cộng sản, chưa tìm được môt định hướng phát triển
vừa Việt vừa thời đại, Tình trạng này thể hiện khá rõ qua một số tiêu ngữ chính
trị mù mờ, gần như vô nghĩa, như “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”.
Hòa ước Thiên Tân 1885 như vậy mở đầu cho giai đoạn
Việt Nam thoát khỏi trật tự thế giới “thiên triều” phương Bắc nhưng lại bị đưa
dẫn vào một trật tự thế giới mới do phương Tây sắp đặt. Trung Hoa bị buộc phải
“chuyển nhượng” quyền “quản lý” Việt Nam cho Pháp. Đây tất nhiên không phải là
những ngôn từ được sử dụng chính thức trong hòa ước, dù có thể đã được hai quốc
gia ký kết hòa ước ngầm hiểu với nhau. Trong thực tế, ngay sau khi thế chiến II
chấm dứt, trong tiến trình phục hồi quyền lực và vị thế Trung quốc như một cường
quốc phương Đông, cả hai chính quyền Trung Hoa, Đài Loan và Bắc Kinh, đều tìm
cách lấy lại tầm ảnh hưởng và những phần lãnh thổ đã nằm dưới quyền cai quản
của Trung Hoa trước khi Âu Mỹ tràn sang Á Châu và cướp đoạt mất.
Tưởng Giới Thạch, tại hội nghị Quốc Liên ở
Washington và San Francisco năm 1945, 1946, đã lên tiếng đòi lại quyền quản lý
các vùng đất mà họ Tưởng cho là trước đây thuộc Trung quốc. Trung hoa Dân quốc
cũng đã đưa ra “đường lưỡi bò 9 đoạn” từ ngày đó. Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán
từ đó đã được cả hai chính thể Trung Hoa ở Đài Loan và Bắc Kinh phục hồi, trước
hết bằng cách lợi dụng các thời cơ thuận lợi chiếm đóng một số hải đảo thuộc
vùng biển Nam Hải. Việc Bắc Kinh ép Việt Nam CS phải ký kết Hiệp ước Biên giới
đất liền Việt-Trung ngày 30 tháng 12 năm 1999 là một trong nhiều hành động cụ
thể khác, thể hiện ý đồ chính trị của Trung quốc nhằm chấm dứt hiệu lực của Hòa
ước Thiên Tân năm 1885, đưa Việt Nam trở về lại vị trí “quản lý” và trong tầm
ảnh hưởng của Trung quốc.
Như
vậy, trong hơn một thế kỷ, từ Hòa ước Thiên Tân năm 1885 đến Hiệp ước Biên giới
Việt-Trung năm 1999, Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi gọng kìm của hai thế giới
Trung hoa và Tây phương. Đây là một vấn nạn nền tảng
nhất nếu chưa giải quyết được tận cỗi gốc thì Việt Nam chưa thể được phục hưng
như một quốc gia thực sự độc lập và phát triển vững bền.
Chúng ta sẽ trở lại vấn đề quan trọng này vào phần
cuối của loạt bài tư tưởng chính trị Việt Nam cận hiện đại.
Trở lại với thời Pháp thuộc, sau khi ký Hòa ước
Thiên Tân với Trung hoa, Pháp đã hoàn tất quá trình kiểm soát toàn bộ Việt Nam.
Nam Kỳ thuộc Pháp từ 1862. Trung Kỳ và Bắc Kỳ chính thức được đặt dưới sự bảo
hộ toàn diện của Pháp từ sau Hiệp ước 1884. Nam Kỳ chịu ảnh hưởng của nền giáo
dục và văn hóa Pháp sớm nhất, trong khi phải 40 năm sau Bắc kỳ và Trung Kỳ mới
thực sự ra khỏi ảnh hưởng của nền Hán học.
Tại Nam kỳ, Pháp áp dụng chính sách trực trị, coi
Nam kỳ là một phần lãnh thổ hải ngoại của Pháp. Ngay sau khi chiếm đóng toàn bộ
6 tỉnh miền Đông và miền Tây Nam kỳ, chính quyền Pháp giải tán tất cả hệ thống
hành chính của triều đình Huế, thay bằng hệ thống hành chính mới của Pháp.
Chương trình giáo dục và các kỳ thi Hán học bị hủy bỏ ngay từ những năm đầu
tiên Pháp chiếm Nam kỳ. Chính sách chính trị và văn hóa giáo dục này đã gây ra
sự chống đối quyết liệt trong thành phần sĩ phu Hán học và trong dân chúng tại
vùng đất vốn đã tích cực ủng hộ Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây Sơn. Người
Pháp đã phải tốn nhiều công sức và thời gian để dẹp tan các cuộc kháng chiến.
Đồng thời, sự bất hợp tác của nhân dân Nam Kỳ đối với các chương trình văn hóa,
giáo dục Pháp đã khiến cho kế hoạch Pháp hóa tại Nam Kỳ không có kết quả nhanh
chóng như chính quyền Pháp mong muốn. Nhiều người trong chính quyền thực dân
còn cho rằng phải mất vài thế hệ mới có thể triệt tiêu được Hán học cùng với
chữ Hán, để thay thế hoàn toàn bằng Pháp ngữ và văn hóa tư tưởng Pháp.
Trong việc tạo ảnh hưởng văn hóa và tư tưởng, ngôn
ngữ là công cụ cần thiết. Để nhanh chóng loại bỏ được chữ Hán và ảnh hưởng Hán
học, người Pháp dùng chữ quốc ngữ như ngôn ngữ chuyển tiếp sang Pháp ngữ. Chỉ
vài năm sau khi chiếm toàn bộ Nam Kỳ, ngày 22 tháng
2 năm 1869 Phó
Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier đã ký nghị định bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ
thay thế chữ Nho trong các công văn. Ý đồ của thực dân Pháp là chỉ
dùng quốc ngữ như chuyển ngữ để loại chữ Nho và giúp Pháp ngữ trở thành ngôn
ngữ chính thức tại Nam Kỳ trước, và sau đó, trên toàn cõi Việt Nam. Người Pháp
hy vọng sau vài thế hệ Pháp ngữ sẽ giúp đồng hóa Việt Nam vào nền văn hóa và tư
tưởng Pháp.
Điều
kỳ thú của lich sử lại chính là chính sách sử dụng quốc ngữ này. Chính nhờ chính sách này mà quốc ngữ đã phát triển được. Chữ quốc ngữ
mới đầu được các cố đạo Bồ Đào Nha đặt ra, ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La
tinh, cũng chỉ nhằm đáp ứng một nhu cầu nhất thời là dịch kinh sách Ki tô giáo
để phục vụ cho việc truyền đạo. Những công trình ghi âm đầu tiên xẩy ra ngay từ
giữa thế kỷ 16 khi các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến truyền đạo tại miền Bắc Việt Nam.
Năm 1651, giáo sĩ Đắc Lộ (tức Alexandre de Rhodes) đã khởi soạn và in cuốn từ
điển phiên âm quốc ngữ đầu tiên. Năm 1838, giáo sĩ Jean-Louis
Taberd, đã soạn và in cuốn từ điển hoàn chỉnh hơn, khá gần với chữ quốc ngữ
ngày nay. Nhưng trong suốt 300 năm kể từ khi được ghi âm, chữ quốc ngữ không hề
được triều đình Việt Nam biết đến, công nhận và sử dụng. Nó cứ âm thầm tự phát
triển trong dân gian nhất là trong cộng đồng Ki tô giáo. Phải đợi đến khi người
Pháp chiếm Nam Kỳ, chữ quốc ngữ mới chính thức được công nhận, và từ đó phát
triển ngày một sâu rộng cho đến ngày nay.
Trương Vĩnh Ký là người Viêt đầu tiên sử dụng và
phát triển chữ quốc ngữ một cách công khai rộng rãi. Ông là một trí thức uyên bác của Việt Nam lúc đó. Theo Từ Điển Văn
Học, do Nguyễn Huệ Chi biên soạn, thì ông được các nước Âu Châu thời đó
công nhận là một trong 18 nhà bác học trên thế giới. Theo những sử liệu khác,
ông thông thạo 27 ngoại ngữ, trở thành một trong những người biết nhiều ngôn
ngữ nhất Việt Nam, và có thể trên toàn thế giới, từ đó đến nay. Ông cũng không
nhập quốc tịch Pháp và vẫn thường mặc quốc phục khăn đóng áo dài. Năm 1865, ông
từ Âu châu về nước và xin ra tờ báo quốc ngữ mang tên Gia Định báo.
Đây không những là tờ báo đầu tiên của Việt Nam mà còn là tờ báo đầu tiên dùng
quốc ngữ, do Trương Vĩnh Ký làm giám đốc và Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút. Tờ báo
tồn tại suốt 30 năm, đến năm 1897 mới chấm dứt.
Trương Vĩnh Ký
Ngoài việc góp phần to lớn vào việc phát huy chữ
quốc ngữ, Pétrus Ký còn có công giới thiệu phong tục tập quán Việt Nam cho
người Pháp và tư tưởng-văn hóa Pháp cho người Việt qua các bài viết và công
trình dịch thuật của ông. Với hơn 100 tác phẩm và bài viết, Trương Vĩnh Ký được
nhiều người đời sau đánh giá là một trong những học giả lớn của Việt Nam đầu
thời kỳ Pháp thuộc. Ông tiếp thu tư tưởng và phương pháp làm việc của Tây
phương, cố gắng vận dụng kiến thức mới để giúp người Việt hiểu và vận dụng văn
hóa và văn minh Pháp vào việc xây dựng đất nước. Ông không chống lại người
Pháp, cộng tác với Pháp nhưng không hoàn toàn vì quyền và vì lợi riêng. Cuối
đời, ông sống trong cô đơn và túng quẫn. Trên ngôi mộ của ông người ta thấy
khắc dòng chữ trích ra từ Sách của Job trong Cựu Ước, “Xin hãy thương xót
tôi, hỡi các anh chị là những người bạn tôi”, nói lên số phận của Job bị
Thượng đế và loài người lìa bỏ. Nó cũng nói lên tâm sự của chính ông.
Đối với người đương thời chỉ trích ông hợp tác với
Pháp, ông mượn câu cách ngôn La tinh “Ở với họ mà không theo họ” (“Sic vos non
vobis“) để tỏ bày quan điểm của mình. Ông cũng là người đầu tiên phát hiện
ra một số câu của một bài phú mà cho tới nay vẫn chưa biết tác giả, và khi chú
thích bài phú này ông tỏ rõ tâm trạng ngậm ngùi của kẻ mất nước, và vẫn gọi
Pháp là “giặc” dù lúc đó đang hợp tác với họ. Đó là bài Gia Định thất thủ vịnh.
Các học giả ngày nay đã sưu tầm được trọn vẹn bài phú này, chắc chắn phải
do một sĩ phu Nam bộ sáng tác, và có học giả cho là của Phan Văn Trị. Dù của
ai, bài phú tuy ngắn ngủi này đã diễn tả được một cách vừa hình tượng vừa xúc
cảm tình cảnh người dân, giới sĩ phu quan lại, và tình hình chính trị, xã hội
nói chung trong thời kỳ đầu Pháp chiếm Nam Kỳ.
Xin trích dẫn một vài đoạn:
5. Inh ỏi súng rền kinh cửa Bắc, hãi hùng trăm họ dứt câu ca
Tò le kèn thổi trời Nam, mờ mịt năm canh không tiếng trống
6. Hào kiệt tìm phương lánh mặt, sa cơ gió hạc lúc hư kinh
Anh hùng kiếm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ cơn lúng túng.
7. Từ Bến Thành trải qua chợ Sỏi loài tanh hôi lang lệ biết bao nhiêu.
Nơi sắp tới Cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm.
8. Cầu Thị Nghè cùng nơi Chợ Quán chúa Giê-giu đắc ý vểnh râu.
Chùa Cẩm Đệm trải đến Cây Mai, Phật Bồ Tát chịu nghèo ôm bụng.
Tò le kèn thổi trời Nam, mờ mịt năm canh không tiếng trống
6. Hào kiệt tìm phương lánh mặt, sa cơ gió hạc lúc hư kinh
Anh hùng kiếm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ cơn lúng túng.
7. Từ Bến Thành trải qua chợ Sỏi loài tanh hôi lang lệ biết bao nhiêu.
Nơi sắp tới Cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm.
8. Cầu Thị Nghè cùng nơi Chợ Quán chúa Giê-giu đắc ý vểnh râu.
Chùa Cẩm Đệm trải đến Cây Mai, Phật Bồ Tát chịu nghèo ôm bụng.
Trong bối cảnh dân tình hỗn mang như thế cách cai
trị trực tiếp của Pháp đã gặp phải sự tẩy chay bất hợp tác của người dân.
Trường học mới mở ra hầu như không có học sinh. Dân làng bị bắt buộc phải gửi
con em đến học. Một quan chức Pháp thời đó cho biết học sinh được triệu tập đến
trường “như tuyển mộ lính”, và đi học được coi như “một thứ thuế”. Mãi đến năm
1900 mà toàn cõi Nam Kỳ chỉ có 4000 học sinh các cấp, học như những “con vẹt”
được vài khái niệm khoa học và một ít tiếng Pháp.
Trương Vĩnh Ký có thể coi là người tiêu biểu cho
thành phần trí thức Tây học mới đầu tiên chủ trương hòa hợp với Pháp để góp
phần nâng cao dân trí qua các hoạt động báo chí, văn hóa, giáo dục. Thành phần
này lúc đầu còn rất ít, vừa vì nền Tây học chưa phát triển vừa vì tinh thần đề
kháng chống thực dân Pháp còn rất mạnh. Dân chúng thì đa số bất mãn và giữ thái
độ chống đối thầm lặng và bất hợp tác. Sĩ phu thì tổ chức kháng chiến hay cổ võ
lòng yêu nước của người dân. Họ bất tuân lệnh triều đình, không chịu đầu hàng
thực dân.
Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu đại diện cho thành phần sĩ phu
này. Dù đui mù và sống trong túng thiếu, ông nhất định không đầu giặc, luôn
sống cùng nông dân nghèo khổ, dùng văn thơ cổ võ lối sống có đạo nghĩa, khích
lệ lòng yêu nước, ca ngợi cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp. Quan Pháp đến dụ
ông hợp tác, muốn giúp ông có cuộc sống sung túc. Ông một mực khước từ và chỉ
yêu cầu được tổ chức lễ tế vong hồn những người dân chết trong trận mạc, để
nhân đó kích thích cuộc chiến chống giặc xâm lược. Pháp đồng ý, và trong buổi
tế lễ này ông đã đọc bài văn tế do chính ông viết gây xúc động cho hàng trăm
nông dân tham dự, mà theo sử liệu, đều đội khăn tang trắng xóa các cánh đồng.
Nếu Trương Vĩnh Ký đại diện cho lớp trí thức mới đầu
tiên theo Tây học thì Nguyễn Đình Chiểu đại diện cho tầng lớp Nho sĩ cuối cùng
tại Nam Kỳ, vẫn tin và sống theo đạo lý Khổng Mạnh, dù Pháp đã chiếm Nam Kỳ, và
Tây học đã thay thế Hán học. Trong bối cảnh đó Nguyễn Đình Chiểu như một ngôi
sao phương Đông rực sáng lên lần cuối trước khi bầu trời phương Tây chụp xuống
toàn cõi Việt Nam. Ông cũng biểu tượng cho ý chí dân tộc quyết không chịu khuất
phục trước ngoại xâm, không ngừng chiến đấu chống mọi gian tà:
Dù đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Dù đui mà khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình
…………
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
Dù đui mà khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình
…………
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Khi Hiệp ước Thiên Tân được ký kết giữa nhà Thanh và
Pháp năm 1885 thì Nam kỳ đã thuộc Pháp được 30 năm, Tây học đã bén rễ. Còn tại
Bắc kỳ và Trung kỳ người Pháp áp dụng chính sách bảo hộ, cai trị gián tiếp
thông qua quan lại người Việt. Nền giáo dục Hán học cổ truyền còn được giữ lại
một thời gian cho đến khi các trường học mới, áp dụng chương trình giáo dục
Pháp đã phát triển tương đối đủ. Các khoa thi Hán học bị bãi bỏ tại Bắc kỳ năm
1915 và tại Trung kỳ năm 1919. Kể từ năm 1920 trở đi Tây học mới hoàn toàn
thay thế Hán học trên toàn cõi Việt Nam. Thời đại Tây thuộc thật sự bắt
đầu, thay thế cho hàng ngàn năm Hán thuộc về mặt chính trị, văn hóa-tư tưởng và
học thuật.
Đoàn
Viết Hoạt
(18.4.2014)
(18.4.2014)
No comments:
Post a Comment