4.11.2013
(tiếp theo Phần 1)
Trong
một vụ án, khó nhất là tìm ra thủ phạm. Khi thủ phạm đã nhận tội, tìm nguyên
nhân là điều không khó.
Tổng
Thống John Kennedy đã nhận mình là “chính phạm”, và khai rõ những ai là “tòng
phạm”. Qua “lời tự khai” được thu băng chỉ kéo dài 5 phút (kể cả gần 2 phút nói
truyện với con), ông Kennedy, sau khi nhận trách nhiệm của mình, đã “khai” rõ
những ai chống, và những ai chủ trương đảo chánh. Tìm hiểu về quan điểm và chủ
trương của từng người, sẽ biết nguyên nhân cuộc đảo chánh. Bản ký tự từ một
cuốn băng giải mật vào năm 1998, được thu tiếng tại Bạch Ốc vào chiều ngày Thứ
Hai 04 tháng 11, 1963 (hơn một ngày sau khi anh em ông Diệm bị giết), và hiện
được lưu trữ tại Thư Viện Tổng Thống Kennedy ở Boston, cho biết như sau:
Tổng Thống Kennedy: Cuộc đảo chánh đã
xẩy ra tại Sài Gòn vào cuối tuần. Nó là tột đỉnh của cuộc thảo
luận trong ba tháng về một cuộc đảo chánh, một cuộc thảo luận đã
gây chia rẽ trong chính quyền ở đây và ở Sài Gòn.
Chống lại một cuộc đảo chánh là Tướng [Maxwell] Taylor,
Bộ Trưởng Tư Pháp [Robert Kennedy], Bộ Trưởng [Quốc Phòng Robert]
McNamara, [chống đối] ở mức độ thấp hơn là John McCone, một phần vì
mối hiềm khích cũ đối với [Henry Cabot] Lodge [Jr.] khiến ông ta thiếu
tin tưởng vào sự phán đoán của Lodge, một phần là kết quả của mối
hiềm khích mới vì Lodge đã thay thế trưởng cơ sở [CIA] của ông ta tại
Sài Gòn; thiên về cuộc đảo chánh là Bộ Ngoại Giao, dẫn đầu bởi
Averell Harriman, George Ball, Roger Hilsman, được hậu thuẫn bởi Mike
Forrestal tại Bạch Ốc.
Tôi cảm thấy chúng ta phải gánh vác rất nhiều trách
nhiệm vì nó đã khởi sự bằng điện văn của chúng ta gửi vào đầu*
tháng Tám trong đó chúng ta gợi ý cuộc đảo chánh. Theo nhận định
của tôi điện văn đó đã được thảo quá tệ, đáng lẽ nó không bao giờ
được gửi đi vào một ngày Thứ Bảy. Đáng lẽ tôi đã không nên chấp
thuận nó mà không qua một cuộc thảo luận bàn tròn để qua đó McNamara
và Taylor có thể trình bầy quan điểm của họ. Trong khi chúng ta đã
sửa lại tầm mức của nó trong các điện văn sau đấy, chính điện văn đầu
tiên ấy đã khuyến khích Lodge theo chiều hướng ông ta đã muốn tiến
tới. [Tướng Paul] Harkins tiếp tục chống đối cuộc đảo chánh trên căn
bản là nỗ lực quân sự đang tiến hành tốt đẹp. Có một rạn nứt rõ
ràng giữa Sài Gòn và phần còn lại của đất nước. Tình hình chính trị
đang suy thoái. Mặt quân sự đã không bị ảnh hưởng; tuy nhiên, có cảm
nhận rằng nó sẽ bị ảnh hưởng. Vì lý do này, Bộ Trưởng McNamara và
Tướng Taylor ủng hộ việc tăng thêm áp lực đối với Diệm và Nhu để họ
thay đổi.
(Đến đây có tiếng hai con nhỏ của Tổng Thống Kennedy,
John John 3 tuổi và Caroline 6 tuổi, đối thoại với Bố trong giây lát
về chuyện trẻ con, như tại sao lá rụng, tại sao có tuyết…., trước khi
Kennedy tiếp tục)
TT Kennedy: Tôi đã bị sốc về cái
chết của Diệm và Nhu. Tôi đã gặp Diệm với Thẩm Phán Tối Cao Douglas
nhiều năm trước. Ông đã là người có cá tính ngoại hạng và trong khi
ông trở thành khó khăn vào những tháng vừa rồi nhưng trong khoảng mười
năm qua ông đã giữ vững nước ông để duy trì được nền đôc lập dưới
những nghịch cảnh rất khó khăn. Cách mà ông đã bị giết thật là kinh
khủng. Vấn đề bây giờ là liệu các tướng có thể đoàn kết với nhau
để cùng xây dựng một chính quyền ổn định hay là Sài Gòn sẽ bắt
đầu, công luận tại Sài Gòn, trí thức, sinh viên, vân vân sẽ chỉ trích
chính quyền này như là áp bức và phi dân chủ trong một tương lai không
xa”.
(Dịch theo bản ký tự từ băng tổng thống ghi lại lời
Tổng Thống Kennedy thu tiếng ngày 4 tháng 11, 1963, item 52.1, JFKL).
“Lời
khai” của Tổng Thống Kennedy, tuy có thể ghi gọn trong một trang giấy, nhưng đã
chứa đựng hầu hết những thông tin quan trọng cho việc truy tìm nguyên nhân của
vụ án.
Trong
lời ghi âm của Tổng Thống Kennedy, ông đã nhắc tới điện văn được “gửi vào đầu
tháng Tám”. Đúng ra, đây là điện văn mang số 243 được gửi váo cuối tháng
Tám, chính xác là vào hồi 9 giờ 36 phút tối Thứ Bảy, 24 tháng 8, 1963, từ Bộ
Ngoại Giao Mỹ ở Washington, cho Đại Sứ Lodge ở Sài Gòn.
Sau
khi ông Nhu ra lệnh tấn công chùa vào 21 tháng 8, Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sàigòn đã
điện về Bộ Ngoại Giao hỏi ý kiến là Mỹ sẽ có thái độ như thế nào. Điện tới Bộ
Ngoại Giao vào chiều Thứ Bảy, đã được ba giới chức cao cấp có mặt đọc và trả
lời, là các ông Averell Harriman, Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách Đông Nam Á,
Roger Hilsman, Phụ Tá Ngoại Trưởng đặc trách Đông Nam Á, và Michael Forrestal,
nhân viên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tại Bạch Ốc. Điện văn mở đầu:
Hiện đã rõ là dù giới quân sự đề nghị ban hành lệnh thiết quân
luật hay là ông Nhu lừa gạt họ làm như vậy, ông Nhu cũng đã lợi dụng lệnh ấy để
tấn công chùa bằng cảnh sát và Lực Lượng Đặc Biệt của Tung trung thành với ông
ta, như thế để đổ trách nhiệm cho quân đội trước con mắt của thế giới và nhân
dân Việt Nam. Cũng đã rõ là ông Nhu đã dùng thủ đoạn để nắm lấy vai trò điều
khiển.
Chính phủ Mỹ không thể dung dưỡng tình trạng quyền hành nằm
trong tay ông Nhu. Ông Diệm phải có cơ hội để loại ông Nhu và phe đảng của ông
này, và thay thế họ bằng những nhân vật dân sự và quân sự tốt nhất có thể.
Mặc dầu tất cả cố gắng của các ông, nếu ông Diệm vẫn còn cương
quyết từ chối, khi ấy chúng ta sẽ phải đứng trước khả năng là ngay cả ông Diệm
cũng không được duy trì…”
Đây
là lần đầu tiên Washington nói thẳng ông Diệm có thể bị thay thế.
Như
Tổng Thống Kennedy đã nói, điện văn quan trọng này đáng lẽ không nên được gửi
đi. Nhưng ba nhân vật thảo ra nó đã cố gửi đi được, và sáng Thứ Hai 26 tháng 8,
1963, vì Bộ Trưởng McNamara và Tướng Taylor phản đối, Tổng Thống Kennedy đã họp
Hội Đồng An Ninh Quốc Gia thảo luận về vụ này. Nhưng khi lấy biểu quyết, không
ai đồng ý “hủy bỏ” (cancel).
Theo
tiết lộ của Tổng Thống Kennedy, có hai phe chống và chủ trương đảo chánh. Trong
bốn người chống, có ba người từng chủ trương gửi quân chiến đấu tới Việt Nam,
là Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara, Tướng Marxwell Taylor, và Tướng Paul Harkins.
Như vậy, không thể nói Mỹ chủ trương đảo chánh lật ông Diệm để có thể mang quân
tới Việt Nam, vì những người từng đề nghị mang quân tới, chính là những người
chống đảo chánh.
Bộ Trưởng Quốc Phòng
Robert McNamara và Tướng Maxwell Taylor trò chuyện trước một buổi họp trong Ngũ
Giác Đài (Argenta Images)
Về
Tổng Thống Kennnedy, khi trả lời câu hỏi trong cuộc họp báo ngày 5 tháng Năm
1961 về việc có gửi quân tới Việt nam không, ông Kennedy nói: “Vấn đề quân đội…
chuyện chúng ta sẽ làm gì để giúp Việt Nam có được nền độc lập là … chuyện còn
đang được cứu xét”. Ông Kennedy không nói rõ, vì ở thế kẹt. Trước công luận,
nếu khẳng định không gửi quân, sẽ bị chỉ trích là không cứng rắn đủ với cộng
sản, trong khi ấy, bản thân ông không chủ trương gửi quân và đã bác bỏ mọi đề
nghị gửi quân. Trong cuộc phỏng vấn về “Chiến Tranh Lạnh” ngày 8 tháng Sáu,
1996, Roger Hilsman nói: “Ông ấy (Kennedy) từng nói với tôi – tôi là Phụ Tá
Ngoại
Trưởng
đặc trách Đông Á, do đó tôi có trách nhiệm về Việt Nam – chúng ta sẽ làm bất cứ
điều gì có thể để giúp họ (VN), nhưng chúng ta sẽ không đánh, chúng ta sẽ không
gửi một người lính Mỹ nào tới đó để đánh”. Cũng trong cuộc phỏng vấn này,
Hilsman cho biết thêm:
“Kennedy
bắt đầu khi còn là một dân biểu trẻ, rất ủng hộ Ngô Đình Diệm, tin rằng Ngô
Đình Diệm có thể thắng, nhưng rồi xẩy ra chuyện Vịnh Con Heo, nếu vụ này không
xẩy ra trước, câu chuyện đã có thể khác. Nhưng Kennedy tiếp tục rói rằng, anh
biết đấy, làm sao tôi có thể đòi hỏi dân Mỹ chiến đấu ở Việt Nam, một nơi xa
nước Mỹ chín ngàn dặm, mà không chiến đấu ở Cuba, chỉ cách nước Mỹ có chín mươi
dặm? Vì thế, ông đã quyết tâm giúp VN tất cả những gì ông có thể, nhưng không
đánh”.
Roger Hilsman, Phụ
Tá Ngoại Trưởng đặc trách Đông Á dưới thời TT Kennedy (từ chức năm 1964 – vì
bất đồng với chính sách về chíến tranh Việt Nam của TT Johnson –và được thay
thế bởi William Bundy)
Trong
khi ấy, những người chủ trương đảo chánh lại là những người kịch liệt
chống lại việc mang quân Mỹ tới chiến đấu tại Việt Nam.
Vẫn
theo tiết lộ của ông Kennedy, “thiên về cuộc đảo chánh là Bộ Ngoại Giao,
dẫn đầu bởi Averell Harriman, George Ball, Roger Hilsman, được hậu thuẫn
bởi Mike Forrestal tại Bạch Ốc”. Tại sao Bộ Ngoại Giao và những người này
chủ trương lật đổ ông Diệm?
Dưới
thời Tổng Thống Eisenhower, Ngoại Trưởng Foster Dulles theo đuổi chính sách
cứng rắn với cộng sản Á Châu, và tích cực ửng hộ chính quyền Ngô Đình Diệm.
Đứng đầu bộ ngoại giao thời Tổng Thống Kennedy là Dean Rusk, ông này vốn là một
viên chức ngoại giao chuyên nghiệp, nhiều kinh nghiệm thừa hành hơn là nắm vững
về chính sách. Theo các tác giả của The Wise Men, khi chọn ngoại trưởng,
tổng thống mới đắc cử John Kennedy nghĩ rằng Tổng Thống Eisenhower đã cho Ngoại
Trưởng Dulles quá nhiều quyền, do đó, ông muốn tự mình định đoạt chính sách
ngoại giao. Ông đã chọn ông Dean Rusk như một người thừa hành. Ông này, sau có
danh hiệu là “Ông Phật”, mỗi lần họp hội đồng an ninh quốc gia, chỉ ngồi mỉm
cười, thường không nói gì, cũng không ai biết ông nghĩ gì. Cho nên, khi Tổng
Thống Kennedy nói Bộ Ngoại Giao chủ trương đảo chánh, Ngoại Trưởng Dean Rusk có
thể coi là vô can. Mọi mưu cơ đều do Averell Harriman.
Từ trái qua phải: Bộ
trưởng Ngoại Giao –chỉ định Dean Rusk, Bộ trưởng Ngoại Giao Christian Herter
(dưới thời Eisenhower – thay thế John Foster Dulles khi Dulles bị bạo bệnh năm
1959), TT-đắc cử Kennedy, và TT Eisenhower trong một buổi họp ở Tòa Bạch Cung,
ngày 19 tháng 1 năm 1961)
Averell
Harriman
Trong
các viên chức cao cấp thuộc đảng Dân Chủ còn lại từ thời chính quyền Truman
được ông Kennedy mời tham gia chính phủ hay hỏi ý kiến, ông Averell Harriman bị
tân tổng thống bỏ qua. Tuy vậy, ông cũng được tân Ngoại Trưởng Dean Rusk dành
cho chức “đại sứ lưu động”, sai đi ngoại quốc khi cần thiết. Đối với Tổng Thống
Kennedy, Harriman thuộc hàng cha chú trong đảng. Ông đã là Bộ Trưởng Thương Mại
từ thời Truman, thống đốc New York, đặc sứ của Tổng Thống Roosevelt tại châu
Âu. Ông Harriman đã theo cha sang Nga khi Nga Hoàng còn trị vì, sau này là đại
sứ Mỹ tại Moscow, là người Mỹ gặp Stalin nhiều nhất, và được Khrushchev ưa
thích. Khi phải thương thuyết với Liên Xô về Lào, Kennedy mới nhờ tới Harriman,
và nói với ông ta: “Tôi muốn một sự xếp đặt qua thương nghị. Tôi không muốn can
thiệp bằng quân sự”.
Averell Harriman
trên bìa báo Time số ra ngày 2 tháng 8 năm 1963
Tổng
Thống Kennedy chọn ông Averell Harriman – từ công tác tại hội nghị Genève về
Lào – vào chức Phụ Tá Ngoại Trưởng về Đông Nam Á vào tháng 11 năm 1961.
Harriman là người mạnh mẽ chống lại đề nghị của Tướng Taylor gửi một đạo quân
từ sáu đến tám ngàn người tới VN vào năm 1961. Tháng Ba 1963, Harriman được
thăng chức từ Phụ Tá Ngoại Trưởng lên Thứ Trưởng đặc trách về chính trị. Mặc
dầu vào năm 1954, Harriman trong số những chính khách chủ trương sự hiện diện
của Mỹ tại Đông Nam Á, nhưng ít năm sau, ông lại muốn Việt Nam là một vùng
trung lập như Lào. Vào thời kỳ hội nghị về Lào kết thúc giữa năm 1962, Harriman
đã tìm cơ hội thương thuyết với Hà Nội. Để tránh sự theo dõi của phái đoàn
VNCH, Harriman cùng với Bill Sullivan vào một con hẻm ở Genève, đi qua một cửa
hậu nhà bếp để gặp Ngoại Trưởng Bắc Việt Ung Văn Khiêm, nhưng Khiêm cực lực phủ
nhận vai trò của Hà Nội, nói rằng “Bắc Việt không can dự chi hết tới cuộc chiến
tại Nam VN”.
Averell Harriman, TT
Ngô Đình Diệm, và Đại sứ Frederick Nolting trong buổi họp tại Dinh Độc Lập ngày
20 tháng 9 năm 1961
Để
vận động cho sự thành công của hội nghị về Lào, Harriman đã tới Sài Gòn, thảo
luận gay go với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và có gặp cả ông Ngô Đình Nhu. Bên nào
cũng hăng say biện luận cho quyền lợi của nước mình. Nước Mỹ sợ thất bại ở Lào,
đạt được một thỏa hiệp “trung lập” ở đây là điều tốt nhất. Còn sau này, nếu nền
trung lập đó không được tôn trọng, là lỗi của cộng sản, không phải của Mỹ. Với
anh em ông Diệm, trung lập ở Lào là mở cửa cho cộng sản thôn tính Nam VN, phải
kịch liệt chống lại. Mỹ và VNCH là đồng minh, nhưng quyền lợi hai bên trong vụ
này hoàn toàn trái ngược. Cả hai bên cùng thông thạo tiếng Pháp. Khi tranh luận
trực tiếp bằng cùng một ngôn ngữ, càng hăng hái, sự khác biệt càng dễ biến
thành thù địch. Dù tức giận, Sài Gòn chẳng làm gì được Harriman, và cuối cùng,
cũng phải ký vào hiệp định về Lào. Nhưng Harriman đã có biệt danh “cá sấu”. Tại
bàn hội nghị, mắt ông ta lúc nào cũng lim dim như mắt cá sấu nằm bên bờ lạch,
lâu lâu “táp” một cái, con mồi khó thoát. Bobby Kennedy đã tặng ông ta một con
cá sấu nhỏ bằng vàng, và nhân viên ông ta tặng một con bằng bạc, coi như kỷ vật
“từ các nạn nhân”. Cá sấu Harriman đợi hơn một năm, táp được anh em ông Diệm.
George
Ball
Thứ
trưởng Ngoại Giao George Ball và TT Johnson
Thứ
Trưởng Ngoại Giao George Ball là người hăng hái thứ nhì sau Harriman cổ võ cho
cuộc đảo chánh lật ông Diệm. George Ball cho rằng cần có một chính quyền được
lòng dân ở Sài Gòn để dân không theo Việt Cộng. Việc tấn công chùa vào đêm 21
tháng 8 theo lệnh của ông Nhu càng làm cho George Ball tin rằng phải lật ông
Diệm nếu ông không chịu loại ông Nhu khỏi chính quyền. Trước sự chống đối của
các ông McNamara và Kennedy, George Ball vẫn khăng khăng: “Chúng ta không thể
thắng cuộc chiến chống cộng sản nếu ông Diệm vẫn nắm quyền. Chúng ta phải quyết
định bây giờ để tiến hành tới kết quả vụ lật đổ ông Diệm”.
George
Ball cũng là người mạnh mẽ chống lại đề nghị đưa quân Mỹ vào chiến đấu ở Việt
Nam. Theo ông “không ai đã có thể chứng tỏ rằng một lực lượng bộ binh da trắng
lớn bất cứ cỡ nào có thể thắng một trận chiến du kích, mà cùng lúc lại là cuộc
nội chiến giữa những ngưới Á châu”. Trước khi là Thứ Trưởng Ngoại Giao, George
Ball là một luật sư sau chiến tranh thứ hai, lui tới Paris nhiều lần, hiểu rõ
thất bại của Pháp tại Việt Nam, lo sợ Mỹ cũng có thể thất bại như thế. Trước đề
nghị của Taylor/Rostow và Bộ Tham Mưu Liên Quân về việc mang quân chiến đấu vào
VN hồi tháng 11, 1961, George Ball đã nói thẳng với Tổng Thống Kennedy: “Nếu đề
nghị của Taylor/Rostow được thực hiện, trong vòng 5 năm nữa, chúng ta sẽ có
300.000 quân ở ruộng và rừng Việt Nam, rồi không bao giờ thấy lại họ nữa”.
Kennedy thốt lên: “George, sao anh điên khùng như thế, chuyện ấy sẽ không bao
giờ sẩy ra”.
Roger
Hilsman
Roger
Hilsman là giám đốc sở tình báo và nghiên cứu Bộ Ngoại Giao từ đầu 1961, được
làm Phụ Tá Ngoại Trưởng đặc trách Đông Nam Á khi Harriman lên hàng Thứ Trưởng
vào tháng Ba 1963, và đã cùng Harriman thảo ra điện văn 243 gửi cho Đại Sứ
Lodge tối 24 tháng 8, 1963. Hilsman từng có kinh nghiệm chiến tranh du kích tại
Miến Điện thời Thế chiến Thứ Nhì. Khởi đầu, Hilsman ủng hộ chương trình ấp
chiến lược tại Nam Việt Nam, nhưng về sau thất vọng, cho rằng ông Nhu đã làm
sai những gì thực hiện thành công tại Mã Lai.
Hilsman
dựa vào quan điểm của RKG Thompson về ấp chiến lược đã được áp dụng thành công
ở Mã Lai, theo đó: Đường tiếp tế không đi từ Bắc Kinh tới Việt Nam, mà từ dân
làng tới các nhóm du kích. Cắt đường tiếp tế này, du kích sẽ đe dọa dân làng,
vậy, phải bảo vệ dân làng. Khi được bảo vệ, dân làng sẽ tự tin, không sợ du
kích nữa, và sẽ hợp tác, trung thành với chính phủ. Chương trình ấp chiến lược
phải được thực hiện dần như vết dầu loang. Bình định trước, lập ấp sau để bảo
vệ dân. Số lượng ấp tăng dần khi diện tích vùng an ninh tăng thêm. Cuối cùng,
tất cả dân chúng đều được bảo vệ, có cuộc sống yên ổn, trong khi du kích quân
cạn nguồn tiếp tế lương thực và nhân lực, không còn môi trường sống, bị tiêu
diệt.
Vẫn
theo Hilsman, chương trình ấp chiến lược tại Nam VN đã bị ông Nhu thực hiện
hoàn toàn trái ngược: Không khởi đầu từ khu vực an ninh trước, mà từ những vùng
“xôi đậu” (dân theo quốc gia và cộng sản sống lẫn lộn với nhau) thiếu an ninh
nhất ở gần biên giới Cam Bốt. Thay vì bảo vệ dân, ông Nhu đã dùng việc thành
lập ấp để sàng lọc dân, gây bất mãn trong dân chúng. Từ chỗ bất mãn, rất dễ làm
nội ứng cho địch. Và vì nằm tại những vùng thiếu an ninh, chẳng bao lâu sau khi
thành lập, ấp thường bị phá, gây tổn thất về tài sản và nhân mạng cho dân.
Theo
Hilsman — hãnh diện là một trong số rất ít viên chức cao cấp Hoa Kỳ có kinh
nghiệm bản thân về chiến tranh chống du kích — ông Nhu đã làm sai kế hoạch
chống du kích, đã phung phí tiền viện trợ chống du kích vào mục tiêu riêng của
mình, vậy, muốn cuộc chiến thành công, phải sớm loại ông Nhu. Nếu ông Diệm
không chịu, thì phải chung số phận với em mình. Hilsman đã từng gặp ông Nhu ở
Sài Gòn vào đầu năm 1963, được ông đãi tiệc và nghe ông nói truyện. Hilsman kể
lai: “Ông ấy nói về xâm nhập Thái Lan và xâm nhập Lào và nói rằng anh phải trở
về nói với tổng thống của anh rằng bây giờ là cơ hội Trời cho, để nắm lấy cả
Đông Nam Á”. Cũng như Harriman, Hilsman tin vào lời đồn ông Nhu nghiện thuốc
phiện, nên có đầu óc hoang tưởng.
Hoàn
toàn không tin tưởng vào việc chống nổi dậy bằng chiến tranh quy ước, Hilsman
cho rằng: tăng thêm quân là tuyển mộ thêm Việt Cộng, hơn là giết họ. Cho nên,
hãy dùng các biện pháp chính trị, và tránh xa quân sự. Về vai trò của Mỹ tại
Việt Nam, theo Hilsman: “Không thể dùng người Mỹ để xậy dựng quốc gia Việt.
Người Việt phải làm điều đó, hay nó không được làm. Đấy là điều Tổng Thống
Kennedy đã nói ‘Đó là cuộc chiến của họ. Họ phải thắng hay thua. Chúng ta chỉ
có thể giúp họ’”.
Michael
Forrestal
Người
cuối cùng trong bốn người chủ trương đảo chánh đã được Tổng Thống Kennedy nêu
tên, cũng là người trẻ nhất, mới 35 tuổi, là Michael Forrestal, nhân viên Hội
đồng An ninh Quốc gia tại Bạch Ốc. Là con của Bộ Trưởng Quốc Phòng James
Forrestal, Michael đã được Harriman coi như con nuôi từ khi mồ côi cha vào năm
1949. Khi Harriman làm đại sứ Mỹ tại Moscow, đã cho cậu này theo làm phụ tá tùy
viên Hải Quân. Theo The Wise Men, có lần Tổng Thống Kennedy đã nửa đùa
nửa thật, nói rằng “công việc của Forrestal trong bộ tham mưu Bạch Ốc là ‘đại
sứ của tôi tại cái nước được biết tới là Averell Harriamn’”. Tóm lại, Forrestal
chỉ là một thứ thiên lôi chỉ đâu đánh đấy của Harriman.
Điểm
qua chủ trương lập trường của các viên chức cao cấp Mỹ đã thúc đẩy cuộc đảo
chánh năm 1963, tất cả họ đều chống lại việc mang quân Mỹ chiến đấu vào Việt
Nam. Nhưng chỉ hơn một năm sau đảo chánh, Mỹ đã ồ ạt đổ quân vào tham chiến tại
Việt Nam, nguyên nhân tại đâu?
***
Tổng
Thống Lyndon Johnson là người không đồng ý cuộc đảo chánh. Tới Sài Gòn vào
tháng Năm, 1961, ông đã công khai ca tụng Tổng Thống Ngô Đình Diệm là “Winston
Churchill của Đông Nam Á”. Sau khi kế vị Kennedy, vì giận những người đã tích
cực thúc đẩy đảo chánh, Hilsman là người đầu tiên bị ông Johnson loại bỏ, nhưng
nhờ biết trước, đã xin nghỉ chỉ vài giờ trước khi chính thức bị sa thải. Còn
Harriman, khi nhìn thấy Hilsman ra đi, nói “nếu tôi còn trẻ như anh, tôi cũng
từ chức”. Vì không từ chức, đã bị Johnson coi thường, nói là người không đáng
xách rác cho ông, bị ông giáng chức, cho đi Phi châu, trước khi trở lại địa vị
làm cảnh là “đại sứ lưu động”.
Trong
khoảng hơn một năm sau đảo chánh, Tổng Thống Johnson đã đưa quân chiến đấu vào
Việt Nam, không phải vì Tổng Thống Diệm không còn nữa để ngăn cản, mà vì ông
Diệm không còn nữa nên tình hình suy sụp mau lẹ. Ông Johnson phải lựa chọn: rút
lui hay nhảy vào cứu nguy.
Trước
hết, khó rút lui. Johnson phải tranh cử vào năm 1964, thời gian gấp rút, chỉ
còn dưới một năm, ông phải làm thế nảo đề khỏi bị dán nhẫn nhiệu “tổng thống
thua cuộc”. Mới làm chủ Bạch Ốc, ông Johnson đã nói với Đại Sứ Lodge, từng là
ứng cử viên phó tổng thống của đảng Cộng Hòa vừa về từ Sài Gòn: “Tôi sẽ không
là Tổng Thống nhìn Đông Nam Á đi theo con đường của Trung Hoa” (mất về tay cộng
sản). Nếu không thể rút lui, chỉ còn cách tiến tới.
Trong
cuộc phỏng vấn thu hình để làm tài liệu cho hồ sơ “chiến tranh lạnh” vào ngày
03 tháng Sáu, 1996, trả lời câu hỏi tại sao sau khi cầm quyền ông Johnson đã
gia tăng chiến tranh, và có cần làm thế không, Jack Valenti, phụ tá thân cận
nhất của ông Johnson đã trình bầy khá rõ về hoàn cảnh của người bất ngờ kế vị
Kennedy:
Trước hết, Johnson đã chứng tỏ cho toàn quốc biết vào ngày 22
tháng 11, 1963, khi ông tuyên thệ nhậm chức trên Air Force One rằng, trong khi
ngọn đèn tại Bạch Ốc có thể lập lòe, nhưng nó không bao giờ tắt, và để làm như
thế, ông ấy phải chứng tỏ rằng di sản của Kennedy vẫn nguyên vẹn, và nó phải
được tiếp tục đúng như vậy. Bốn ngày sau, ông ấy lên trước Quốc Hội Hoa Kỳ
tuyên bố: John Kennedy nói rằng ‘chúng ta hãy bắt đầu’, tôi nói rằng ‘chúng ta
hãy tiếp tục’. Sau đó là, làm thế nào để rút ra? Làm thế nào để bỏ đi khi có
tất cả bằng cớ chứng tỏ niềm tin của một tổng thống ôn hòa là chúng ta phải ở
đó để răn đe xâm lược và một tổng thống cam kết giữ gìn di sản đó, rồi làm sao
có thể nói như người Texas là “ôm đít bỏ đi”? Câu trả lời là không có sẵn lý
do, hay lý do dễ dàng. Rồi chúng tôi làm điều bây giờ nhìn lại có thể là quyết
định sai, trong đó, phía quân sự nói với Tổng Thống Johnson rằng chúng ta có
thể thắng cuộc chiến dễ dàng bằng cách kéo quân vào, bằng cách ngăn chặn quân
từ phía Bắc, và rồi bắt đầu bỏ bom vào năm 1965, và sau đó chúng ta có thể chặn
đứng được Bắc Việt và rất có thể bắt họ ngồi bào bàn hội nghị. Vì thế, ông bắt
đầu áp lực dần dần, dựa trên sự cố vấn của giới quân sự…. Họ cung cấp cho ông
ấy một cách để ra đi, và càng tiến vào sâu hơn, càng có vẻ khó rút lui, vì nếu
ông ấy làm vậy thì những Barry Goldwater (lãnh tụ Cộng Hòa đối thủ của Johnson)
và đặc biệt là phía cánh hữu sẽ nói Johnson là một thằng hèn, là tổng thống Mỹ
đầu tiên cụp đuôi chạy sau khi chúng ta đã cam kết từ ba đời tổng thống và bây
giờ anh không giữ được cam kết đó. Và đó là điều ông ta phải đối mặt với tình
hình chính trị lúc bấy giờ, và cuối cùng, dĩ nhiên chúng ta đã vào quá sâu
đậm….
Đó
là cách giải thích từ phía ông Johnson, phía đảng Dân Chủ. Sau đây là nhận định
từ phía đảng Cộng Hòa. Theo Henry Kissinger trong Diplomacy:
Loại bỏ ông Diệm đã không đoàn kết được dân chúng sau lưng các
tướng lãnh, như là Washington đã hy vọng. Mặc đầu New York Times đã ca tụng đảo
chánh như là một cơ hội đẩy lui cộng sản trên khắp các nẻo đường Đông Nam Á,
nhưng sự thật trái ngược đã diễn ra…
Cuộc đảo chánh đã phá hủy kiến trúc được xây dựng trong hàng
chục năm, để lại một nhóm tướng lãnh tranh quyền thiếu kinh nghiệm hay hậu
thuẫn chính trị.
Chỉ trong năm 1964, đã diễn ra bảy lần thay đổi chính quyền.
Không có lần nào theo đường lối dân chủ, và tất cả đều là kết quả của một cuộc
đảo chánh, dưới hình thức này hay hình thức khác. Những người kế nhiệm ông Diệm
thiếu uy tín của một lãnh tụ quốc gia, hay hình ảnh đáng kính nể của một ông
quan, đã không biết làm cách nào khác hơn là đẩy cuộc chiến vào tay Hoa Kỳ…
Nhóm cầm quyền tại Hà Nội nắm ngay lấy cơ hội. Vào tháng 12 năm
1963, Trung Ương Cục của Đảng Cộng Sản đã đưa ra chiến lược mới: Thêm sức mạnh
cho các đơn vị du kích và gia tăng xâm nhập miền Nam. Quan trọng nhất, các đơn
vị quân chính quy của Bắc Việt được huy động. “Đã đến lúc miền Bắc gia tăng
viện trợ cho miền Nam, miền Bắc phải đóng vai trò quan trọng hơn, như là cơ sở
cách mạng cho cả nước”. Không bao lâu sau, sư đoàn chính quy 325 của Bắc Việt
bắt đầu chuyển vào Nam. Trước cuộc đảo chánh, xâm nhập từ miền Bắc phần lớn gồm
thành phần tập kết ra Bắc từ năm 1954. Sau đó, tỷ lệ người miền Bắc tăng dần,
cho đến Tết Mậu Thân, hầu hết toàn thể lực lương xâm nhập đều là người miền
Bắc. Với sự xuất quân của các đơn vị chính quy Bắc Việt, cả hai bên đều đã vượt
quá giới hạn của mình.
Sau khi ông Diệm bị lật đổ, ông Kennedy cũng bị ám sát. Tân Tổng
Thống Johnson coi sự xâm nhập của các đơn vị chính quy Bắc Việt như là hành vi
công khai xâm lấn…
Ngày 21 tháng 12, 1963 Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara báo cáo với
Tổng Thống Johnson rằng tình hình an ninh của Nam Việt Nam trở thành rất đáng
ngại, Hoa Kỳ không còn tránh được tình trạng phải đối diện với lựa chọn: Gia
tăng can thiệp bằng quân sự, hay sự sụp đổ của Nam Việt Nam. Chính quyền
Kennedy đã sợ nhảy vào cuộc chiến bên cạnh một đồng minh thiếu dân chủ, chính
quyền Johnson sợ bỏ rơi một chính quyền mới thiếu dân chủ tại Sài Gòn hơn là
tham chiến.
Tóm
lại, Bộ Quốc Phòng và giới quân sự Mỹ, tuy có đề nghị đưa quân Mỹ vào chiến đấu
ở Việt Nam, nhưng không được sự chấp thuận của Tổng Thống Kennedy. Chẳng những
không đồng tình, ông Kennedy còn muốn làm ngược lại, là rút sự can dự của Mỹ
khỏi Việt Nam, khi có thể. Theo The Dark Side of Camelot của Seymour Hersh,
vào mùa Thu 1963, Tổng Thống Kennedy đã nói riêng với người bạn thân là nhà
báo Charles Barlett: “Tôi không thể để Việt Nam rơi vào tay cộng sản rồi yêu
cầu dân chúng – những cử tri Hoa Kỳ — lại bầu cho tôi. Bằng cách nào đó chúng
ta phải cố giữ cho tới sau bầu cử năm 1964. Chúng ta đã để mất Lào cho cộng
sản, và nếu tôi để mất Việt Nam, tôi sẽ không thể nào nói với dân chúng. Nhưng
chúng ta không có tương lai ở đó. Nam Việt Nam ghét chúng ta. Họ muốn chúng ta
đi khỏi. Tới một lúc nào đó, họ sẽ đá đít chúng ta”. Trước khi bị ám sát, ông
Kennedy đã ra lệnh rút khỏi Việt Nam 1.000 cố vấn Mỹ.
Một
trong những sử gia tên tuổi của Hoa Kỳ thông thạo về thời đại Kennedy là Robert
Dallek, mười năm trước đã viết cuốn An Unfinished Life: John F. Kennedy,
1917 – 1963, một cuốn tiểu sử được coi là đầy đủ nhất về Tổng Thống
Kennedy. Nhân kỷ niệm 50 năm Kennedy bị ám sát, ông vừa cho ra mắt vào mùa Thu
năm 2013 cuốn “Camelot’s Court: Inside the Kennedy White House”, trong
đó ông viết:
“Căn
cứ vào sự lưỡng lự của ông [Kennedy] đã bầy tỏ về Việt Nam trong một ngàn ngày
cầm quyền, hoàn toàn hợp lý khi cho rằng [nếu còn sống] ông đã tìm một lối
thoát để ra khỏi cuộc xung đột này hay ít nhất không gia tăng chiến tranh như
Lyndon Johnson đã làm” (Given the hesitation he showed about Vietnam during
his thousand-day administration, it is entirely plausible that he would have
found a way out of the conflict or at least not to expand the war to the extent
Lyndon Johnson did).”
TT Ngô Đình Diệm và
Đại sứ Lodge tại Đà Lạt 4 ngày trước đảo chánh (ngày 28 tháng 10 năm 1963)
Sau
đảo chính 1 tháng 11, 1963, phe chủ chiến Mỹ và phe chủ chiến Cộng Sản Bắc Việt
đã gặp nhau ở một điểm: Cả hai bên đều muốn Mỹ trực tiếp tham chiến ở VN; Mỹ
muốn sớm chiến thắng bằng quân sự, Bắc Việt muốn Nam VN mất chính nghĩa để cũng
sớm chiến thắng bằng quân sự. Vụ Maddox ở Vịnh BV là hành động khiêu khích của
cả hai bên.
Bộ
Quốc Phòng và các tướng lãnh Mỹ chống lại, hoặc ít nhất không đồng ý đảo chánh,
vì vào trước cuộc đảo chánh, tuy tình hình chính trị suy sụp, nhưng tình hình
quân sự tương đối còn tốt đẹp.
Ngược
lại, nhóm người tích cực thúc đẩy đảo chánh thuộc Bộ Ngoại Giao, tất cả đều
chống lại việc đem quân chiến đấu vào Việt Nam.
Do
đó, Việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam không phải là nguyên nhân, mà là hậu quả của
cuộc đảo chánh 1-11, 1963.
***
Những
gì chưa rõ ràng từ nửa thế kỷ trước ngày nay đã được sáng tỏ. Chỉ với những sự
thật được phơi bầy đã đủ chứng tỏ cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tuy là người
cũng có khuyết điểm, nhưng là một nhà lãnh đạo yêu nước, đạo đức và đáng kính.
Những người yêu mến ông không cần hun đúc tình cảm của mình dựa trên một huyền
thoại, là ông đã hy sinh chỉ vì chống lại chủ tâm của Mỹ đưa quân chiến đấu vào
Việt Nam. Chính nghĩa chỉ tồn tại khi dựa trên sự thật. Chính nghĩa dựa trên
huyền thoại, cũng chỉ là huyền thoại.
———————
Tài
liệu tham khảo:
-
Dear Mr. President, Letters to the Oval Office
-
A Death in November, Ellen J. Hammer.
-
The Pentagon Papers, Gravel Edition
-
Why Vietnam Matters, Rufus Phillips
-
Edward Lansdale, Cecil B. Currey
-
Robert Kennedy and His Times, Arthur M. Schlesinger, Jr.
-
The Wise Men, Walter Isaacson & Evan Thomas
-
Diplomacy, Henry Kissinger
-
The Dark Side of Camelot, Seymour M. Hersh
------------------------------------
1 bình luận
- black raccoon viết:
“Washington,
D.C., November 1, 2013 – Continued investigation of the presidency of John F.
Kennedy further strengthens the view that the origins of U.S. support for the
coup which overthrew South Vietnamese president Ngo Dinh Diem 50 years ago
today traces directly to President Kennedy, not to a “cabal” of top officials
in his administration. As the documents posted by the National Security Archive
in 2009 and new material posted today indicates, the often-told story that a
“cabal” of senior officials, in combination with U.S. ambassador to Saigon
Henry Cabot Lodge, were responsible for the coup is a myth”. (National Security
Archive Electronic Briefing Book No. 444)
Phiên
dịch:
“Washington,
D.C., November 1, 2013 – Tiếp tục cuộc điều tra của nhiệm kỳ Tổng Thống John F.
Kennedy để làm rõ hơn nữa quan điểm cho rằng những căn nguyên là do Hoa Kỳ ủng
hộ cuộc đảo chính lật đổ Tổng Thống nam Việt Nam Ngô Đình Diệm 50 năm trước mà
ngày nay có khuynh hướng ghìm thẳng vào TT Kennedy, hoàn toàn không phải là một
“mưu đồ” của những giới chức cao cấp trong chính quyền của ông. Như những tài
liệu đã được công bố bởi the National Security Archive năm 2009 và một dữ kiện
mới được đăng ngày hôm nay cho thấy, điều thường-được gọi là “âm mưu” của các
giới chức đầu não, hợp cùng với Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn Henry Cabot Lodge, đã
có trách nhiệm cho một cuộc đảo chánh chỉ là chuyện tưởng tượng”. (Phòng Lưu
Trử Quốc Gia Electronic Briefing Book No. 444)
Tham
khảo 2 tài liệu mới nhất của Hoa Kỳ được công bố về biến cố 1/11/63
http://www2.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB302/
http://www2.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB444/
http://www2.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB302/
http://www2.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB444/
ý kiến:
-
Theo như các tài liệu lịch sử đã được thu âm, ghi chép và đã được chính phủ Hoa
Kỳ công bố vào 11/2009 và hôm 1/11/2013 vừa qua nhân kỷ niệm 50 năm ngày lật đổ
TT Diệm, cho thấy: chính phủ Mỹ lúc đó từ TT Kennedy cho đến các giới chức cao
cấp khác đều tỏ ý lo ngại về sự thi hành quyền lực quá đà của ông cố vấn NĐ Nhu
và người vợ là bà Trần Lệ Xuân trong phủ Tổng Thống. Chính quyền Hoa Kỳ cân
nhắc một sự thay thế nhằm loại trừ việc này. Vì dướí mắt người Mỹ, họ muốn xây
dựng chính quyền VNCH theo chiều hướng tự do và dân chủ pháp trị.
-
Theo tôi, Những người đảo chánh đã đi quá đà, thậm chí phạm tội cố sát nhiều
người một cách trầm trọng. Như cái chết của anh em TT Diệm, của ông Cẩn, Đại tá
Hồ Tấn Quyền, ông Lê Quang Tung v.v… Phe đảo chánh đã hành động không khác gì
các Shogun của Nhật thế kỷ 17. Tướng Quân cát cứ, tranh quyền, và trả thù
-
Tôi thắc mắc là không rõ hiện nay tại sao không truy tố một vài nhân vật từng
có bàn tay dính máu vào cái chết, như cái chết của Đại Tá Hồ Tấn Quyền. Dường
như đương sự hung thủ vẫn còn sống nhởn nhơ tại Nam Cali (?)
Xem
phỏng vấn bà quả phụ Hồ Tấn Quyền tại California về cái chết cúa chồng cũng như
những kỷ niệm với gia đình TT / NĐ Diệm
http://www.youtube.com/watch?v=JC5aiZoo2jA
http://www.youtube.com/watch?v=F_h9WpY8erk
http://www.youtube.com/watch?v=JC5aiZoo2jA
http://www.youtube.com/watch?v=F_h9WpY8erk
-
04.11.2013 vào lúc 11:06 am
No comments:
Post a Comment