Đào Thanh Hương
Tác
giả gửi tới Dân Luận
Thứ Bảy, 09/11/2013
Chủ nghĩa Mác-Lênin chân chính
Thập niên 60 thế kỷ trước,
phong trào CS phân hóa mạnh. Đảng CS ở các nước tư bản lớn chủ trương giành
chính quyền qua con đường nghị trường (nghĩa là trái với chủ trương của dùng
bạo lực của Lênin). Liên Xô tán thành (đề ra khái niệm "đảng toàn dân"),
Trung Quốc phản đối và gọi Liên Xô là bọn "xét lại chủ nghĩa Mác",
đồng thơi đề ra tiêu chuẩn "chủ nghĩa Mác-Lê chân chính", với đặc
trưng là: 1) đảng là của công nhân; 2) thực hiện đấu tranh giai cấp; 3) sử dụng
bạo lực cướp chính quyền, 4) dùng chuyên chính vô sản để tiến lên CNXH (diệt
địa chủ, tư sản, đấu tố với trí thức, văn nghệ sĩ).
CS Việt Nam đang áp dụng chuyên
chính ở miền Bắc và sử dụng bạo lực ở miền Nam nên được Trung Quốc thừa nhận là
"chân chính". Từ ngữ này rất đắc dụng thời đó, đảng nói không biết
chán... Chỉ sợ không được coi là "chân chính". Nhưng rồi biết bao
thay đổi tiếp theo: VN bỏ Trung Quốc để theo Liên Xô; Liên Xô sụp đổ, mở đầu
thoái trào CS... Cái nhóm từ "chủ nghĩa Mác-Lênin chân chính" trở
thành vô duyên, phản cảm. Tuy đảng CS VN không dùng "chân chính" nữa,
nhưng không thể bỏ hẳn sự diễn đạt nó ở điều 4 hiến pháp, với các từ "tiên
phong", "giai cấp", "Mác-Lê", "nhân dân lao
động"... nghe rất chướng.
Điều 4 (sửa đổi, bổ sung)
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội.
Xin nhớ: hiện nay "nhân
dân không lao động" đang chiếm tỷ lệ cao trong dân số, gồm học sinh, các
cụ già (chưa đến tuổi lao động và hết tuổi lao động). Nếu cộng thêm bọn tham
nhũng (không cần lao động, ngày càng đông đảo), thì chiếm tới nửa dân số. Họ
nằm ngoài điều 4.
Đã có Đảng và Nhà Nước lo
Khi đảng CS còn được tin tưởng
(đảng viên rất gương mẫu và sẵn sàng hi sinh) thì cụm từ nói trên rất đắc dụng.
Nó giúp trấn an lòng dân. Dân cứ biết tuân theo lời dạy, chỉ thị, chính sách
của đảng. Những việc quốc gia đại sự "đã có đảng và nhà nước lo".
Nhưng khi niềm tin mất đi, tham
nhũng tràn lan (thủ phạm hầu hết là đảng viên), tình hình mất đất, mất biển...
cụm từ này nghe rất phản cảm, nực cười. Đảng CS đã tự thấy mình ngu và lố bịch
- nếu còn sử dụng nó - cho nên sang 2013 dường như đã thôi hẳn.
CNXH và XHCN
"Chủ nghĩa xã hội"
(danh từ, được google cho 18 triệu kết quả) và "xã hội chủ nghĩa"
(tính từ, 120 triệu kết quả) là những từ phổ biến nhất hiện nay.
Chúng cũng trải qua 2 giai
đoạn: thăng và trầm.
CNXH = cái bong bóng sặc sỡ, từng mê hoặc nhiều người
- Thập niên 60 trước đây, đảng
chủ trương: vừa gây chiến thôn tính miền nam, lại vừa xây dựng CNXH ở miền bắc
(tập thể hóa, hợp tác hóa). Thất bại trong xây dựng CNXH, nhưng được "phe
ta" hỗ trợ hàng hóa, lương thực, khí giới, đảng CS vẫn tiến hành được cuộc
nội chiến. Khi thống nhất đất nước, đảng CS dồn toàn lực "tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên CNXH". Dân VN hy vọng tràn trề, nhưng rồi thất bại
cay đắng. Đảng CS phải sửa sai, làm khác trước (tự gọi là "đổi mới" -
có mà "đổi mới" cái cóc khô!).
- Thập niên 90, sau khi Liên Xô
sụp đổ, dân ta "ngã ngửa" mà nhận ra rằng trên đời này chưa hề có
CNXH. Nó đẹp mơ hồ, huyền ảo, giống như khải niệm "thiên đường" -
chưa bao giờ có, mà chỉ trên lý thuyết, trong tưởng tượng, với hình ảnh sặc sỡ,
mờ ảo, thuộc giấc mơ tính bằng những thế kỷ.
Bây giờ mà đảng CS còn nói leo
lẻo về CNXH chỉ tổ bị cười khẩy, kể cả nghe chửi. Khốn nỗi, không nói thế, làm
sao còn lý do ngồi trên đầu dân? Nói CNXH là "khát vọng" của dân là
sự vu cáo trơ tráo, nhưng cứ phải vu; cũng vì lý do trên.
Tính từ XHCN được gắn vào mọi
khái niệm để ca ngợi sự "hơn hẳn"; đồng thời để dè bỉu chính những
khái niệm đó khi chúng được gắn với tính từ "tư sản".
Xin tóm bằng một câu: Cộng Sản mượn những khái niệm cao cả và tốt đẹp do cách
mạng tư sản cống hiến cho nhân loại, gắn vào nó tính từ XHCN để tự khen (cái
chưa hề có) và dè bỉu cái tốt nhất hiện đang có.
Ví dụ, Nền dân chủ XHCN (như
kiểu bầu cử quốc hội, dân đã ngấy tận cổ) hơn triệu lần nền dân chủ tư sản.
Giáo dục XHCN (đang khủng hoảng) hơn hẳn giáo dục tư sản. Con người XHCN (năng
suất thấp và không ham xây dựng CNXH) hơn hẳn con người tư sản (năng suất cao
hơn)...
Định nghĩa XHCN (tính từ), các
từ điển đều ghi rõ: thuộc về CNXH, hoặc mang tính chất CNXH...
Cứ coi CNXH là thiên đường mà
nhân loại mơ ước, xin phép thay CNXH bằng "thiên đường", ta có các
định nghĩa "cười vỡ bụng" vì sự lố bịch:
- Con người XHCN = con người
mang tính chất thiên đường...= con người lêu bêu trên thiên đường...
- Pháp quyền XHCN = pháp quyền
mang tính chất thiên đường...
- Nền dân chủ XHCN = nền dân
chủ mang tính chất thiên đường...
- Nước cộng hòa XHCN = nước
cộng hòa mang tính chất thiên đường...
- Tài sản XHCN = tài sản mang
tính chất thiên đường...
- ???
No comments:
Post a Comment