Viet Studies 12-11-2013
1.
Hai nền kinh tế đó là gì?
Nhiều chuyên gia ở Việt Nam thường trực theo dõi các
nền kinh tế tư bản (hay thị trường) và kinh tế xã hội chủ nghĩa, đặc biệt các
biến chuyển lý thuyết, với nhiệm vụ chính là để giữ gìn những đặc trưng cho
nền kinh tế Việt Nam hiện nay được mệnh danh “kinh tế thị trường với định hướng
chủ nghĩa xã hội”. Vài chuyên gia này có nhiệm vụ chính là cho ra những
cảnh báo chính trị ở cấp cao nhất nếu thấy nền kinh tế thị trường dù chỉ đang
phôi thai ở Việt Nam đi “chệch đường” nghĩa là khác đi với các “nguyên tắc của
chủ nghĩa xã hội”.
Có quá nhiều giấy mực đã bàn về đề tài trên, nhất là
để so sánh những ưu khuyết điểm của kinh tế thị trường và kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Chúng tôi không dám mạn bàn thêm các vấn đề to lớn này, nhưng khuôn khổ
bài ngắn này sẽ đặt vấn đề một cách khác: muốn ghi lại vài nhận định thiết thực
về hai nền kinh tế thực sự đang song hành ở xứ ta: nền kinh tế sinh lợi (dịch
từ chữ “profit-making economy”) và nền kinh tế đặc lợi (tạm dịch
từ “rent-seeking economy”[2], hay còn
có thể hiểu nôm na hơn là “tìm lợi”—hay sát thực tế nhất là “đặc biệt
cho nhóm lợi ích”, theo các giải thích dưới đây).
Nền kinh tế sinh lợi chính là nền kinh tế được hướng
dẫn bởi các nguyên tắc thị trường, kết quả của hơn hai thập kỷ Đổi Mới, nôm na
là đang được dẫn đầu bởi giới doanh nhân của nền kinh tế thị trường tìm lợi
nhuận (profit) đích thực từ sản xuất bằng cách kiếm được doanh thu (revenue)
cao hơn phí sản xuất (cost)—viết theo phép số học đơn giản là: lợi nhuận =
doanh thu trừ phí sản xuất. Nền kinh tế này còn bao gồm đại đa số các thành
phần cư dân thành thị làm việc trong các hãng xưởng công tư nhằm mục đích sinh
lợi nhuận (profit) kinh doanh đích thực như định nghĩa ở trên, người làm việc
trong các khu vực sản xuất dịch vụ thật sự theo định nghĩa GDP, hay nông dân ở
tất cả các vùng nông thôn tham dự vào việc sản xuất nông sản vốn là trụ đỡ của
nền kinh tế cả nước qua các thời đại…
Trái lại, nền kinh tế đặc lợi (rent) không cần thiết
phải dựa vào sản xuất mà chỉ đơn giản là tiền hay lợi (rent) kiếm được do các
đặc quyền kinh tế như thế độc quyền sản xuất (monopoly) hay ưu đãi tín dụng
(các công ty nhà nước)…, hay đặc quyền chính trị như ở vị trí chính trị cao có
thể ban phát giấy phép hoạt động kinh tế trong một chế độ dựa vào xin-cho, hay
đặc quyền thông tin như biết trước những tin tức có lợi cho một hành vi kinh tế
hay mua bán (thí dụ biết trước tin qui hoạch một vùng đất nên trực tiếp chạy đi
mua hay cho người nhà/đàn em đi mua đất trước để bán lại với giá cao hơn nhiều
lần lúc thông tin đó được chính thức công bố cho mọi người biết), hay giản dị
nhất là lợi kiếm được nhờ tham nhũng do ở các vị trí chính trị hay hành chính
cao có thể ban phát chức tước, lợi lộc kinh tế (cấp phép dự án không thông qua
các qui luật thông thường, hay các loại giấy phép xin-cho trong khu vực sản
xuất buôn bán v.v…).
Có muôn hình vạn trạng trong xã hội ta bây giờ về
cách tìm đặc lợi mà không dựa vào sản xuất. Sự xuất
hiện nhan nhản của các “CÒ” kiếm tiền trung gian ở khắp nơi và trong mọi địa
hạt từ sinh hoạt kinh tế ở mức phức tạp đến luồn lách pháp luật như “chạy án”
hay xin “quotas”, hay để vượt qua vài thủ tục hành chính hay giấy tờ ở cấp
thấp, đơn giản nhất như để vượt qua các hàng đuôi chờ dài ở các bến xe rạp hát
đông người…
Rất khó để định lượng được chính xác tỷ trọng của
hai nền kinh tế song hành này trong nền kinh tế tổng thể của Việt nam bây giờ.
Nhưng chỉ có thể tạm ước tính vai trò tương đối của cả hai qua những thời kỳ
kinh tế chính như từ thời bao cấp (trước 1989), đến 25 năm Đổi Mới thực sự
(1991-2006), và sau đó từ 2007 đến nay khi một số nguyên tắc và vận hành căn
bản của kinh tế thị trường lại bị thay đổi bởi ảnh hưởng của các nhóm lợi ích
quan trọng và chi phối quá lớn nền kinh tế quốc gia, khiến nhiều qui luật thị
trường bị thay thế bởi các biện pháp hành chính và sự tái xuất hiện và bùng
mạnh thêm của các Tổng công ty với nhiều đặc quyền ưu thế trong sản xuất và
hưởng phân bổ tín dụng nhưng lại gây những thất thoát tài chính nghiêm trọng
cho quốc gia.
Có thể tạm hình dung các hình ảnh cùng tỷ trọng
tương đối dưới đây của 2 nền kinh tế trên nhằm mục đích phân tích chính sách,
chứ không nhằm định lượng chính xác để hy vọng bài nói chuyện ngắn này không bị
chỉ trích là thiếu luận cứ dữ kiện thống kê hay tinh thần khoa học nghiêm túc:
· Trong thời bao
cấp trước cải tổ kinh tế: nền kinh tế sinh lợi (hay thị trường) chiếm độ
70-75%, và nền kinh tế đặc lợi 25-30%
· Trong thời kỳ
Đổi Mới, nền kinh tế thị trường dù đang giai đoạn phôi thai đã tăng cường vai
trò của các sinh hoạt kinh tế chính thống và nâng tỷ trọng của khu vực kinh tế
sinh lợi lên 80-85% và khu vực kinh tế đặc lợi xuống còn 15-20%
· Trong thời kỳ
từ 2007 đến nay, khu vực sinh lợi có thể đã rơi xuống còn 65-70% và khu vực đặc
lợi đã chiếm ưu thế mới đến 30-35%.
Nhưng nghiêm trọng nhất, bài này không muốn chỉ nói
đến vấn đề công bằng hay đạo đức xã hội khi các nhóm lợi ích hay hưởng đặc lợi
về chính trị kinh tế đã hưởng lợi quá nhiều trong 5-6 năm qua, mà là trên phương
diện hiệu quả chính sách kinh tế--là mục tiêu chính của bài này. Sự thiên
vị hay ưu đãi các nhóm lợi ích (interest groups) và nhóm tìm đặc lợi
(rent-seekers) đã dẫn dắt đến tình hình kinh tế tài chính khủng hoảng hiện tại
với tăng trưởng kinh tế sụt giảm nghiêm trọng (5-6%, mặc dù công bằng cũng phải
công nhận là do ảnh hưởng một phần của hai năm suy thoái kinh tế thế giới
2008-09), so với 5 năm 2001-2005 (GDP tăng 7%-8%).
Nhưng đáng lo nhất là sự mất cân bằng vĩ mô
(macroeconomic disequilibrium) và các mất mát thua lỗ tài chính khổng lồ
(colossal financial losses) của khu vực công trong vài năm qua. Hai nguyên nhân
chính mới đây đã được các chuyên gia phân tích đầy dủ và sâu sắc:[3]
(i) Nhận xét gần đây nhất là của TS Nguyễn Đức
Thành, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), dựa trên khoảng
cách giữa tiết kiệm và đầu tư quá lớn, cho rằng “tiết kiệm của Việt Nam
so với thế giới không hề thấp (khoảng 35%) tuy nhiên tổng đầu tư/GDP của Việt
Nam giai đoạn từ 2006 – 2011 lại quá lớn, trung bình đều trên 40%; riêng năm
2011, do Chính phủ thực hiện chính sách cắt giảm đầu tư công để kiềm chế lạm
phát nên con số này chỉ dừng ở mức 34,6%”. Và “sở dĩ đầu tư của Việt Nam
luôn ở mức cao là do mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa trên mở rộng
đầu tư nhưng chất lượng đầu tư ngày càng giảm, năng suất nền kinh tế không được
cải thiện.”
(ii) Thêm vào đó, Chính phủ lại tập trung vào đầu
tư công và cho các Tổng công ty nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Vì hiệu quả
đầu tư của khư vực này thấp theo nhiều nghiên cứu khác nhau, kết quả là làm suy
giảm toàn bộ năng suất nền kinh tế, điển hình là làm hệ số ICOR tăng nhanh từ
4-5 lên 7-8 trong những năm gần đây. TS Vũ Thành Tự Anh cũng đã dẫn chứng
rằng: “Xét về mức độ phân tán/tập trung của các tập đoàn nhà nước thì Việt
Nam cũng xếp vào hàng “vô địch”. Nếu ở Việt Nam, điểm số này là 6,4 thì Hàn
Quốc chỉ là 1,7; Indonesia là 2,1; Philippines là 3,1; thậm chí Trung Quốc cũng
chỉ mức 2,3.” Cũng theo ông, tỉ lệ doanh số của 10 đại tập đoàn kinh
tế Việt Nam trên GDP thuộc loại lớn nhất thế giới. Cụ thể, tỷ lệ này của Việt
Nam lên tới 37,3%, chỉ đứng sau Hàn Quốc thời gian trước khủng hoảng, còn lại
đều vượt xa các nước khác.Thí dụ để so sánh: Trung Quốc (9,4%), Đài Loan (19%),
Indonesia (25%), Brazil (8%), Argentina (11%) và Mexico (10%).[4]
Nhưng chúng tôi muốn nhấn mạnh nhiều hơn các vấn đề
chính sách tương lai trong phần sau, không phải đơn thuần là các chính sách có
tính “kỹ trị” như tài khóa ngân sách hay giá cả…theo các thảo luận thông
thường, mà là các vấn đề căn bản hơn về thể chế, về tái lập nguyên tắc thị
trường, về khu vực kinh tế chủ đạo dẫn dắt mới, nói chung về sự thay đổi triết
lý và tư duy kinh tế căn bản để điều hành guồng máy kinh tế mới trong tinh thần
một Đổi Mới đợt II (“Economic Renewal” Mark II).
2.
Vài vấn đề chính sách lớn và khẩn cấp trước mặt
a.Vấn đề đặc lợi của một nhóm lợi ích hay đặc quyền nhỏ (thí dụ nhan nhản
là Vinashin, EVN, hay các DNNN khác sẽ được điều tra đem ra ánh sáng công luận
trong tương lai…) gây nên mất cân bằng vĩ mô căn bản giữa tổng chi tiêu và để
dành, phần lớn do khu vực đặc lợi (rent-seeking economy), đã gây nên lạm
phát cao ngất ngư trong suốt 6 năm qua (2007-2012) và là một hình thức thuế trá
hình được trả bởi đại đa số cư dân thuộc khu vực sinh lợi (profit-making
economy). Hình ảnh tiêu biểu đau lòng tương phản giữa các đoàn xe lộng lẫy hay
các căn hộ cao cấp luôn tắt đèn bỏ trống sở hữu bởi khu vực đặc lợi, so với một
thành phần lớn dân cư đang phải chạy từng bữa cơm bớt dần thịt cá do ảnh hưởng
lạm phát và sống lây lất ở các vùng ven đô hay nông thôn.
b.
Ưu tiên chính sách số một vẫn phải là giảm lạm phát, không phải bằng cách đẩy
lãi suất lên cao nữa, mà bằng cách cắt giảm các món chi tiêu công hay
bán công khổng lồ vẫn tiếp tục cho các nhóm đặc quyền dưới tên những Tổng công
ty ưu đãi, các dự án “khủng” thiếu hiệu quả kinh tế nhưng vẫn được theo đuổi do
nhóm lợi ích chi phối chính sách, các chương trình phát triển vùng/cảng/khu chế
xuất thiếu hiệu quả kinh tế, tiếp tục được tài trợ hay hưởng ưu đãi tín dụng do
“các nhân vật hay người thân đứng sau”.
c. Tình trạng đình đốn sản xuất kéo dài từ 3 năm nay đang kéo theo sự phá
sản khủng khiếp của nhiều doanh nghiệp, nhất là vừa và nhỏ, và gây khốn đốn cho
nhiều doanh gia có tim óc thật sự trong khu vực sinh lợi vì thiếu tiếp cận tín
dụng. Dần dà khu vực tư doanh sẽ được thay thế bởi các DNNN vẫn có ưu tiên tín
dụng và chúng ta sẽ trở lại thời xưa khi tỷ trọng khu vực nhà nước hay nền kinh
tế đặc lợi lại có dịp được phình to hơn với cơ chế xin-cho càng tràn lan thay
vì phải thu hẹp dưới Đổi Mới I, bản thân tự nó đang bị lung lay tận gốc rễ vì
các cơ chế thị trường tự do như tín dụng ngân hàng, lãi suất hay tỷ giá tự do
đang bị thay thế bởi các thị trường chợ đen khác nhau hay biện pháp hành chính
thay thế. Ai có thể nói chúng ta vẫn theo hay đang đẩy mạnh Đổi Mới trong
3-4 năm qua với các chính sách hiện hữu?
d. Đặc biệt là các chính sách của NHNN hiện nay nhằm
mục đích “chữa cháy ngắn hạn” bằng các biện pháp hành chính thêm dồn dập hay đã
kéo dài khá lâu, được lầm tưởng là đang có tác động tốt cho bệnh nhân là toàn
nền kinh tế hay dân cư được “ngấm thuốc” sẽ khỏi bệnh, chẳng hạn tỷ giá tạm ổn
định, lãi suất đang có chiều xuống nhờ “trần lãi suất”, phân bổ tín dụng giữa
các ngân hàng do NHNN ấn định để cứu hệ thống ngân hàng hay giúp các “ngân hàng
nhỏ”…Thật sự nếu phân tích kỹ thì các dấu hiệu trên chỉ mang tính cách tạm thời
thiếu bền vững.
(i) Tỷ giá tạm yên năm nay 2013 không phải do “ngấm
thuốc” tốt mà thật sự là phản ánh tình trạng đình đốn sản xuất đang rất nguy
kịch kéo dài từ quý 2/2011, khi các dữ kiện thống kê cho thấy chỉ số sản xuất
công nghiệp và ngay cả nông nghiệp tăng trưởng chậm dần, nhập khẩu sụt giảm hẳn
khiến mức nhập siêu hàng năm từ 10-12 tỷ USD từ các năm trước 2011 có lẽ trở
thành xuất siêu năm nay.
(ii) Các lãi suất chính sách và lãi suất huy động
trần được giảm mạnh đang đi đúng hướng theo lý luận trên đây. Nhưng việc tiếp
tục duy trì lãi suất trần này cũng như việc phân bổ trực tiếp mức tăng tín dụng
(quotas) cho từng ngân hàng đặt ra nhiều dấu hỏi cho các quan sát viên kinh tế
cả trong và ngoài nước về hiệu quả thật sự của các cải cách của NHNN. Duy trì
lãi suất cho vay trần là tiếp tục “giết” các ngân hàng nhỏ, vì họ khó huy động
vốn nơi các trương mục nhỏ lẻ của đa số dân cư. Lại một lần nữa, khu vực kinh
tế sinh lợi hay thị trường bị thiệt thòi vì tuân theo luật lệ chính thức được
công bố chỉ được trả lãi suất thấp cố định. Còn khu vực đặc lợi tuy số ít nhưng
có nhiều tiền bỏ vào ngân hàng hơn vẫn được trả trên mức lãi suất chính thức
đó.
(iii) Các ngân hàng lớn chỉ phải trả 5-6% cho vốn
huy động của đa số dân cư tìm đến ngân hàng lớn cho yên tâm, nhưng lại được thả
lỏng để cho vay trong thị trường 1 (tức là với các doanh nghiệp hay tư nhân
ngoài hệ thống NH) ở mức thỏa thuận riêng với mức cao khủng cho NIM (net
interest margin—mức lợi biên ngân hàng) theo tiêu chuẩn quốc tế. Nhờ đó “nhóm
lợi ích” gồm vài ngân hàng to lại đang hưởng lợi ích lớn nữa trên thị trường 2
với các NH khác qua thị trường liên ngân hàng. Khó nói không hề có chuyện nhóm
lợi ích trong hệ thống NH hiện nay khi các biện pháp hành chính đã làm nảy sinh
vô số rủi ro đạo đức (moral hazards).
(iv) Thêm một biện pháp hành chính nữa từ cuối tháng
2/2011 là việc NHNN áp dụng phân bổ tín dụng cho từng ngân hàng theo các tiêu
chuẩn "riêng", gây ra những lệch lạc trong thị trường. Một lần nữa,
khu vực kinh tế đặc lợi vẫn được hưởng lợi và chịu thiệt hại là khu vực sinh
lợi hay thị trường và đa số doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận tín dụng nên còn
nhiều hãng sẽ vẫn tiếp tục phá sản. Đa số dân cư chỉ được lãi suất huy động
trần thấp trong khi các NH lớn cho vay ở mức cao trên TT 1 cho các doanh nghiệp
cần vốn trong khu vực thị trường sinh lợi đang bàn đến.
e. Vấn đề lớn nữa là cần xem lại vai trò của chính sách tài khóa để kích
cầu bằng cách bội chi ngân sách và vay ồ ạt qua trái phiếu chính phủ trong năm
nay 2013.
f.
Vấn đề sau nữa cho tái cấu trúc kinh tế và chính sách tài chính công là cần đưa
mới vai trò chủ đạo của doanh nghiệp tư nhân thay vì các DNNN. Đây là một quyết định cả chính trị lẫn kinh tế can đảm nhất trong bối
cảnh chính trị hiện tại của VN. Sẽ cần giảm cả tỷ lệ thu lẫn chi ngân sách so
với GDP trong vài năm tới như kim chỉ nam dẫn đường cho chiến lược kinh tế mới
này. Một biện pháp gây sốc nhưng rất quan trọng là giảm thuế doanh nghiệp từ
25% xuống còn 20% trong bước đầu.
g. Sau cùng, cố gắng tạo lối ra cho các thị trường chứng khoán và bất động
sản bằng sự cải thiện môi trường vĩ mô bền vững và tìm các nhà đầu tư mới có
thể “gây sốc” và tái lập niềm tin lâu dài cho thị trường và người đầu tu. (xem khung 1).
Khung 1. Lối ra cho các TT Chứng Khoán và Bất Động Sản
v Tình hình kinh tế vĩ mô phải
có bước ngoặt nhanh chóng để gây lại niềm tin là Chính Phủ thực sự sẽ kiểm
soát được tình hình kinh tế vĩ mô.
v Cần giảm lạm phát thêm trong
các quý 1-2/2014 và dẫn đến giảm lãi suất cuối quý 2. Thị trường BĐS cũng sẽ
phục hồi từ từ sau TTCK khi lãi suất có dấu hiệu giảm thực sự.
v Giải pháp tối ưu và khả thi
hiện tại rõ ràng là phải dùng chính sách tài khóa để hỗ trợ thực sự chính
sách tiền tệ nhằm giảm tổng cầu và lạm phát, và từ từ sẽ nới lỏng chính sách
tiền tệ để giảm lãi suất.
v Bất động sản: cần các
cú sốc từ việc tái cơ cấu nền kinh tế và có mặt các nhà đầu tư mới
v Sau khi thị trường BĐS được
khởi động từ lãi suất, thị trường này chỉ có thể phục hồi nhanh chóng nếu có cú
sốc ào ạt từ các nhà đầu tư mới (thí dụ thực tế nhất và “hấp dẫn” nhất là các
nhà đầu tư Nhật bản đang tìm cách di dời cư dân và nhiều xưởng hãng từ các
vủng bị tsunami và dò rỉ từ trung tâm nguyên tử quanh vùng Tokyo), đây sẽ là
điều gây tác động tâm lý mạnh nhất cho BĐS ở Việt Nam.
v Ngoài ra các chính sách tái cơ
cấu nền kinh tế sẽ tiếp sức mạnh mẽ cho nhu cầu BĐS nếu khu vực tư nhân được
đóng vai trò chủ đạo trong nỗ lực giảm thật sự đầu tư công và vai trò các
doanh nghiệp nhà nước. Việc giảm thuế doanh nghiệp xuống 20% sẽ là bước đầu
cho chính sách này.
|
KẾT
LUẬN NGẮN CÙNG ĐỀ XUẤT ĐỊNH LƯỢNG CHO CHÍNH SÁCH VĨ MÔ TRUNG HẠN ĐẾN 2015
(1) Sau các nhận định ngắn gọn và thẳng thắn về thực
trạng kinh tế đất nước năm 2013, chúng tôi chỉ muốn đề nghị là nên thay đổi
chiến lược căn bản từ cấp chính trị cao nhất về đường hướng và thể chế của nền
kinh tế đến áp dụng ngay các biện pháp cấp thiết vĩ mô ngắn và trung hạn đến
2015 để tái lập các cân bằng vĩ mô đã mất trong 6 năm qua từ 2007:
(2) Giảm bớt các đặc quyền và ưu đãi hiện có của
khu vực kinh tế đặc lợi (rent-seeking economy) và nâng cao vai trò của khu vực
doanh nhân tư nhân là đầu máy (locomotive) của khu vực kinh tế thị trường hay
sinh lợi (profit-oriented economy)
(3) Trong tinh thần trên, tuyên bố chính thức vai
trò chủ đạo của khu vực kinh tế tư nhân thay vì các DNNN là bước sáng kiến thứ
nhất
(4) Giảm gánh nặng thuế nói chung của nền kinh tế
(giảm dần tỷ lệ tổng thu/GDP) và giảm thuế doanh nghiệp nói riêng từ 25% xuống
20% từ năm nay là bước chủ động thứ hai
(5) Tập trung việc tái cấu trúc ba ngành kinh tế vào
một cơ quan chỉ đạo duy nhất dưới sự đôn đốc trực tiếp và toàn thì của một Phó
Thủ Tướng với sự trợ giúp của các chuyên gia trong và ngoài chính phủ, cùng với
một thư ký đoàn (secretariat) gồm chuyên viên các bộ liên hệ thuộc loại “trẻ,
giỏi” đang có mặt rất nhiều trong các cơ quan hay trên các diễn đàn kinh tế.
(6) Công bố chính thức một định hướng bằng số cho
các chính sách vĩ mô trung hạn (thí dụ trong bảng kèm dưới đây) để hướng dẫn về
định hướng chính sách mới của chính phủ và tái lập niềm tin cho các doanh nhân
và giới đầu tư.
(7) Cần sự minh bạch thông tin hơn lúc nào hết, các
chỉ số suy yếu kinh tế rất rõ ràng từ khu công nghiệp và nhập khẩu như bàn
trên, và cần cập nhật hóa số tăng trưởng GDP cho ba năm qua 2011-2013. Tổng cục
Thống kê cũng cần giải thích rõ hơn về các tính toán của mình. Ngoài ra thị
trường tài chính vẫn đợi sự công bố chính thức các số liệu về khảo sát tiền tệ
và dự trữ ngoại hối như NHNN đã hứa trước đây.
Bảng
1: Vài chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trung hạn cho 2013-2015
Nguồn: Các số liệu 2011-15 dựa trên các tính toán
ước tính và dự báo của tác giả.
Ghi
chú:
1) Số liệu 2010 là số
thực hiện, 2011 là ước thực hiện, từ 2012-2015 là số mục tiêu
2) *Tỷ giá tự do vào
cuối năm (theo mục tiêu trượt giá 1,5-2% mỗi năm như trong quá khứ)
3) **Theo cách tính
của Việt Nam
4) *** Chưa tính đầu
tư từ tín dụng ngân hàng
5) **** Chưa tính đầu
tư của địa phương, phần không đưa vào cân đối ngân sách.
6) ***** Cán cân thanh
toán tổng thể trong năm 2011-2015 thặng dư tổng cộng 40,3 tỷ USD
[1] Tác giả là chuyên gia kinh tế độc lập.
[2] Chữ “rent” nôm na nhất có thể dịch là “địa tô” trong kinh tế học, thường
được nói đến để chỉ thu nhập của những sở hữu chủ đất đai, là một trong các yếu
tố đầu vào căn bản của sản xuất như lao động (labor), tư bản (capital),
và đất đai (land).
[3] Xin xem “Vì sao bất ổn vĩ mô của Việt Nam kéo dài?, của Khánh Linh (TTVN)
trên mạng cafef.vn, http://cafef.vn/20120321043525142CA33/vi-sao-bat-on-vi-mo-cua-viet-nam-keo-dai.chn,
báo cáo về buổi Tọa đàm “Hướng tới một khung khổ chính sách kinh tế vĩ mô cho
Việt Nam trong trung và dài hạn” (21/3/2012).
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 11-11-13
No comments:
Post a Comment