Thứ tư, tháng mười một 13, 2013
Có bạn hỏi nghĩ gì về sự kiện Việt Nam được bầu vào
Hội đồng nhân quyền của Liên hiệp quốc? Nói bầu bán cho sang chứ cần 4 xuất mà
có 4 nước ứng cử thì còn bầu bán nỗi gì? Mất hoàn toàn tính cạnh tranh. Trong
tôi luôn có hai suy nghĩ mâu thuẫn và trái ngược về sự kiện này.
1. Việt Nam không xứng đáng ngồi vào Hội đồng nhân quyền của LHQ vì nhiều
quyền cơ bản của con người chưa được đáp ứng như nhiều tổ chức quốc tế lên
tiếng. Biểu hiện rõ rệt nhất là nhiều người phải ngồi tù chỉ vì nói thật suy
nghĩ của mình một cách ôn hòa. Chúng ta có thể kể tên nhiều người: Điếu Cày;
Trần Huỳnh Duy Thức; Nguyễn Tiến Trung; Lê Công Định; Tạ Phong Tần; Nguyễn Xuân
Nghĩa; Đinh Đăng Định…Họ thực sự là những tù nhân lương tâm không chỉ của VN mà
còn là của nhân loại: đó là khát vọng cất lên tiếng nói chống lại cái xấu, ác
vì một tương lai tốt đẹp hơn…
Và tôi tìm cách biện hộ rằng, nhìn vào lịch sử của
Hội đồng nhân quyền (trước đây là Ủy ban nhân quyền) thì thấy vắng mặt khá nhiều
những nước văn minh, tiến bộ. Hầu như là những nước đang gặp nhiều sự chỉ trích
về nhân quyền có mặt tại Hội đồng này. Quyền con người đã được luật hóa khiến
công dân được bảo vệ tối đa chống lại tất cả những gì phi nhân tính nên các
nước văn minh, tiến bộ không cần quan tâm đến những hội đồng giúp công dân họ
xem xét lại những bất cập của chính phủ trong vi phạm nhân quyền. Nhân quyền
vốn như hơi thở, có thiếu vắng bao giờ mà phải cần đến sự trợ giúp của bình ô
xy dưỡng khí từ bên ngoài? Cho nên nơi nào ngột ngạt tự do, dân chủ thì mới cần
sự đánh giá, xem xét, trợ giúp…của ngoại lực. Hội đồng nhân quyền vì thế rất
cần cho những nước như Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu Ba, Arap
Saudi…Thế nên mới có cảnh bầu bán không có cạnh tranh như vừa qua: 4 nước châu
Á ứng cử thì chọn cả 4, trong đó có Việt Nam.
Qua đây cũng có thể thấy tính hình thức, chiếu lệ,
thậm chí là bất lực của Liên Hiệp Quốc nói riêng và Hội đồng nhân quyền nói
riêng. Thế mới có chuyện, xưa nay chưa khi nào các giám sát viên nhân quyền
Liên Hiệp Quốc có thể vào VN để thăm và điều tra về các vụ bị cho là có tình
trạng lạm dụng.
2. Nếu nghĩ theo cách tích cực thì tôi nghĩ, có thể áp dụng quan điểm giáo
dục hiện đại là, thay vì tiêu diệt, đả kích thói độc ác, xấu xa, con người nên
được khêu gợi khuyến khích những mầm tốt, hướng thiện để họ tự giáo dục và cải
tạo bản thân mình…
Việc VN đã ở trong Hội đồng nhân quyền thì chắc chắn
không thể nói là nhân quyền của VN khác với các nước do tính đặc thù về văn
hóa, truyền thống, như xưa nay các quan chức có trách nhiệm vẫn hay phát biểu.
Anh không thể đem quả bóng do anh thiết kế vào đá chung sân với các cầu thủ
khác và nói rằng, tôi chỉ hợp với loại bóng này (để đỡ đau chân tôi)…Đây cũng
là thời gian để chính quyền nhìn lại Tuyên ngôn nhân quyền của LHQ đã được luật
hóa và thực thi như thế nào trong cuộc sống? Người dân từ nay có Tuyên ngôn
nhân quyền làm tham chiếu cho việc giám sát thực thi quyền con người của chính
quyền Việt Nam với tư cách là chính phủ của mình, vừa với tư cách là hội viên
trong Hội đồng nhân quyền LHQ. Khi Việt Nam đã tự đứng soi trước một tấm gương
thì mọi xấu tốt sẽ được phô bày trước bàn dân thiên hạ. Còn nếu Việt Nam tự lấy
tấm vải đen che gương để khỏi thấy mặt mình nhọ nhem thì lại là chuyện khác -
câu chuyện về văn hóa và liêm sỷ.
Thế nên bước vào Hội đồng nhân quyền dễ hơn là ở lại
đó, ghi dấu ấn chứng tỏ về một đất nước đã trưởng thành, nói và làm không trái
ngược như ngày với đêm.
Chưa khi nào người Việt Nam có được vận hội chứng tỏ
với thế giới là chúng ta có nhân quyền như thời điểm này…
Và bất kỳ
người Việt Nam nào cũng nên nằm lòng, thực hiện đầy đủ về Tuyên ngôn nhân quyền
mà Liên hiệp quốc đã đưa ra từ năm 1948
TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN
Xét rằng: Sự công nhận nhân phẩm của tất cả con
người trong đại gia đình nhân loại và những quyền bình đẳng không thể tước đoạt
của họ là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.
Xét rằng: Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền
đã dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại. Việc tiến đến
một thế giới trong đó tất cả mọi người được hưởng sự tự do ngôn luận, tự do tín
ngưỡng, không còn lo sợ hãi và nghèo khó, phải được tuyên xưng như là ước vọng
cao nhất của con người.
Xét rằng: Nhân Quyền cần phải được bảo vệ bằng luật
pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp cuối cùng là
vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.
Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia cần
được khuyến khích và mở rộng.
Xét rằng: Trong Hiến Chương, các dân tộc của cộng
đồng Liên Hiệp Quốc đã lại một lần nữa xác định niềm tin vào những quyền căn
bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị con người, vào quyền bình đẳng nam
nữ và cũng đã quyết định cổ vũ cho các tiến bộ xã hội và cải tiến mức nhân sinh
trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.
Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác
với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn
bản.
Xét rằng: Sự hiểu biết chung về nhân quyền và tự do
là điều tối quan trọng để có thể thực hiện đầy đủ sự cam kết trên.
Do đó, Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc long trọng công
bố Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền này như là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của
mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá nhân và thành phần của xã hội
luôn luôn theo sát tinh thần của Bản Tuyên Ngôn, dùng sự truyền đạt và giáo
dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.
Mặt khác, bằng những phương thức tiến bộ trong phạm
vi quốc gia cũng như quốc tế, phải bảo đảm sự thừa nhận và tuân hành Bản Tuyên
Ngôn một cách có hiệu lực, trong các dân tộc của các nước thành viên, và ngay
cả trong những người dân sống trên các phần đất thuộc quyền cai quản của các
nước đó.
Ðiều
1:
Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về
nhân phẩm và quyền. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm và vì thế
phải đối xử với nhau trên tinh thần bác ái.
Ðiều
2:
Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền và tự do
được công bố trong Bản Tuyên Ngôn này và không có một sự phân biệt nào, như
chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất
cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất
cả những hoàn cảnh khác. Hơn nữa, cũng không được có sự phân biệt nào đối với
con người sống trên một quốc gia hay trên một lãnh thổ, căn cứ trên cơ chế
chính trị, nền tảng luật pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ đó.
Cho dù quốc gia hay lãnh thổ này độc lập hay dưới sự bảo hộ, không được tự trị
hay ở trong tình trạng bị hạn chế về chủ quyền.
Ðiều
3:
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn
cá nhân.
Ðiều
4:
Không ai bị cưỡng bức làm nô lệ hay tôi đòi. Chế độ
nô lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị nghiêm cấm.
Ðiều
5:
Không một người nào phải chịu cực hình, tra tấn, hay
bất kỳ hình thức đối xử, hoặc trừng phạt bất nhân, hay có tính cách lăng nhục.
Ðiều
6:
Ở bất cứ nơi nào, mỗi người đều có quyền được công
nhận tư cách con người của mình trước pháp luật.
Ðiều
7:
Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và
phải được bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị phân biệt. Tất cả đều được
quyền bảo vệ ngang nhau, chống lại mọi kỳ thị vi phạm Bản Tuyên Ngôn này, cũng
như chống lại mọi kích động dẫn đến kỳ thị như vậy.
Ðiều
8:
Mọi người đều có quyền được bảo vệ và bênh vực bởi
các cơ quan tư pháp quốc gia có thẩm quyền về các hành vi vi phạm các quyền căn
bản, do Hiến Pháp và Luật Pháp quy định.
Ðiều
9:
Không một ai bị bắt bớ, cầm tù hay lưu đày một cách
độc đoán.
Ðiều
10:
Mọi người đều có bằng nhau quyền được phân xử công
khai và công bằng, trước một tòa án độc lập và vô tư, để được phán quyết về các
quyền lợi và nhiệm vụ của mình, hay về những tội phạm mà mình bị cáo buộc.
Ðiều
11:
1. Khi truy tố trước pháp luật, mọi
người được xem là vô tội, cho đến khi pháp luật chứng minh là có tội, trong một
phiên tòa công khai và tòa án này phải cung ứng tất cả mọi bảo đảm cần thiết
cho quyền biện hộ của đương sự.
2. Không ai có thể bị kết án khi có
những hành động hay sơ suất xảy ra vào lúc mà luật pháp của quốc gia hay quốc
tế không qui định đó là một hành vi phạm pháp. Tương tự như vậy, không được áp
đặt một hình phạt nào nặng hơn hình phạt được ấn định vào lúc hành vi phạm pháp
xảy ra.
Ðiều
12:
Không một ai bị xâm phạm một cách độc đoán về đời
sống riêng tư, gia đình, nhà ở, hay thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hay
tiếng tăm của mình. Mọi người đều có quyền được luật pháp bảo vệ, trước những
xâm phạm và xúc phạm như vậy.
Ðiều
13:
1. Mọi người có quyền tự do di chuyển và
cư trú, trong phạm vi biên giới của quốc gia.
2. Mọi người đều có quyền rời khỏi lãnh
thổ bất kỳ nước nào, kể cả nước của mình, và quyền trở về xứ sở.
Ðiều
14:
1. Trước sự ngược đãi, mọi người đều có
quyền tị nạn và tìm sự dung thân tại các quốc gia khác.
2. Quyền này không được kể đến, trong
trường hợp bị truy nã thật sự vì các tội phạm không có tính chính trị, hay do
những hành vi trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
Ðiều
15:
1. Mọi người đều có quyền có quốc tịch.
2. Không một ai bị tước bỏ quốc tịch,
hay bị từ chối quyền thay đổi quốc tịch, một cách độc đoán.
Ðiều
16:
1. Nam và nữ trong tuổi trưởng thành có
quyền kết hôn và lập gia đình, mà không bị hạn chế về lý do chủng tộc, quốc
tịch hay tôn giáo. Nam nữ đều có quyền bình đẳng lúc kết hôn, trong đời sống vợ
chồng và lúc ly hôn.
2. Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả
hai đều được tự do quyết định và đồng ý thật sự.
3. Gia đình phải được xem là một đơn vị
tự nhiên và căn bản của xã hội, và được quyền bảo vệ của xã hội và quốc gia.
Ðiều
17:
1. Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản
cá nhân cũng như tập thể.
2. Không ai có thể bị tước đoạt tài sản
của mình một cách độc đoán.
Ðiều
18:
Mọi người đều có quyền về tự do tư tưởng, nhận thức
và tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng,
cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình, với tư cách cá
nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay nơi chốn riêng, bằng sự truyền dạy, thực
hành, thờ phượng và áp dụng các nghi thức đạo giáo.
Ðiều
19:
Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ
quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị xen vào quấy rầy và
được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương
tiện truyền thông bất kể biên giới.
Ðiều
20:
1. Mọi người đều có quyền tự do hội họp
và lập hội, một cách ôn hòa.
2. Không một ai có thể bị cưỡng bách gia
nhập vào một đoàn thể.
Ðiều
21:
1. Mọi người đều có quyền tham gia vào
việc điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu được
tuyển chọn một cách tự do.
2. Mọi người đều có quyền đón nhận những
dịch vụ công cộng của quốc gia một cách bình đẳng.
3. Ý muốn của người dân phải là nền tảng
của quyền lực chính quyền. Ý muốn này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử
định kỳ và thực sự, bằng phiếu kín, qua phương thức phổ thông và bình đẳng đầu
phiếu, hay các phương thức tương đương của bầu cử tự do.
Ðiều
22:
Vì là thành viên của xã hội, mỗi người đều có quyền
an ninh xã hội, qua các cố gắng của quốc gia và hợp tác quốc tế, dựa theo
phương cách tổ chức và tài nguyên của mỗi nước. Quyền này được đặt trên căn bản
của sự thụ hưởng những quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, cần thiết cho nhân
phẩm và sự phát triển tự do của mỗi cá nhân.
Ðiều
23:
1. Mọi người đều có quyền làm việc,
quyền tự do chọn việc làm, quyền được hưởng các điều kiện làm việc chính đáng
và thuận lợi đối với công việc, và quyền được bảo vệ chống thất nghiệp.
2. Mọi người, không vì lý do kỳ thị nào,
đều có quyền được hưởng lương bổng như nhau cho cùng một công việc.
3. Mọi người làm việc đều được quyền
hưởng thù lao một cách công bằng và thích hợp, khả dĩ bảo đảm cho bản thân và
gia đình mình một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm, cũng như được trợ giúp nếu
cần, qua các phương thức bảo vệ xã hội khác.
4. Mọi người đều có quyền thành lập và
tham gia vào các nghiệp đoàn, để bảo vệ quyền lợi của mình.
Ðiều
24:
Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và giải trí, kể cả
việc hạn chế hợp lý số giờ làm việc, và các ngày nghỉ định kỳ có trả lương.
Ðiều
25:
1. Mọi người đều có quyền được hưởng một
mức sống phù hợp với sức khỏe và sự no ấm cho bản thân và gia đình bao gồm:
thực phẩm, quần áo, nhà ở, y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, quyền an sinh
trong lúc thất nghiệp, đau ốm, tàn tật, góa bụa, tuổi già hay các tình huống
thiếu thốn khác do các hoàn cảnh ngoài khả năng kiểm soát của mình.
2. Các bà mẹ và trẻ con phải được hưởng
sự chăm sóc và trợ giúp đặc biệt. Tất cả mọi trẻ con, sinh có hôn thú hay
không, đều được xã hội bảo vệ một cách bình đẳng.
Ðiều
26:
1. Mọi người đều có quyền được giáo dục.
Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và căn bản. Giáo dục
tiểu học phải bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được mở rộng và
giáo dục đại học phải được mở rộng bình đẳng cho mọi người, trên căn bản tài
năng xứng đáng.
2. Giáo dục phải được điều hướng để phát
triển đầy đủ nhân cách, và củng cố sự tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do
căn bản. Giáo dục phải nhằm cổ vũ sự cảm thông, lòng khoan dung, và tình hữu
nghị giữa mọi quốc gia, mọi nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, và hỗ trợ việc phát
triển các sinh hoạt của Liên Hiệp Quốc nhằm duy trì hòa bình.
3. Cha mẹ có quyền ưu tiên chọn lựa
phương cách giáo dục dành cho con cái mình.
Ðiều
27:
1. Mọi người đều có quyền tự do tham gia
sinh hoạt văn hóa cộng đồng, thưởng thức các bộ môn nghệ thuật, và cùng chia sẻ
các tiến bộ khoa học cũng như các lợi ích của khoa học.
2. Mọi người đều có quyền được bảo vệ về
tác quyền, trên bình diện tinh thần cũng như quyền lợi vật chất, đối với các
tác phẩm khoa học, văn chương, hay nghệ thuật.
Ðiều
28:
Mọi người đều có quyền đòi hỏi được sống trong một
trật tự xã hội và trật tự quốc tế, trong đó các quyền và các tự do được đề cập
trong Bản Tuyên Ngôn này có thể được thể hiện đầy đủ.
Ðiều
29:
1. Mọi người đều có bổn phận đối với
cộng đồng nào mà chỉ trong đó mới có thể phát triển toàn vẹn và tự do nhân cách
của mình.
2. Trong việc hành xử nhân quyền và thụ
hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định, và những hạn
chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và
quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính
đáng về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân
chủ.
3. Trong bất cứ trường hợp nào, nhân
quyền và những quyền tự do này cũng không được hành xử trái với những mục tiêu
và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc.
Ðiều
30:
Không một điều nào trong Bản Tuyên Ngôn này được
hiểu và hàm ý cho phép một nước, một nhóm hay một cá nhân nào được quyền có
những việc làm hay hành động nhằm hủy diệt nhân quyền và tự do được thừa nhận
trong bản Tuyên Ngôn này.
Liên
Hiệp Quốc, ngày 10 tháng 12 năm 1948
Được đăng bởi thùy linh vào lúc Thứ tư, tháng mười một 13, 2013
No comments:
Post a Comment