Nguyễn
Ngọc Già gửi RFA từ Việt Nam
2013-09-26
2013-09-26
Tôi không muốn gọi dòng nhạc mà chúng ta bàn luận ở
đây với cái chữ "nhạc sến". Nó trở nên miệt thị một cách thiếu
hiểu biết về âm nhạc nói riêng và nền văn hóa - nghệ thuật nói chung của Việt
Nam. Do vậy, tôi xin phép gọi dòng nhạc này là: Nhạc Muồi - như nhiều người hay
gọi.
Chữ "Muồi" thường gắn liền với trái cây
chín. Chín một cách ngọt ngào, thơm mát tới tận ruột gan người dùng và nó chín
một cách tự nhiên theo quy luật tạo hóa, không phải là "chín ép"
(trong miền Nam gọi là chín "dú") hay dùng hóa chất như ngày nay
chúng ta thấy vì mục đích lợi nhuận trên hết. Cũng nên phân biệt "chín
muồi" với "chín rục".
Nhạc
Muồi, Cải Lương và Tân Cổ Giao Duyên
Khi người nghệ sĩ Cải Lương cất giọng cho bản Vọng
Cổ người ta thường khen giọng hát đó: "Hát muồi quá!". Đó có phải làm
cho Nhạc Muồi thật gần gũi với Vọng Cổ như cái tên của dòng nhạc này nên được
trân trọng hơn là chữ "nhạc sến"?
Tôi là người miền Nam, cụ thể hơn: người Sài Gòn,
nên không rành rẽ về văn hóa miền Bắc. Nói như thế không có nghĩa phân biệt hay
kỳ thị vùng miền, bởi văn hóa miền Bắc mà tôi cảm nhận, hấp thụ và thích thú,
học theo hầu như do những người miền Bắc di cư từ những năm 1954 mang lại. Tôi
có vài người bạn như thế mà tôi rất quý trọng.
Chúng ta đều biết, nhạc cổ truyền Việt Nam dựa trên
"ngũ cung" thay vì "thất cung" như nhạc phương Tây. Miền
Bắc có Chèo Cổ thì miền Nam có Cải Lương ,
tất nhiên Chèo Cổ có từ rất xưa so với Cải Lương.
Cải Lương mà thiếu Vọng Cổ, không còn là Cải Lương
nữa. Bên cạnh Vọng Cổ, trong
Cải Lương còn các bài bản khác : Nam Ai, Nam Xuân, Khốc Hoàng Thiên
v.v... Nền tảng của Vọng Cổ xuất phát từ bài "Dạ Cổ Hoài Lang" của nhạc sĩ Cao Văn
Lầu .
Dù không biết chắc chắn khoảng thời gian nhạc phương
Tây du nhập vào Việt Nam, nhưng có lẽ nó xưa như... thời những người Pháp đầu
tiên vừa đặt chân lên mảnh đất này?
Tuy nhiên, điều tôi muốn sẻ chia ở đây: người
"mang nặng đẻ đau" loại hình "Tân Cổ Giao Duyên" là nhạc sĩ
đáng kính – Viễn
Châu . Ông hiện đang sống tại Sài Gòn như "Cây Đại Thụ Vọng Cổ"
với tuổi 90.
Lịch sử của bài "Tân Cổ Giao Duyên" đầu
tiên hình thành như
nhạc sĩ Viễn Châu cho biết : Lúc
ấy, ở Sài Thành có hàng chục hãng đĩa ra đời để sản xuất đĩa ca vọng cổ phục vụ
cho giới mộ điệu. Các hãng đĩa trong những năm cuối 1950, đầu 1960 cạnh tranh
với nhau gay gắt nên soạn giả thời đó rất uy tín, được các hãng đĩa săn đón
nồng nhiệt. Chính sự cạnh tranh đã khiến các soạn giả phải suy nghĩ để tìm ra
cái mới cho bài vọng cổ của mình. Sau nhiều đêm ấp ủ, bài tân cổ giao duyên đầu
tiên "Cô hàng chè tươi" [*] của ông ra đời. Khi viết bài tân cổ giao
duyên, ông đã mạnh dạn rút ngắn phần vọng cổ (bỏ câu 3 và 4) để đưa tân nhạc vào,
tạo thành bài tân cổ giao duyên hoàn chỉnh. Khi ông viết xong bài tân cổ giao
duyên Cô hàng chè tươi (khoảng năm 1960) thì vẫn chưa biết đặt tên nó là gì.
Mãi sau này, ông mới đặt tên cho nó là tân cổ giao duyên.
Không ngoa ngôn để nói: không có Nhạc Muồi không thể
có Tân Cổ Giao Duyên.
Có thể nói, loại hình Tân Cổ Giao Duyên đã làm nên
một cuộc "tân cách mạng" Cải Lương một lần nữa, sau cái tên "Cải
Lương" vốn có như Giáo Sư Trần Văn Khê đã phân tích trên nhiều diễn đàn từ
lâu.
Như trích dẫn nêu trên, nhạc phẩm "Cô Hàng
Nước" (thể loại tân nhạc, nhưng mang âm hưởng dân ca Quan Họ rất nhiều)
của nhạc sĩ Vũ Huyến (một nhạc sĩ người miền Bắc) đã tạo cảm hứng cho Nhạc Sĩ
Viễn Châu sáng tạo ra loại hình Vọng Cổ mới vào lúc bấy giờ. Dù có một số người
trong giới có phần thủ cựu chê bai khi nó ra đời, nhưng loại hình này nhanh
chóng được chấp nhận như là một sáng tạo hết sức độc đáo, tân kỳ đánh đúng vào
nhu cầu người thưởng thức vào lúc đó.
Trên tinh thần giao thoa văn hóa hai miền Bắc - Nam,
văn hóa Đông - Tây, "Cây Đại Thụ Vọng Cổ" Viễn Châu đã để lại trong
lòng giới chuyên môn và cả công chúng một nét son cho âm nhạc Việt Nam không
phai nhạt theo thời gian.
Các cô gái Việt trong tà áo dài. AFP photo
Hầu như không nhạc sĩ nào "dám" viết Tân
Cổ Giao Duyên với "Nhạc Kích Động" [**], bởi nó quá "chỏi"
nhau, đặc biệt về tiết tấu, nó tỏ ra khó hòa hợp, nếu không nói, nó sẽ bị biến
thành "tân cổ vô duyên".
Dù loại hình Cải Lương hiện nay gần như bị suy vong
như Chèo Cổ hay Hát Bội, nhưng Tân Cổ Giao Duyên vẫn còn chỗ đứng trên sân
khấu, dù rất ít trong thời đại hiện nay. Điều đáng nói, loại hình này lại được
gìn giữ và phổ biến từ các trung tâm ca nhạc hải ngoại như: Thúy Nga, Asia, Vân
Sơn trong các kỳ đại nhạc hội, chứ nó không rộng rãi ngay tại Sài Gòn [***].
Cải Lương chỉ có vài chục bài bản quanh đi quẩn lại,
người soạn lời cứ thế mà theo để đặt lời mới. Đó phải chăng là một trong những
hạn chế lớn của Cải Lương làm cho khán giả nhàm chán? Nhịp điệu có phần
lê thê, chậm buồn và phần lớn bài bản nghe não nuột, làm cho Cải Lương có lẽ
như là đặc trưng để phản ánh và phù hợp với nền văn hóa nông nghiệp lạc hậu?
Cải Lương đứng trước nguy cơ "diệt vong",
có lẽ vì không còn đáp ứng nhu cầu hiện nay, đặc biệt giới trẻ. Nó chắc rồi sẽ
chịu chung số phận với Chèo Cổ, Hát Bội cũng như Kinh Kịch của Trung Quốc. Có
chăng, nó sẽ tồn tại ở dạng "bảo tồn" như là một nét văn hóa truyền
thống để giới thiệu với nước ngoài về một thời hoàng kim trăm năm của nó?!
Nhắc đến Cải Lương không thể không nhắc đến những
giọng ca một thời, vừa sang trọng mà nồng nàn, vừa ấm áp lại giản dị: Phùng Há,
Thành Được, Hữu Phước, Út Trà Ôn, Thanh Sang, Mỹ Châu, Thanh Nga, Phượng Liên,
Ngọc Giàu v.v...
Đa số những nghệ sĩ tên tuổi thời bấy giờ, do nhiều
yếu tố, đặc biệt do xuất thân từ các vùng miền Tây Nam Bộ khi xưa với gia cảnh
khốn khó, làm cho họ không có được một đời sống học hành tới nơi tới chốn như
nhiều người cùng thời bấy giờ. Không biết quá khứ đó có trở thành "phiên
bản" như một "cô thôn nữ", dù đẹp mặn mà, nhưng thiếu sự
"kiêu sa", "đài các" đối với những nhạc sĩ trẻ, ca sĩ trẻ
tự cho rằng mình "sang"... "như tây"?
Lực lượng nghệ sĩ Cải Lương kế thừa ngày càng vơi
dần và hụt hẫng nghiêm trọng, không còn gì cứu vớt nổi. Từ thanh cho đến sắc,
từ lương tâm nghề nghiệp cho đến say mê cống hiến, cứ ngày càng rơi rụng và
nhạt nhòa. Hiện nay, một khi giới trẻ có giọng hát như các "tiền bối"
một thời, chắc chắn họ chẳng bao giờ "đầu quân" vào... Cải Lương, bởi
nó đồng nghĩa đi vào ngõ cụt cho tương lai.
Đó là quy luật không tránh khỏi, khi gắn Cải Lương
với vấn đề tiến hóa xã hội và hội nhập quốc tế ngày nay.
Một số người, cả dân trong giới "chơi"
nhạc, đặc biệt dạo sau này trong nước (những năm 1990 trở lại đây) có vẻ có
thành kiến và xem rẻ Nhạc Muồi?
Nói đến Nhạc Muồi đối với bộ phận này, nó có vẻ gần
với sự quê mùa, lạc hậu, nghèo hèn, thậm chí pha lẫn một chút "sự thương
hại" trong ánh nhìn của họ? Thấp thoáng sự hợm hĩnh, kiêu căng của thói
"trưởng giả học làm sang", khi họ không nghiên cứu thấu đáo để hiểu
rằng: giáo dục tử tế không có nghĩa được tính qua "bằng cấp", đặc
biệt "bằng cấp" của Liên Xô và các nước trong phe cộng sản của những
năm còn mạnh cũng như vừa sụp đổ?! Tôi không có ý coi thường người dân Liên Xô
ngày xưa và các nước Đông Âu, mà chỉ muốn lên án, vạch trần tác hại của chế độ
cộng sản ảnh hưởng thế nào đến lĩnh vực nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói
riêng.
Không ai dám viết Tân Cổ Giao Duyên bằng cách kết
hợp Chèo Cổ - Nhạc Muồi hay Hát Bội - Nhạc Muồi và cũng không thể gắn Quan Họ
Bắc Ninh hay Ca Trù với Nhạc Muồi. Do đó, có thể nói Nhạc Muồi là sản phẩm độc
đáo của miền Nam (không có nghĩa nhạc sĩ và ca sĩ người Bắc không viết và ca
được, thậm chí họ viết và ca rất... muồi là đằng khác). Ở đây ý nói, Nhạc Muồi
là "đặc sản" có một không hai của Việt Nam, sản sinh từ cái nôi miền
Nam.
Có một số nghệ sĩ hát Tân Cổ Giao Duyên bằng giọng
Huế (cặp Minh Vương - Vân Khánh với bài "Chiếc nón bài thơ"), tạm
chấp nhận được, nhưng nó không phổ biến rộng rãi bằng giọng thuần Nam Bộ.
Đoàn cải lương Chuông Vàng của miền Bắc, tôi không
nghiên cứu thành lập từ khi nào, nhưng có dạo những năm đầu sau 1975, có nghệ
sĩ hát Vọng Cổ bằng giọng thuần Bắc, thật khó làm ngưới nghe chấp nhận, do đó
nó mau chóng bị bỏ qua. Sau này có nghệ sĩ Thanh Thanh Hiền ca Vọng Cổ bằng
giọng Nam Bộ có thể tạm chấp nhận được, nhưng giọng vẫn khá "cứng",
không thể che giấu với đôi tai người Nam Bộ. Thanh Thanh Hiền so với các nghệ
sĩ người miền Bắc như: Bích Sơn - giải
Thanh Tâm 1960, Thanh Vy (nghệ sĩ miền Bắc hát Cải Lương sau 1975), vẫn
còn khoảng cách lớn về cảm thụ Vọng Cổ để hát mềm mại, uyển chuyển hơn.
Trong vở tuồng nổi tiếng Tô Ánh Nguyệt, khi tranh
luận giữa hai người cha về "tống cựu nghinh tân" và "thủ cựu bài
tân", có câu: Nước biển dùng làm muối, nước ngọt dùng trồng lúa, còn nước
lợ thì người ta không biết làm gì.
Học hỏi là tính tốt, nhưng trong nghệ thuật nói
chung cũng như âm nhạc nói riêng, nó có những khắc nghiệt riêng, nếu không hiểu
ra thì dễ bị mang tiếng đua đòi, đèo bồng, đặc biệt "dây thanh đới"
là của trời cho, đúng nghĩa. Không ai giống ai và không gì có thể thay thế dây
thanh đới giữa người này với người khác, bất chấp có rèn luyện bao nhiêu năm,
có cố bắt chước cỡ nào đi chăng nữa.
Tạo hóa vẫn giữ độc quyền về sáng tạo những điều con
người không lý giải được, khi thượng đế ban cho người này dây thanh đới kiểu
này và phát cho người khác dây thanh đới kiểu khác. Do đó, có người trở thành
ca sĩ chuyên về Rock, Jazz, có người chuyên về Nhạc Muồi v.v... có người hát
"được" nhưng không bao giờ trở thành ca sĩ chuyên nghiệp. Tất nhiên
để trở thành ca sĩ chuyên nghiệp, không chỉ có một dây thanh đới phù hợp mà còn
nhiều yếu tố khác, trong đó không thiếu điều mà người ta hay gọi là
"Nghiệp".
Những
thú vị của Nhạc Muồi
Có thể nói Nhạc Muồi là nỗi cứu rỗi cho Vọng Cổ (bài
bản chính của Cải Lương). Hơn 50 năm trước, nếu Nhạc Sĩ Viễn Châu không sáng
tạo "Tân Cổ Giao Duyên", có lẽ Cải Lương nói chung và Vọng Cổ nói
riêng đã nói lời "chia tay" trên diện rộng với khán giả sớm hơn?
Nhạc Muồi khá gần gũi với Cải Lương bởi giai điệu,
tiết tấu (nghĩa là đa số bài hát chậm, buồn). Nó cũng chỉ vài điệu nhạc, chủ
yếu là Boléro, Rumba, hiếm "cao trào" trong bài hát, với "tone
thứ" làm chủ đạo. Đôi khi người ta bắt gặp những điệu chachacha, tango
được "đánh" lả lơi một chút cũng tạo ra một bản Nhạc Muồi rất muồi
mẩn và mê ly, làm đắm say lòng người.
Hình như những bài "tone trưởng" khó làm
bật lên cái đặc trưng của "Nhạc Muồi"?
Ai đó đã nói: Một bản nhạc buồn chưa chắc đã đi vào
lòng người, nhưng một bản nhạc đi vào lòng người thường là một bản nhạc buồn.
Điều này có lẽ đúng cho không chỉ riêng Nhạc Muồi.
Việt Nam, cho đến ngày nay vẫn chưa thoát khỏi nỗi
buồn. Một nỗi buồn lớn lao của cả dân tộc dưới ách cai trị bạo ngược cùng chính
sách ngu dân của cộng sản!
"Nhạc buồn" trở thành nơi cho "Nhạc
Muồi" thỏa sức vẫy vùng sáng tạo.
Nét đặc biệt thú vị của "Nhạc Muồi" không
hẳn ở điệu nhạc mà phần cốt lõi chính là lời hát mang lại cho khán giả. Lời
trong các bản Nhạc Muồi bãng lãng, bồng bềnh mà lại thiết tha, sâu lắng xen lẫn
nỗi bùi ngùi, tiếc nuối; bất chấp đó là một nỗi nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ bạn, nhớ
tình nhân đã bỏ ra đi, nhớ về tuổi hoa niên hay nhớ người yêu của lính hoặc
hoài vọng về quê cũ - nơi ta lớn lên và buộc phải rứt ruột chia lìa, cùng nhiều
tâm trạng khác.
Một số người nhìn Nhạc Muồi dưới góc độ "ủy
mị", "bi quan", thiếu tinh thần..."lạc quan cách mạng"
(!) có lẽ từ đó tạo ra "phong trào" đả kích và giết chết nhạc
vàng nói chung và Nhạc Muồi nói riêng, sau ngày "giải phóng"?
Viết "Nhạc Muồi", về phần nhạc không phải
quá khó, nhưng phần lời đòi hỏi người soạn nhạc phải vô cùng tinh tế và phải
đong đầy cảm xúc chân thật.
Điều này liên quan đến văn chương rất lớn.
Chiếc ghe chở mía trên giòng Mekong thuộc địa phận Việt Nam. RFA photo
Nhạc
Muồi và văn chương
Văn chương trong Nhạc Muồi, ngoài năng khiếu trời
cho, nó đòi hỏi một sự trải nghiệm, gọt dũa, chắt lọc cùng tính nhạy bén của
một tâm hồn nhân ái để sao cho hòa quyện phần lời thật "ăn ý" với
phần nhạc. Người nhạc sĩ chuyên sáng tác dòng nhạc này, tuyệt đại đa số, họ là
những người "văn hay chữ tốt".
Nói đến văn chương là nói đến giáo dục. Ở đây, chúng
ta đề cập đến nền giáo dục khai phóng và nhân bản. Một nền giáo dục như thế mới
có tự do làm nền cho mọi sáng tác (sáng tạo) thăng hoa. Vậy là, "đụng
đến" giáo dục "nhồi sọ" mang tính khuôn mẫu, công thức, đặt nặng
về kỹ thuật viết và đạo đức giả khi còn ngồi trên ghế nhà trường từ những năm
đầu trẻ làm quen với văn chương.
Khái niệm "văn mẫu" - một khái niệm quái
dị và phi nhân tính - mà lớp trẻ sau này hứng chịu gây tác hại to lớn; không
chỉ về việc hình thành nhân cách, đạo đức mà còn tác động lên cả lĩnh vực âm
nhạc (không chỉ Nhạc Muồi) mà chúng ta đang bàn luận ở đây. Văn chương ngày nay
hầu như không còn là nơi nuôi dưỡng, vun bồi tâm hồn hiền lương và trung thực
cho thế hệ trẻ. Đó là điều vô cùng đau xót cho Việt Nam hiện nay!
Có vẻ người cộng sản chưa bao giờ nhận thấy họ tàn
phá - mà tôi gọi (nhẹ nhất) là "ác hồn nhiên" - văn chương một
cách... "vô tư" từ (ít nhất) 38 năm qua.
Giới cầm quyền cộng sản hình như chưa bao giờ chịu
chiêm nghiệm, đúc kết và rút ra những bài học cay đắng khi nhiều năm sau
"giải phóng" họ đã xem rất nhẹ vai trò văn chương mà chỉ chú tâm và
"lèo lái" nó đi vào "con đường trụy lạc" mang tên
"chính trị".
Cao hơn, cai thứ "văn chương" sau
"giải phóng" đã lần hồi làm tha hóa tâm hồn người Việt và nô dịch cho
"lý tưởng cộng sản" - một lý tưởng không tưởng, mơ hồ, phi nhân tính.
Thế hệ trẻ ra đời, lớn lên, tiếp nối "tiền
bối" cộng sản bằng những tâm hồn xơ cứng, khô cằn, đua chen, đố kỵ, giành
giựt chỗ đứng trong "làng" và họ đầy hận thù, nhỏ nhen, bẩn chật
thông qua nhiều "nhà văn", "nhà thơ", nhiều "nhạc sĩ",
"ca sĩ", "diễn viên", "đạo diễn" sống trong sự
"nuôi nấng" và "chăm sóc" từ "vòng tay"
"đảng ta" (!). Lớp người này không thể nào là "hạt từ tâm"
như Trịnh Công Sơn đã viết.
Nhạc Muồi góp một phần không nhỏ cho "hạt mầm
từ tâm" đâm chồi vươn lên đón ánh dương ban mai buổi sớm. Nhẹ nhàng và
thanh thoát. Thánh thiện mà giản dị như "Chiếc Áo Bà Ba", như một
"Cây Cầu Dừa" và đôi khi như" Lối Thu Xưa" cho tâm hồn bãng
lãng để hoài niệm, trầm tư và cũng để biết ăn năn là gì sau những việc đã xảy
ra.
Giá như giới cầm quyền hiểu được tầm quan trọng của
văn chương ảnh hưởng không chỉ trong âm nhạc mà nó còn tác động mãnh liệt đến
thế hệ trẻ hiện nay ra sao thông qua cái gọi là... "văn mẫu" (!) Thật
khốn khổ cho nhi đồng, đến cả thanh thiếu niên ngày nay với vị "cứu
tinh" - "văn mẫu" đối với nền văn học nước Việt (!).
Không thể có một áng văn hay, không thể có một lời
nhạc bay bổng mà thiếu tự do trong đó. Nhiều độc giả chắc không khỏi thở dài
khi chúng ta cùng nhắc thêm... "tính định hướng" trong viết văn, viết
nhạc. Đó là sự thật, chí ít 38 năm qua, kể từ ngày "đảng đã cho em cuộc
đời mới", "đảng chỉ cho em đường đi tới" (!) [****].
Chính thể cộng sản đã bóp nát tâm hồn và tính sáng
tạo của tuổi trẻ ngay từ những bài học đầu đời, trước khi họ trở thành một nhà
soạn nhạc tự do đúng nghĩa của nó. Trong số các nhạc sĩ, ca sĩ hiện nay, quá
khó để tìm ra một người nghệ sĩ của nhân dân, chứ không phải loại "nghệ sĩ
nhân dân" của tư tưởng bố thí!
Những dẫn giải nói trên, có phải góp thêm để lý giải
tại sao hiếm có nhạc sĩ trẻ ngày nay viết lên những lời nhạc đậm đà chất thơ,
đẹp như một bức tranh, so với ngày trước?
Bất giác tôi nghĩ, Quốc Trung, Huy Tuấn, và một số
nhạc sĩ trẻ có tiếng hiện nay có thể nào viết ra một bản Nhạc Muồi không? Hoàn
toàn được, nhưng chắc chắn nó nặng về kỹ thuật và khô... như ngói, tựa những
giọng hát thời thượng hiện nay mà Nhạc Sĩ Nguyễn Ánh9 đã phê bình.
(còn nữa)
__________________
http://www.youtube.com/watch?v=PLILVL4oXIg
. Bài tân cổ này, dựa trên nhạc phẩm "cô hàng nước" của nhạc sĩ Vũ
Huyến. [*]
Trước 1975, loại nhạc người miền Nam hay gọi là
"Nhạc Kích Động" mà nhắc đến nó không thể thiếu tên tuổi "chuyên
trị": Mai Lệ Huyền, Hùng Cường, Carol Kim v.v... Nhưng thể loại Hiphop,
Rap, R&B, Hard Rock chưa thịnh hành như sau này. Nhạc trẻ bấy giờ thuộc về
tên tuổi nhóm "Phượng Hoàng" với Elvis Phương, Lê Hựu Hà, Nguyễn
Trung Cang v.v... và một số tên tuổi khác như "nữ hoàng" nhạc twist
Túy Phượng, "nữ hoàng" nhạc Jazz Tuyết Loan [**]
Sau những nỗ lực của đài Truyền hình Tp.HCM với
những chương trình "Vầng Trăng Cổ Nhạc", "Chuông Vàng Vọng
Cổ" ngày càng đuối dần vì hầu như không còn có nhiều khán giả và các nhà
tài trợ không mặn mà cho lắm! [***]
Lời bài hát thiếu nhi "Ai cho em tiếng hát tình
thương" của Trương Quang Lục [****]
No comments:
Post a Comment