Phạm Đỗ
Chí
Viet
Studies 14-11-2013
Chưa
năm nào có nhiều hội thảo và tranh luận sôi nổi về hiện trạng nền kinh tế như
năm nay. Các giới chức và chuyên gia trong chính phủ thì cho là kinh tế Việt
Nam đã ổn định khá và đang phục hồi. Vài đại biểu và chuyên gia Quốc Hội thì
nhìn thấy “màu xám”, còn vài chuyên gia ngoài chính phủ hay nhiều nhóm dân cư
lại vẫn thấy “màu tối”, theo báo chí. Chuyện gì đang xảy ra?
Một nhận định của nhiều người trong kỳ hội thảo mùa
thu về Kinh tế[1]
mới đây là nền kinh tế đang rất xấu với nguy cơ “vỡ trận tài chính” trong năm
2014 và triển vọng trung hạn 2013-15 cũng không mấy sáng sủa vì việc tái cấu
trúc kinh tế chưa được triển khai hiệu quả bằng hành động. Riêng trong phát
biểu mở đầu, TS Trần Đình Thiên gọi kinh tế VN vẫn đang mò đáy, chứ chưa thoát
đáy như vài nhà kinh tế khác lạc quan hơn đã nhận định mới đây.
Thêm một chuyên gia độc lập nhận xét là tình trạng
sản xuất trong nền kinh tế VN gần như tê liệt vì các doanh nghiệp thi nhau phá
sản hay đóng cửa từ 2011, tăng trưởng GDP có thể trì trệ hơn và nạn thất nghiệp
gia tăng mạnh hơn các con số chính thức, gây ra các tệ nạn xã hội báo động.
Trong khi chính sách tín dụng trong cả nước cũng hoàn toàn nghẽn mạch—một phần
vì doanh nghiệp không đủ sức hấp thụ và vì ngân hàng không muốn cho vay (với thanh
khoản yếu do nợ xấu gây ra).
Nói chung, hoạch định chính sách kinh tế có thể khó
khăn hơn nếu không được dựa trên dữ kiện rõ ràng hay chính xác (economic
planning without facts), như nhà kinh tế nổi tiếng Kornai đã từng cảnh cáo cho
nền kinh tế Hung ga ri thời còn bao cấp.
Bài trình bầy của nhóm nghiên cứu Chương trình Giảng
dạy Fulbright ở Saigon qua Giám đốc Nguyễn Xuân Thành[2],
phân tích trong 4 động cơ liên quan đến tăng trưởng thì 3 “động cơ nội” trục
trặc, chỉ có một động cơ “ngoại” là khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) đang chạy tốt, và nhận định quan trọng là 3 động cơ nội trục trặc là do
bị ảnh hưởng của thể chế kinh tế (khu vực quốc doanh làm chủ đạo), động cơ
ngoại chạy tốt do không bị ảnh hưởng hoăc bị ảnh hưởng rất ít của thể chế trong
nước. Tỷ trọng giá trị gia tăng của khu vực FDI trong GDP là 13% năm 2000, đến
năm 2012 tỷ lệ này tăng khoảng 7 điểm phần trăm lên xấp xỉ 20%; lượng tiền chi
trả sở hữu thuần ra nước ngoài (chi trả sở hữu – thu từ sở hữu) của năm 2012
tăng khoảng 25 lần so với năm 2000 và nếu loại trừ yếu tố giá thì tỷ lệ này
cũng tăng xấp xỉ 9 lần.
Điều này làm nổi bật một điều là do đóng góp đáng kể
của FDI vào tăng trưởng GDP, thu nhập quốc gia gộp (GNI—gross national income)
không tăng nhanh theo cùng mức với GDP, và thu nhập lẫn tiêu thụ nội địa đều
yếu dẫn đến mức tổng cầu yếu đã được ghi nhận từ ba năm qua. Từ những lập luân
trên phải chăng càng tăng trưởng GDP theo kiểu này thì luồng tiền và của cải
của đất nước càng sụt giảm, trong khi FDI càng thu lợi nhờ nhân công và thuê
đất rẻ lại tránh được thuế (xem dưới đây)?
Mặt khác, khi đã xác định được sự đình trệ của khu
vực sản xuất trong nước phần lớn là do thể chế thì các nhà họach định chính
sách có thể cải thiện thể chế để phục hồi cơ cấu sản xuất và cả nền kinh tế.
Việc cải thiện thể chế không chỉ đơn giản là cải cách hành chính hay chống tham
nhũng như một số giới kêu gọi, hay là giãn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, mà
chính là thiết lập thật sự sân chơi bằng phẳng, minh bạch đối với khu vưc
tư nhân và nông nghiệp. Đây chính là nền tảng thiết yếu của chính sách
tái cơ cấu kinh tế đang muốn thực hiện bởi chính phủ. Vì nến tảng chưa được
thiết lập, việc áp dụng mới bị bế tắc!
Điều này không tốn kém nhưng cũng rất khó khăn vì
phải tái cơ cấu tư duy của các nhà lãnh đạo và điều hành kinh tế! Việc đạt được
thành tích tăng trưởng cao ngắn hạn mỗi năm thực sự không quan trọng bằng việc
phục hồi 3 động cơ “nội”, theo cách phân tích nói trên của nhóm Fulbright.
Từ nghiên cứu quan trọng của nhóm này, chúng ta cũng
có thể suy nghĩ thêm về những mảng sáng tối, và những lý do đàng sau, của bức
tranh kinh tế Việt nam khá phức tạp năm nay với các diễn đạt khác biệt từ những
góc nhìn khác nhau.
Cả nền kinh tế nói chung vẫn trong tình trạng tương
đối trì trệ của 2 năm trước với mức GDP thực tế chỉ tăng quanh 5% (con số chính
thức được coi là lạc quan!). Nhưng phần lớn tăng trưởng được ghi nhận là do nhóm
sản xuất FDI . Và đó cũng là lý do cho điểm sáng hiếm hoi của xuất
khẩu vẫn tăng khá năm nay. Nhưng với các kỹ thuật chuyển giá để khai
lỗ của nhóm doanh nghiệp FDI, đóng góp vào thuế doanh nghiệp của khu vực
này gần như rất ít, trong khi các doanh nghiệp tư nhân ngoài FDI và nhà
nước thua lỗ nên không thể đóng thuế: thêm một lý do cho thất thu thuế
năm nay, ngoài chuyện trì trệ sản xuất.
Ngoài ra do tình trạng suy yếu của sản xuất nói
chung, mức nhập siêu 10-12 tỷ USD của các năm trước 2011 đang trở thành xuất
siêu, giúp cho cán cân vãng lai và thanh toán tổng thể được thặng dư, và là lý
do căn bản làm bớt được áp lực tỷ giá.
Áp lực lên tỷ giá cũng bớt đi do chuyên độc quyền
vàng miếng SJC làm bớt nhu cầu nhập lậu vàng. Trong khi NHNN có
thể hân hoan với kết quả này, câu hỏi bất cập khác xuất hiện là khối vàng trên
60 tấn do NHNN độc quyền bán ra đã đi đâu? Khoảng 30 tấn được giải thích là cho
nhu cầu tất toán của hệ thống ngân hàng trong năm, nhưng còn hơn 30 tấn
vàng kia đi đâu? Báo chí xuất hiện thêm loạt bài nói là “tham nhũng ưa
chuộng vàng miếng”, làm dấy lên mối lo ngại trước đây về các kênh tẩu thoát của
vàng không được mong muốn, một câu hỏi nhức nhối khó trả lời và cần thời gian.
Chuyện bán ra khối vàng quan trọng cùng với việc
phát hành 170.000 tỳ đồng trái phiếu chính phủ cũng được coi là hai biện pháp
giúp rút bớt khối tiền đồng lưu hành để tránh áp lực lạm phát do việc NHNN mua
vào thành công khối dự trữ ngoại hối tăng đến mức kỷ lục 28 tỷ USD, so với sự
thất bại năm 2007 do thiếu biện pháp này để trung hòa khối tiền đồng tung ra để
mua khoảng 10 tỷ USD do FDI và đầu tư gián tiếp FII mang đến. Câu hỏi đặt
ra là tiền lớn đều chui vào vàng và chi tiêu chính phủ, còn đâu “room” cho đầu
tư của tư nhân khi bị khu vực chi tiêu chính phủ chèn ép?
Sau hết, sản xuất trì trệ nói chung trên đây cũng
gây trở ngại cho mức tổng cầu và hấp thụ tín dụng của nền kinh tế. Do đó, tín
dụng mới tăng hơn 6% cuối tháng 10 và cả năm khó đạt mục tiêu tăng 12%,
và là nguyên nhân chính giúp giảm áp lực lạm phát.
Về nhu cầu chính sách tương lai trong ngắn hạn, có
2 luồng ý kiến: thứ nhất là kích cầu từ đầu tư công qua nới rộng
mức độ bội chi ngân sách và thứ hai là “kiên trì” ổn định kinh tế vĩ mô.
Việc “kích cầu”, qua đầu tư công thiếu hiệu quả, có thể nhất thời làm tăng GDP
nhưng không bền vững và chỉ nhằm mục đích “thành tích” ngắn hạn, và một vòng
xoáy lạm phát – suy trầm bị e ngại sẽ lại tiếp diễn trong năm 2014 như đã xảy
ra các năm trước đây. Hơn nữa trong lúc các tỉnh thành lớn đều hụt thu nội địa
thì việc nâng trần bội chi ngân sách quốc gia (lên 5,3% cho năm nay và năm tới)
để dáp ứng việc giải quyết tăng GDP ngắn hạn là một việc không nên làm trong
lúc này.
Điều
gây bức xúc nhất vẫn là chính sách trung hạn: tiếp tục
in trái phiếu khoảng 150.000-200.000 tỷ mỗi năm như lối ra cho chính sách tài
khóa theo dự kiến hiện tại quả là không ổn cho bức tranh lạm phát và tổng thể.
Và không giải quyết được nghẽn mạch tín dụng bằng việc tiếp tục vô thời hạn các
biện pháp hành chính hiện nay trong chính sách tiền tệ, thay vì các biện pháp
thị trường, do chính NHNN đã khổ công xây dựng trong nhiều năm trước đây mà
kinh tế đất nước cũng đã rất quen thuộc-- mới là chuyện quan trọng: liệu có thể
để các doanh nghiệp tiếp tục dẫy chết và guồng máy sản xuất suy đốn thêm?
Nhìn chung, búc tranh kinh tế 2013 có những điểm
sáng như xuất khẩu tăng, tỷ giá ổn định, lạm phát giảm dần, được một số nhà
kinh tế quen thuộc trong nước ngợi khen, nhưng nghĩ kỹ đều phản ánh những tia
sáng le lói khó bền vững, vì chỉ đi ra từ sự kiệt quệ của nền kinh tế tư nhân
với hàng chục ngàn doanh nghiệp đóng cửa hay lỗ nặng hàng tháng. Cạn nguồn
thuế, ngân sách không thể kéo dài chuyện in tiền qua phát hành trái phiếu của
chính phủ hay của các doanh nghiệp nhà nước được bảo lãnh. Đây không thể là
tình trạng kéo dài thêm được lâu nữa.
Trong phần tóm tắt kết luận hội thảo, một nhân vật
hữu trách quan trọng khẳng định là nền kinh tế không hề tê liệt
để trả lời thẳng vào nhận xét chuyên gia trên đây, nhưng lại cũng hoàn toàn im
lặng về các đề xuất thay đổi thể chế như nêu trên. Thay vào đó, vị này nhấn
mạnh về yếu tố phục hồi tăng trưởng cho năm tới, và nêu nhận xét là các chuyên
gia đã rõ ràng và đồng thuận trong phần nhận định hiện trạng, nhưng chưa đưa ra
được các giải pháp chính sách phục hồi kinh tế cụ thể. Và hình như đó là bế tắc
của khóa hội thảo mùa thu, cũng như của nền kinh tế suốt bốn mùa!
Trước bế tắc đó, phải chăng cần nghĩ đến giải pháp
“cuối cùng” như chuyên gia Võ Đại Lược vừa đề nghị với Ủy ban Kinh tế Trung
ương là mời IMF trở lại để trợ giúp cả kỹ thuật lẫn tài chính? Kỹ thuật vì họ
có cái nhìn khách quan vượt trên được các nhóm lợi ích và có thể giúp tái lập
bức tranh tổng thể với số liệu chính xác. Tài chính vì nhu cầu vốn để xóa món
nợ xấu ngân hàng cũng như giảm khối nợ công quốc gia khổng lồ (ước tính vượt
100% GDP, gồm cả nợ của các doanh nghiệp nhà nước do chính phủ bảo lãnh) có thể
lên đến 40-50 tỷ USD, con số ít ai dám nghĩ đến, nhưng là số dựa vào kinh
nghiệm trợ giúp của IMF cho Thái lan và Nam dương.
[1]
Do Ủy ban Kinh tế Quốc Hội tổ chức ở Huế vào hai ngày 26-27/9/2013.
[2]
Tóm tắt của TS Bùi Trinh trong một bài viết ngắn chưa xuất bản.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 13-11-13
No comments:
Post a Comment