Phạm Thị
Hoài
Tháng 11 4, 2013
Từ khoảng 1955-1956 trở đi, dưới những bút danh Trần
Lực, Chiến Sĩ, D.X., T.L. và C.B., Chủ tịch Hồ Chí Minh viết nhiều bài
trên báo Nhân dân về nước Mỹ [1],
đặt nền tảng cho tư duy và cảm nhận của nhiều thế hệ người Việt về cái thế giới
kinh hoàng rùng rợn của chủ nghĩa tư bản ở những xứ sở phương Tây bất hạnh trên
địa cầu. “Mỹ mà xấu” trở thành một cách nói phổ biến ở miền Bắc Việt Nam trong
chiến tranh và được coi là một phát ngôn châm biếm thành công, một cách chơi
chữ độc đáo của ông Hồ. Chúng ta hãy đọc lại một số bài báo đó.
Bài kí tên C.B. sau đây đăng trên Nhân dân số
838, ngày 20-6-1956.
Sicagô
và Sài Gòn
Sicagô là một thành phố to hạng nhì ở Mỹ, có độ ba
triệu dân và rất nhiều công nghiệp và thương nghiệp. Nó cũng là sào huyệt của
những “vua” cướp của, giết người, buôn lậu và các thứ tội ác.
Hiện nay, Mỹ đang đưa “văn minh” Sicagô đến miền Nam
Việt Nam ta.
Tối hôm 9-6, hai nhân viên của “phái đoàn viện trợ”
Mỹ đã bắn nhau chết ở tiệm rượu “Đồng tiền vàng”. Có lẽ đó mới là bước đầu.
Hôm 12-6, một bọn cướp với súng ống đầy đủ, đã cướp
chuyến xe hơi ở Xuân Lộc, cách Sài Gòn 80 cây số.
Các báo miền Nam cho biết: từ 21-5 đến 7-6, ở Sài
Gòn và các thành phố xung quanh có 48 vụ trộm cướp và 47 vụ tống tiền. Ở Sài
Gòn – Chợ Lớn, ngày nào cũng xảy ra những vụ ăn cắp xe đạp và xe hơi. Có những
tên đã đánh cắp hơn 20 chiếc xe hơi.
Tệ hại nhất là “văn minh” Sicagô đã lan rộng đến lớp
thanh niên học sinh. Thí dụ: 1 nam học sinh 17 tuổi, ở Tân Sơn Nhất, đã phạm
tội giết người, cướp của.
Một nữ học sinh trường luật, 23 tuổi, đã phạm tội
tống tiền gần nửa triệu đồng…
Đế quốc Mỹ xúi giục Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định
Giơnevơ, âm mưu trường kỳ chia cắt đất nước ta. Đó đã là một tội ác tày trời,
không thể tha thứ. Chúng lại còn âm mưu phá hoại thuần phong mỹ tục của dân tộc
ta, đầu độc thanh niên ta – Hai tội chồng chất, càng không thể tha thứ. [2]
*
Bài kí tên Trần Lực sau đây đăng trên Nhân dân
số 2051, ngày 28-10-1959.
Mỹ
mà phong không thuần, tục không mỹ
Do kết quả của giáo dục và ảnh hưởng của xã hội, số
phạm tội trong đám thiếu niên và thanh niên (từ 10 đến 20 tuổi) ngày càng tăng.
Trên báo chí Mỹ thường có những tin tức rùng rợn như sau:
Thằng bé E. Pakét, 16 tuổi, đã giết chết cha và một
em gái của con bé S. Phrốtxlen, 15 tuổi, là “người yêu” của nó. Mẹ và hai em
gái của Phrốtxlen cũng suýt bị Pakét giết chết (14-10-1959).
Tuần báo Tin tức Mỹ và báo
cáo thế giới ( 14-9-1959) viết: Bọn phạm tội trẻ tuổi ngày càng táo bạo. Ở
các thành phố to, đi ra đường là có nguy hiểm. Sự khủng bố ở ngoài đường đã trở
nên một vấn đề ngày càng nghiêm trọng
Báo Ngôi sao, xuất
bản ở thủ đô Mỹ đã đăng những lời khuyên răn của sở cảnh sát đối với phụ nữ,
trong đó có mấy điều như sau:
- Khi các bà, các cô ra đường, nên có người đưa đi.
- Nên chọn những đường phố đông người và nhiều đèn
sáng.
- Trước khi đi vào ngõ, phố ít đèn, nên để ý có ai
theo đuổi mình chăng.
- Nếu có chút đáng ngờ, thì nên vào ngay một nhà gần
nhất ở đó để gọi cảnh sát.
- Nên nắm thật chặt cán túi tay của mình.
- Không nên mang trên mình vòng xuyến quý và nhiều
tiền bạc.
- Nếu đi xe hơi của mình, thì chỉ nên dừng xe ở
những phố đông người. Nên luôn luôn đóng kín cửa sổ xe.
- Không nên tắt máy, để khi cần thì cho xe chạy được
ngay.
Và nhiều điều dặn dò khác, để tránh nguy hiểm do bọn
du côn trẻ tuổi gây ra.
Đó là một “nếp sống văn minh” mà đế quốc Mỹ muốn đưa
ra làm gương cho thiên hạ noi theo! Ngu ngốc thay đế quốc Mỹ vậy! [3]
*
Bài kí tên T.L. sau đây đăng trên Nhân dân số
2003, ngày 30-3-1960.
Chế
độ nào, thanh niên ấy
Ngày 17 tháng 1 năm 1960, chiếc thuyền nhỏ chở 4
thủy thủ trẻ tuổi Liên Xô (Digansin, Palốpxki, Criútcốpxki, Phêđôtốp), bón
người thuộc ba dân tộc, đều mới vào bộ đội bị bão to cuốn ra khơi Thái Bình
Dương. Máy vô tuyến điện hỏng, đứt liên lạc với trên bờ. Trên thuyền chỉ còn
lương đủ cho hai ngày và hai mươi kilô khoai. Bốn người lênh đênh xiêu bạt suốt
bốn mươi chín ngày đêm. Lương thực hết, họ phải nấu giày ủng để ăn. Ăn hết giày
ủng, họ phải nấu cả chiếc đàn gió bằng da. Nước hết, họ phải hứng nước mưa và
mỗi người mỗi ngày chỉ được uống nửa cốc. (Để mừng ngày sinh của Criútcốpxki,
các bạn tặng anh một cốc nước đầy, nhưng anh không nỡ uống.)
Đói, khát, rét, mệt, nguy hiểm đến cực độ, nhưng bốn
thanh niên anh hùng ấy vẫn giữ vững tinh thần, không chút nản chí. Lênh đênh
trên mặt biển, không có việc gì làm, họ thay phiên nhau ngâm thơ, đọc sách, kéo
đàn (khi chiếc đàn hãy còn) để khuyến khích lẫn nhau.
Cuối ngày thứ bốn mươi chín thì một chiếc tàu binh
Mỹ vớt họ lên.
Đó là tiêu biểu của tinh thần đoàn kết và chí khí
bất khuất của thế hệ thanh niên dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ai cũng biết rằng ở Mỹ, số thiếu niên và thanh niên
phạm tội ngày càng nhiều. Nhất là ở những thành phố lớn, ngày nào cũng xảy ra
những vụ thiếu niên và thanh niên phạm tội trộm cắp, hãm hiếp, cướp của, giết
người. Ví dụ, cách đây không lâu, tên E. Pakê, mười sáu tuổi, đã bắn chết cha
và em gái của cô A. Khi bị bắt, nó khai rằng nó đã chuẩn bị kế hoạch từ lâu
định giết cả mẹ và hai em gái của cô A. Nhưng “không may” ba người đã chạy
thoát [4].
Vừa rồi, chỉ trong mấy ngày (từ 2-2 đến 2-3), tên D.
Hoaini, mười bảy tuổi, quê ở Caliphoónia, đã giết chết năm người đàn ông và một
người đàn bà. Khi bị bắt, nó thản nhiên nói: “tôi định giết mười hai người.
Tiếc rằng tôi chưa làm được như ý muốn.”
Đó là đầu óc hư hỏng và cử chỉ điên cuồng của thế hệ
thanh niên dưới chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hai chế độ xã hội khác nhau đã giáo dục nên hai thế
hệ thanh niên khác nhau? [5]
*
Tôi cũng thuộc những thế hệ lớn lên bằng gạo mốc và
lòng tự hào rằng chúng ta còn thiếu thốn, nhưng có thừa những phẩm chất tốt đẹp
để vẫy gọi phía bên kia. Rằng ngoài chính nghĩa, lí tưởng, lòng nhân ái và chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, chúng ta còn lành mạnh. Chúng ta đầy giun sán trong
người nhưng không mắc bệnh giang mai. Không cao bồi, đĩ điếm, xì-ke ma túy.
Không bệnh hoạn, đồi trụy, dâm ô. Không thần kinh, không tự tử. “Mỹ mà xấu” bao
nhiêu, chúng ta tốt đẹp bấy nhiêu.
Có thể cái ưu thế đạo đức ấy từng có thật ở một mức
độ nhất định và đóng một vai trò chưa thể đánh giá hết trong hoàn cảnh đặc biệt
của chiến tranh. Song từ ấy đến nay chẳng có gì – từ truyền thống và thuần
phong mĩ tục đến tín ngưỡng và quốc giáo Mác-Lê-Hồ – chứng tỏ và bảo đảm
rằng người Việt thượng đẳng hơn những dân tộc khác về đạo đức. Chẳng có gì để
chúng ta phải sững sờ không tin nổi, vì sao một điều khủng khiếp này, một tội
ác tày trời nọ lại có thể xảy ra trong “xã hội ta”.
Ngược lại. Sẽ có ích hơn, nếu xuất phát từ tiền đề
rằng không có vực thẳm đạo đức nào của nhân loại là quá sâu với người Việt. Tôi
từng đinh ninh rằng xâm hại tình dục trẻ em chỉ có thể là sản phẩm của phương
Tây. Bây giờ hiếp dâm trẻ em ở Việt Nam đã thành tin nhàm. Một
bé gái 8 tuổi. Một
bé gái 7 tuổi. Một
bé gái 6 tuổi. Một
bé gái 5 tuổi. Một
bé gái 4 tuổi. Một
bé gái 3 tuổi… Không ngưỡng nào là cuối cùng. Chúng ta không là một ngoại
lệ nào hết. Cũng đầy đủ khả năng hư hỏng, điên rồ, méo mó, bệnh hoạn, hủy diệt
kẻ khác và tự hủy diệt như con người ở bất kì đâu. Xã hội Việt Nam ngày nay cũng tràn ngập những điều
rùng rợn kinh hoàng mà Hồ Chí Minh quy về cho xã hội Mỹ, cộng thêm bản sắc dã
man mông muội rất riêng của văn hóa Việt Nam.
Muộn nửa thế kỉ, cuối cùng Hà Nội cũng
đến kịp với nền “văn minh Sicagô”. Và đang nôn nóng vượt qua, như thường thấy
ở kẻ đến muộn. Trước sau Mỹ vẫn dẫn đầu về tỉ lệ tội phạm trong các nước phát
triển. Nhưng nếu đi tìm một cái xác trên dòng Chicago River, người ta sẽ không
thể trong vỏn vẹn mười ngày ngẫu nhiên gặp luôn sáu thi thể khác, như trên sông
Hồng.
© 2013 pro&contra
[1]
Những bài này sau được tập hợp thành sách trong Nói
chuyện Mỹ…, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1972, 352 trang. Ngoài ra
còn một cuốn sách khác, nhan đề Mỹ mà xấu, ghi tên
tác giả là Vladimia Pôzônê, Nxb Văn học, Hà Nội, 1964, tái bản năm 1989.
Vladimia Pôzônê – hay Vla-đi-mia Pô-dơ-ne – có phải là một trong vô vàn bút
danh khác của Hồ Chí Minh không, là một nghi vấn hợp lí.
[2]
In lại trong Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, 2000
[3]
Sđd, tập 9
[4]
Tác giả lặp lại sự việc đã được kể trong bài viết kí tên Trần Lực 5 tháng
trước, ngày 28-10-1959, nhưng tên các nhân vật liên quan có chút thay đổi.
[5]
Sđd, tập 10
No comments:
Post a Comment