01.11.2013
TT. Ngô Đình Diệm khoảng năm 1955 (Ảnh: Life Magazine)
Nửa thế kỷ trước, vào dịp Tết Quý Mão 1963, sau khi
nhận được thông điệp chúc Tết từ Washington, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô
Đình Diệm đã gửi cho Tổng Thống Hoa Kỳ John Kennedy một lá thư, do Bộ Trưởng
Phủ Tổng Thống Nguyễn Đình Thuần trao tận tay cho người nhận tại Bạch Ốc. Thư
đề ngày 23 tháng Hai, 1963, chỉ dài có một trang đánh máy:
Thưa Tổng Thống,
Toàn dân Việt Nam đã xúc động sâu xa
về thông điệp của Ngài, với tư cách là người phát ngôn cho nền dân chủ vĩ đại
của Hoa Kỳ, đã có nhã ý gửi cho họ vào ngày Đầu Năm Mới.
Họ đã đón mừng thông điệp này như là
một sự biểu lộ tuyệt vời và hoàn hảo cho sự hiểu biết và thân hữu của nhân dân
Hoa Kỳ, những người đã giúp đỡ họ với viện trợ dồi dào và hữu hiệu trong những
ngày khó khăn của cuộc chiến đấu của họ chống lại sự nổi dậy và xâm lấn của
cộng sản.
Đây quả thật là một nguồn cảm hứng
phong phú cho đồng bào tôi, những người hơn bao giờ hết đã quyết tâm gia tăng
gấp bội nỗ lực và hy sinh của họ vào năm tới để đến gần chiến thắng cuối cùng
hầu đem lại cho họ an ninh và hòa bình, thăng tiến công bằng xã hội và cùng
nhau đạt được mục tiêu mở mang kinh tế cho đất nước.
Trong niềm tưởng nhớ thành khẩn những
đứa con cao quý của nước Mỹ đã hy sinh mạng sống của mình tại đất nước chúng
tôi cho mục tiêu chung, tôi xin cảm ơn nồng nhiệt Tổng Thống, về những lời chúc
của Ngài đã bầy tỏ rất chính xác những cảm hứng và hy vọng chung của chúng ta
và nói lên sự biết ơn và kính phục của nhân dân Việt Nam đối với quốc gia vĩ
đại và dân tộc “đã luôn sẵn sàng trả giá cho tự do”.
Ngô Đình Diệm
Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa.
Thư qua thư lại, ơn sâu nghĩa nặng như thế, nhưng
chỉ tám tháng 9 ngày sau, ông Diệm bị giết trong cuộc đảo chánh do Hoa Kỳ
khuyến khích, và sau đó ba tuần, ông Kennedy cũng bị giết trong một vụ ám sát*.
Tại sao ông Kennedy bị giết? Đó là câu hỏi nửa thế kỷ sau, Hoa Kỳ vẫn chưa biết
rõ. Tại sao ông Diệm bị giết? Đó là câu hỏi rất nhiều người Việt tưởng đã biết
rõ, nhưng thật ra, vẫn chỉ là “biết” theo kiểu “lộng giả thành chân”.
Thời gian ngay sau cuộc đảo chánh 1-11, 1963,
và có trường hợp cả hàng chục năm sau, vẫn có người cố chứng minh
vai trò phụ thuộc của Hoa Kỳ trong biến cố này. Ví dụ, trong cuốn Việt
Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của ông Đỗ Mậu xuất bản năm 1986, tác
giả đã trích lời Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy viết vào năm 1979 rằng:
“Việc lật đổ và sát hại (anh em ông Diệm) xẩy ra là chỉ do một số
tướng lãnh Việt Nam. Người Mỹ đã không thúc đẩy họ đảo chánh, người
Mỹ chỉ không ngăn chận họ mà thôi”. Riêng ông Đỗ Mậu viết “…rõ
ràng cuộc cách mạng ngày 1-11-1963 hoàn toàn do quân dân Việt Nam lúc
bấy giờ thực hiện, và người Mỹ, đứng trước những khó khăn phức tạp
của tình hình đã phải thụ động dựa vào đó để giải quyết những
khó khăn của họ. Vậy thì chính quân đội Việt Nam đã ‘bật đèn xanh’
cho Mỹ chứ đâu phải Mỹ ‘bật đèn xanh’ cho quân đội Việt Nam.…” Nhưng
càng lâu, qua những chứng liệu được giải mật, chẳng còn ai nói năng
như thế nữa. Mỹ đóng vai chủ động trong cuộc đảo chánh là điều không
còn ai chối cãi, kể cả tổng thống Mỹ John Kennedy.
Tuy nhiên, về nguyên nhân của cuộc đảo chánh,
có một “huyền thoại” cần xét lại.
Trong suốt 50 năm qua, đã có rất nhiều người,
nhiều đến nỗi không thể liệt kê hết ở đây, gồm cả những “bình luận
gia”, “học giả” hay “sử gia”, hầu như ai cũng nói giống nhau, như một
sự thật hiển nhiên, không cần dẫn chứng, là Mỹ đảo chánh để có thể
mang quân vào trực tiếp tham chiến ở Việt Nam, vì ông Diệm chống lại
việc này. Theo “huyền thoại” này, Mỹ phải lật ông Diệm như loại bỏ một
chướng ngại vật, để có thể đổ quân vào VN. Đặc biệt là khẳng định
này thông dụng trong dư luận người Việt, nhưng hầu như không được nhắc
tới trong tài liệu và sách báo của Mỹ. Tôi chỉ được biết vài ba cuốn
sách của Mỹ nói tới điều này, nhưng lại căn cứ từ sách báo Việt
ngữ.
Hình bìa sách A Death in November
Trong cuốn A Death in November (ADIN)
xuất bản năm 1987, nói về cuộc đảo chánh năm 1963, bà Ellen J. Hammer
viết nơi trang 121: “Một người Việt quen thuộc nói: ‘Mọi người gần
gũi ông Ngô Đình Diệm đều biết rằng với ông, vấn đề chủ quyền của
Việt Nam là tối quan trọng, không có vấn đề nhượng bộ chuyện này
với viện trợ ngoại quốc.’” Và “Diệm nói trong riêng tư rằng người Mỹ
đã từng đòi quyền thiết lập căn cứ không và hải quân tại Vịnh Cam
Ranh hay Đà Nẵng, được điều hành bởi một cơ sở quân sự thường trực,
và rằng họ đã tăng gia áp lực kể từ năm 1961. Vào tháng Bảy năm
1962, trong một cuộc kinh lý tại Vịnh Cam Ranh, ông đã chỉ một ngọn
núi ở gần, nói với các cận vệ rằng, ‘Người Mỹ muốn lập một căn
cứ ở đấy nhưng tôi sẽ không bao giờ chấp nhận điều đó.’ Cho đến
tháng Tám 1963, ông đã nói với Đại Sứ Pháp rằng ông sẽ không bao giờ
làm theo những đòi hỏi đó. Một số thành viên đảng Cần Lao của ông
coi sự từ chối này là một trong những lý do chính cho việc lật đổ
ông Diệm.”
Trong phần chú thích ở trang 336 về trang 121
có đoạn trích dẫn trên, bà Hammer cho biết bà đã căn cứ từ bài viết
của Bác Sĩ Trần Kim Tuyến, trên báo Hòa Bình, ngày 8 tháng 8,
năm 1970.
Là Tổng Thư Ký tòa soạn báo Hòa Bình
vào thời gian này, tôi biết về nguồn thông tin của bà Hammer. Bài báo
bà cho là Bác Sĩ Tuyến viết, là loạt bài được mệnh danh “bút ký lịch
sử” kéo dài nhiều tháng, mang tựa đề “Làm thế nào để giết một
tổng thống,” sau khi chấm dứt, đã được xuất bản thành sách ở
Sài Gòn. Tôi là người đặt tựa cho loạt ký sự này. Khi bắt đầu đăng
báo, Bộ Thông Tin không chịu, yêu cầu đục bỏ, một phần sợ gây “sốc”
trong dư luận, phần khác do áp lực từ các tướng chủ chốt trong cuộc đảo chánh,
sau khi bị Nguyễn Khánh cho đi an trí một thời gian, đã trở lại là những nhân
vật có thế lực, như Nghị Sĩ Quốc Hội. Lúc ấy chế độ kiểm duyệt báo chí mới chấm
dứt theo Luật 019/69, do Quốc Hội thông qua, và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ký
ban hành ngày 30 tháng 12, 1969. Theo luật này, báo có quyền chỉ trích chính phủ,
không bị kiểm duyệt, và chỉ có thể bị tịch thu theo lệnh của tòa án. Dựa vào
luật mới, tòa soạn nhất quyết giữ y nguyên cả tên lẫn nội dung ký sự, không
chịu đục bỏ hay thay đổi, với lập trường là nếu Bộ Thông Tin thấy nhà báo phạm
luật, cứ việc truy tố ra toà. Ngày thứ hai, rồi ngày thứ ba liên tiếp,
Bộ Thông Tin vẫn yêu cầu đục bỏ. Từ ngày thứ tư, Bộ để yên.
Tác giả ký sự là hai bút hiệu: Cao Vị Hoàng
và Lương Khải Minh. Tuy hai bút hiệu, thực ra chỉ có một người viết,
trong khi dư luận, kể cả bà Hammer, nghĩ rằng Lương Khải Minh là bút
hiệu của Bác Sĩ Tuyến, nguyên giám đốc sở Nghiên cứu Chính trị Phủ Tổng
Thống; ngôn ngữ bình dân gọi là “Trùm mật vụ”. Ông Tuyến không viết chữ nào
trong ký sự này, nhưng có giúp một cách gián tiếp. Với uy tín thời
Đệ Nhất Cộng Hòa, ông đã giới thiệu để người mang bút hiệu Cao Vị
Hoàng có thể tới phỏng vấn các nhân vật quan trọng của chế độ cũ.
Lời kể của họ về anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đệ Nhất Cộng Hòa được ghi
lại là chất liệu cho nội dung ký sự, không được kiểm chứng về độ
chính xác, nên khó có thể coi như sự thật lịch sử. Có thể nói Lương
Khải Minh chỉ là “bút hiệu danh dự” dành cho ông Tuyến, cũng như
chiếc ghế trống trong buổi lễ phát giải Nobel Hòa Bình năm 2010, được
gọi là chiếc ghế của ông Lưu Hiểu Ba, nhưng ông này chưa bao giờ ngồi
ở đó.
Khi cuốn sách của bà Hammer xuất bản ở Mỹ,
qua câu chuyện điện thoại từ Mỹ với ông Tuyến ở Cambridge, Anh, tôi đã có
dịp cho ông biết về sự sai lầm của tác giả, và hỏi ông có định lên
tiếng đính chính không. Bác Sĩ Tuyến trả lời rằng ông không muốn lên
tiếng, sợ nhà báo kéo tới phỏng vấn ầm ỹ, trong khi ông chỉ muốn
sống ẩn dật. Tuy nhiên, ông Tuyến cũng nói khi nào tôi có dịp gặp bà
Hammer, thì nhờ nói với bà ấy về chuyện sai lầm, để sửa lại khi
sách có dịp tái bản.
Gần đây, Finding the Dragon Lady, một cuốn sách
mới xuất bản vào tháng Chín 2013 nói về cuộc đời bí mật của bà Ngô Đình Nhu,
tác giả là bà Monique Demery, đã trích một đoạn từ cuốn sách A Death in
November, nhưng ngay cuốn ADIN lại trích từ hồi ký “Bên Dòng Lịch
Sử” của Linh Mục Cao Văn Luận, trong đó Cha Luận kể lại cuộc gặp Tổng Thống
Ngô đình Diệm tại Dinh Gia Long vào ngày 24 tháng 06, 1963. Cha Luận mới gặp
nhiều chính khách quan trọng ở Mỹ, như Bộ Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy, Nghị
Sĩ Mike Mansfield trở về, khuyên ông Diệm nên nhượng bộ những đòi hỏi của Mỹ để
tránh đảo chánh, nhưng ông Diệm không chịu, đáp:
- Nếu bây giờ chúng ta nhượng bộ một bước thì Mỹ sẽ
lại đòi thêm, biết nhượng bộ đến bao giờ cho vừa lòng họ? Tôi muốn võ trang đầy
đủ cho Bảo an, Dân vệ, thanh niên chiến đấu. Mỹ không chịu. Tôi muốn tăng cường
quân đội, Mỹ từ chối không cấp vũ khí và phương tiện, Mỹ chỉ muốn đưa quân qua
Việt Nam mà thôi.
Có lẽ Tổng Thống Diệm đã đề cập tới nội dung cuộc
họp gữa phái đoàn Mỹ do tướng Taylor cầm đầu và ông Diệm vào mùa Thu năm 1961
(sẽ nói thêm sau này) trong đó ông Diệm có yêu cầu Mỹ tăng viện để tăng quân
số, và Tướng Taylor đề nghị gửi một đạo quân Mỹ từ sáu đến tám ngàn người tới
VN – dưới danh nghĩa cứu lụt, nếu cần – và ông Diệm đã đồng ý, nhưng ông
Kennedy không chấp thuận.
Vào năm 2003, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, vốn là
Thiếu Tá Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ
Phủ Tổng Thống khi xẩy ra cuộc đảo chánh 1963, nhờ tôi biên tập bản
thảo cuốn “Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm”.
Ông Duệ viết sở dĩ Mỹ đảo chánh, vì ông Diệm không chịu cho Mỹ đem
quân chiến đấu vào Việt Nam và lập căn cứ ở Vịnh Cam Ranh. Tôi hỏi
ông Duệ đã căn cứ vào đâu để viết như vậy, ông trả lời “chuyện đó ai
chả biết”. Tôi xin ông cố nhớ lại để có thể kể tên đích xác một vài
người, sau giây lát suy nghĩ, ông nêu tên ông Trần Sử, bí thư của Tổng
Thống Diệm, lúc ấy đã qua đời.
Trong cuốn sách đã dẫn, khi xuất bản, ông Duệ viết
trong phần nói về Đại Sứ Ngô Đình Luyện rằng ông Luyện đã kể với ông Duệ:
Trước cuộc đảo chính mấy tháng, có một
linh mục thuộc Dòng Jesuit Hoa Kỳ đã bí mật sang Anh gặp ông Luyện, muốn ông
báo cho ông Diệm biết là sớm muộn gì Mỹ cũng giúp cho cuộc đảo chánh lật ông
Diệm. Khi ông Luyện hỏi có thể làm cách nào để tránh được không, vị Linh Mục
này khuyên ông Diệm:
“Nên nhượng bộ chính phủ Hoa Kỳ, đồng
ý tất cả những gì người Mỹ muốn qua Đại Sứ Hoa Kỳ. (Theo ông Luyện thì người Mỹ
muốn Việt Nam nhường cảng Cam Ranh cho người Mỹ trong một thời gian, như Phi
Luật Tân nhường cảng Subic, và để cho người Mỹ một thời gian vào Việt Nam)”.
Ông Luyện đã cấp tốc từ London về Sài
Gòn gặp anh mình, Đại Tá Duệ kể tiếp:
“Tổng Thống Diệm nói sẽ nghiên cứu kỹ
việc này và bảo ông Luyện sang gặp ông Nhu để bàn thêm. Ông Luyện gặp ông Nhu
và ông Nhu có vẻ chú ý và cũng đồng ý nhưng ông lo rằng người Mỹ đòi mang quân
vào và xử dụng Cam Ranh thì khó đựơc tổng thống chấp thuận. Ông cũng lo rằng
nếu ngừơi Mỹ mang quân vào thì Nga và Tầu sẽ giúp miền Bắc nhiều hơn và có thể
cũng đem quân vào nữa. Như vậy, Việt Nam sẽ là bãi chiến trường đẫm máu.”
Đó là tất cả những gì tôi được biết từ phía người
Việt về chuyện người Mỹ muốn mang quân chiến đấu vào Việt Nam và muốn xử dụng
cảng Cam Ranh, tất cả đều do những lời kể lại gián tiếp, không được chứng minh
bằng tuyên bố hay văn kiện chính thức.
***
Về phía Hoa Kỳ, ngay từ thời lập quốc, những lời nói
việc làm quan trọng liên hệ tới chính quyền thường được ghi chép và lưu trữ.
Nếu quả thật chính quyền Mỹ đã có ý định, hay chính thức đòi lập căn cứ quân
sự, hay đưa quân vào trực tiếp chiến đấu ở Việt Nam, điều này chắc chắn phải
được ghi lại trong những tài liệu công khai hay bí mật. Trong nửa thế kỷ qua,
về mối liên hệ giữa Mỹ và Việt Nam, những người trong cuộc đã viết hồi ký, hoặc
trả lời phỏng vấn về vai trò của mình, cũng như những tài liệu mật hay tối mật,
phần lớn đã được giải mật, không thấy tài liệu nào nói tới ý định hay đòi hỏi
của Mỹ muốn lập căn cứ quân sự thường trực tại Việt Nam.
Tuy nhiên, có chứng cớ từ năm 1961, đã có nhiều đề
nghị — từ cả giới quân sự và chính trị — đem quân Mỹ vào tham chiến ở Việt Nam.
Nhưng điều quan trọng là, tất cả những đề nghị này, đều đã bị Tổng Thống John
Kennedy bác bỏ.
Để hiểu rõ diễn tiến đưa tới cuộc đảo chánh 1963, có
thể chia thời gian hơn 9 năm cầm quyền của Thủ Tướng rồi Tổng Thống Ngô Đình
Diệm thành ba giai đoạn. Năm đầu tiên, từ mùa Hè 1954 đến mùa Hè 1955 là giai
đoạn thoát hiểm. Từ giữa năm 1955 đến cuối 1960, là giai đoạn ổn định và xậy
dựng. Từ đầu 1961 đến cuối 1963 là giai đoạn chuyển tiếp, suy sụp và bị lật đổ.
Giai đoạn đầu, tuy có sự giúp đỡ to lớn của Hoa Kỳ,
nhất là về tài chánh và phương tiện cho cuộc di tản và tái định cư hàng triệu
người tị nạn Cộng Sản từ miền Bắc, nhưng ông Diệm thoát hiểm không phải hoàn
toàn nhờ ở Hoa Kỳ, mà một phần nhờ vào hậu thuẫn của quần chúng và các đảng
phái quốc gia. Chính Hoa Kỳ có lúc đã định bỏ rơi ông Diệm trong giai đoạn phôi
thai này.
Sau khi thoát hiểm, anh em ông Diệm bắt đầu củng cố
lực lượng riêng của mình gồm Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia ở bề mặt, và Cần Lao
là nòng cốt. Về phía Mỹ, “thoát hiểm” là khoản vốn bảo chứng cho một chính sách
tích cực ủng hộ. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đứng đầu là Ngoại Trưởng Foster Dulles,
đã trở thành pháo đài kiên cố bảo vệ chế độ của Tổng Thống Diệm. Ngoài viện trợ
dồi dào, những “Người Mỹ bạn của Việt Nam” gồm toàn những nhân vật thế lực từ
chính khách tới danh tướng và nhất là các ông vua truyền thông, đã hợp sức biến
Tổng Thống Diệm thành một “kỳ nhân” (miracle man).
John Foster Dulles – Ngoại trưởng thời Eisenhower
Ưu điểm của chế độ dân chủ là sự đổi mới sau mỗi
nhiệm kỳ, nhưng khuyết điểm là thiếu liên tục, có khi lâm tình trạng hụt hẫng.
Chế độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm vững như bàn thạch trong 5 năm cuối cùng
thuộc nhiệm kỳ của Tổng Thống Eisenhower. Nhưng “thần hộ mạng” của Tổng Thống
Diệm là Ngoại Trưởng Dulles qua đời tháng Năm 1959. Cái “bàn thạch” là điểm tựa
của Tổng Thống Diệm bắt đầu rạn nứt. Trong khi Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn Elbridge
Durbrow chủ trương ông Diệm cần mở rộng chính quyền để được sự ủng hộ của dân
chúng trong chính sách chống cộng, ông Diệm lại cho rằng mở rộng dân chủ là
giúp cho cộng sản và tay sai lợi dụng. Khi Đại Sứ Mỹ tăng sức ép, ông Diệm tỏ ý
không muốn Việt Nam là một nước bị bảo hộ như thời Pháp, điều mà ông đã cố
thoát ra khi còn là một ông quan trẻ tuổi, và rằng chủ quyền và trách nhiệm của
chính phủ là điều không thể coi nhẹ.
Ngày 9 tháng 11 năm 1960, Nghị Sĩ Kennedy thắng cử
tổng thống, với một tỷ lệ rất thấp trước Phó Tống Thống Nixon. Hai ngày sau, 11
tháng 11, cuộc đảo chánh bất thành diễn ra tại Sài Gòn. Từ những chỉ trích của
Đại Sứ Durbrow trước đó đối với ông Diệm, tới cuộc đảo chánh diễn ra ngay sau
khi ông Kennedy đắc cử, và có cả bằng chứng ít nhất một nhân viên ngoại giao Mỹ
có mặt bên các lãnh tụ đảo chánh, khiến mối nghi ngờ của Dinh Độc Lập đối với
ê-kíp mới làm chủ Bạch Ốc có cơ sở.
Trước khi ra đi, Tổng Thống Eisenhower căn dặn ông
Kennedy phải cố giữ Ai Lao bằng mọi giá, kể cả việc Mỹ phải một mình bảo vệ Ai
Lao và xử dụng võ khí hạt nhân loại nhỏ, nếu cần. Vì nếu để Ai Lao vào tay Cộng
Sản, cả Đông Nam Á sẽ tiêu tùng.
Tướng Edward Lansdale và TT. Ngô Đình Diệm (Ành: Douglas Pike Collection)
Edward Lansdale, từ năm 1954 đã là một cố vấn Mỹ
thân cận, và là một người bạn của ông Diệm, gặp ông hầu như hàng ngày. Nhưng
khi tình thế ổn định, thay vì mở rộng tự do dân chủ để đạt được hậu thuẫn của
dân chúng, ông Nhu bắt đầu chèn ép đối lập, gây bất mãn trong giới trí thức và
đảng phái. Khi biết Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ chẳng những không chống, còn giúp anh
em ông Diệm gây dựng phe đảng của mình để tập quyền, Lansdale thất vọng, xin về
Mỹ, mặc dầu vẫn giữ cảm tình sâu đậm với ông Diệm.
Từ khi rời Việt Nam vào cuối năm 1956, Edward
Lansdale vẫn muốn có dịp trở lại Sài Gòn. Tổng Thống Diệm cũng muốn thế. Nhưng
con người không muốn khép mình trong hệ thống quyền lực cứng nhắc như Lansdale
đã bị chống đối khắp nơi, từ Washington tới Sài Gòn. Trong hai tuần đầu tháng
01 năm 1961, trước khi Tổng Thống Kennedy nhậm chức, Lansdale đã lên tướng, tự
xoay xở được một chuyến đi, với tư cách Quyền Trưởng Phòng Hành Quân Đặc Biệt
thuộc Bộ Quốc Phòng, tới Việt Nam để lượng định tình hình. Theo nhận định của
ông, tình hình VN thời gian này khá bi quan. Tuy bề ngoài vẫn có vẻ ổn định,
nhưng tại những nơi xa thành thị, tình hình an ninh rất bất ổn. Dân chúng sống
trong cảnh lo sợ, nhất là về đêm, dưới quyền sinh sát của cán binh Việt Cộng.
Trở về Washington hai ngày trước khi Tổng Thống Kennedy
nhậm chức. Kèm theo báo cáo bi quan về tình hình VN gửi Bộ Trưởng Quốc Phòng
sắp mãn nhiệm Thomas Gates (Bố của Bộ Trưởng QP Robert Gates thời Bush-Obama)
là một bản ghi nhớ, tả lại chuyến đi tới khu Hải Yến của Cha Nguyễn Lạc Hóa ở
Bình Hưng, Cà Mâu. Một “an toàn khu”, với võ khí thô sơ, do dân làng là những
người gốc Hoa tị nạn cộng sản, tự tổ chức phòng thủ, nằm giữa nơi đầy Việt Cộng
chung quanh, mà địch quân không làm gì được. Lansdale coi đó là mẫu mực của
chiến tranh chống du kích. Một cố vấn của tân tổng thống Kennedy là Walter
Rostow được đọc báo cáo của Lansdale, ưng ý, đề nghị Tổng Thống Kennedy nên
đọc. Một tuần sau khi nhậm chức, ngày 28 tháng 01, 1961, Lansdale được gọi tới
Bạch Ốc họp cùng với Tổng Thống, các viên chức cao cấp Bạch Ốc, gồm cả Bộ Quốc
Phòng và Bộ Ngoại Giao, để thảo luận về tình hình Việt Nam. Dịp này, Tổng Thống
Kennedy đã chấp thuận kế hoạch chống nổi dậy tại VN (CIP – Counterinsurgency
Plan) gồm đề nghị tăng viện trợ để tăng quân và lực lượng bảo an, đồng thời,
yêu cầu ông Diệm mở rộng thành phần chính phủ. Cũng dịp này, Tổng Thống Kennedy
cho biết ông muốn đề cử Lansdale làm Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn, nhưng Ngoại Trưởng
Dean Rusk phản đối. Ông Rusk vốn là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, không
thích lối làm việc “tùy tiện” của Lansdale.
Trái với thời kỳ tương đối phẳng lặng kéo dài từ
1955 đến 60, trước và sau khi Tổng Thống Kennedy nhậm chức, đã có nhiều chuyện
quan trọng xẩy ra liên hệ tới tình hình VN. Sau khi quyết định chiếm miền Nam
bằng võ lực qua Nghị Quyết 15, Hà Nội tổng động viên vào tháng Tư 1960, bắt đầu
gửi quân vào Nam. Bốn tháng sau, đại úy Kong Le đảo chánh ở Lào, theo đường lối
trung lập. Bốn tháng sau nữa, Liên Xô lập cầu không vận tiếp tế cho lực lượng
trung lập của Kong Le vào đấu tháng 12. Hai tuần sau, Hà Nội cho ra mắt tại
miền Nam “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng” vào ngày 20-12. Ngày 06 tháng 01, 1961,
Nikita Khruskchev đọc diễn văn chống Mỹ và hứa ủng hộ chiến tranh giải phóng
tại khắp nơi.
Ngày 9 tháng 4, 1961, ông Diệm tái đắc cử tổng
thống. Mười hôm sau, Mỹ thất bại chua cay trong vụ giúp người lưu vong Cuba đổ
bộ Vịnh Con Heo. Vì vụ thất bại này, Kennedy không giám quyết tâm cứu Lào. Thay
vì bảo vệ Lào bằng mọi giá như lời khuyên của vị tiền nhiệm Eisenhower, Kennedy
tìm giải pháp bảo vệ nền trung lập của Lào, qua bàn hội nghị. Hội nghị về Lào
khai mạc tại Genève ngày 16 tháng Năm, 1961. Rồi đầu tháng Sáu, lại xẩy ra vụ
khủng hoảng Berlin.
Trước hội nghị Genève về Lào, Tổng Thống Kennedy cử
Phó Tổng Thống Lyndon Johnson tới gặp ông Diệm tại Sài Gòn, từ 11 đến 13 tháng
Năm, 1961. Dịp này, Johnson đưa cho ông Diệm một văn thư của Kennedy gợi ý về
việc gia tăng các phi vụ chống lại quân cộng sản, cũng như tăng quân lực VN
thêm 20.000 người. Johnson cũng thảo luận về yêu cầu của chính quyền Kennedy là
ông Diệm mở rộng thêm cho đối lập trong nước và cho dân chúng được hưởng thêm
tự do. Nhưng không có lúc nào Johnson đề cập tới việc gửi quân Mỹ chiến đấu tới
Việt Nam. Ông ấy cam đoan với ông Diệm là sẽ gửi máy bay trực thăng và phương
tiện cần thiết cho việc tăng quân.
Vài ngày sau, các ông Diệm và Johnson có cuộc họp
thứ nhì với nhiều tranh luận hơn. Ông Diệm nhấn mạnh Nam VN cần thêm 120.000
quân trên số 150.000 đã sẵn có, và không thể cáng đáng nổi. Ông Johnson hỏi
liệu ông Diệm có chấp nhận quân Mỹ chiến đấu không. Ông Diệm nói chỉ chấp nhận
nếu nước ông bị tấn công, nhưng ông yêu cầu thêm nhân viên Mỹ để huấn luyện cho
quân lực Việt Nam.
Bốn tháng sau, vào tháng 10, 1961, ông Kennedy gửi
cố vấn quân sự là Tướng Maxwell Taylor tới Sài Gòn để trực tiếp lượng định tình
hình. Phái đoàn rời Washington ngày 17, ngoài Tướng Taylor còn cố vấn an ninh
Walt Rostow, Tướng Lansdale và một số chuyên viên khác. Lansdale, chỉ được coi
là chuyên viên trong phái đoàn, không được dự trù có mặt trong thành phần họp
với ông Diệm. Nhưng khi phái đoàn vừa tới Sài Gòn, Lansdale đã được mời đi
thẳng từ phi trường tới Dinh độc Lập họp riêng với anh em ông Diệm. Lansdale
được ông Diệm cho biết ông vừa ban bố tình trạng khẩn trương để đối phó với
trận lụt lớn ở miền Tây, và tình hình an ninh chung. Ông Diệm cũng hỏi thẳng
Lansdale liệu ông có thể tin tưởng vào chính quyền Kennedy được không? Trong
cuốn Edward Lansdale, the Unquiet American xuất bản năm 1988, tác giả
Cecil B. Currey đã kể lại cuộc gặp gỡ giữa anh em Tổng Thống Diệm và Tướng
Edward Lansdale tại Dinh Độc Lập ngày 18 tháng 10, 1961:
Nhiều năm sau, Lansdale tiết lộ: “Tôi chưa bao
giờ nói với ai điều này. Diệm xác nhận rằng ông đã yêu cầu chính quyền Hoa Kỳ
gửi quân chiến đấu Mỹ tới Việt Nam. Lansdale buồn rầu nhìn bạn mình. “Phải
chăng ông đã đạt tới tình trạng khiến ông sẽ phải cần đến họ để sống còn?” Ông
Nhu có mặt, và giống như chuyến trước của Lansdale, bắt đầu trả lời thay cho
anh mình. Lansdale chặn ông ta. “Tôi hỏi anh ông những câu đó, không hỏi ông!”
Cả hai người Việt ngồi yên lặng một lúc. Rồi ông Diệm trả lời. “Ông muốn nói
rằng tôi không nên yêu cầu gửi quân? Lansdale hỏi một câu khác. “Ông có cần họ
không?” Ông Diệm không trả lời ngay và cuối cùng nói “Thật ra, không cần”.
Lansdale dịu giọng góp ý “Nên giữ như thế”. Sau này ông nói, “Tôi chống lại
việc mang quân chiến đấu tới. Tôi đã nhìn thấy người Pháp làm và phác họa rằng
chứng ta cũng sẽ làm như họ thôi – ngay cả với ý hướng tốt”. (tr. 238)
Hôm sau, 19 tháng 10, Taylor và Rostow họp với anh
em ông Diệm trong bốn giờ. Ông Diệm than phiền không hiểu tại sao chính quyền
Hoa Kỳ [thời Kennedy] chưa chính thức cam kết giúp đỡ nước ông, do đó ông lo
ngại Hoa Kỳ có thể bỏ rơi Việt Nam. Ông Diệm không hề đề cập việc mang quân
chiến đấu Mỹ tới Việt Nam. Nhưng chính Tướng Taylor nêu vấn đề này ra hỏi ông
Diệm.
Trước khi rời Việt Nam, Taylor và Rostow có cuộc họp
chót với ông Diệm. Tayor hỏi thẳng ông Diệm có muốn nhận một đạo quân lớn của
Mỹ tới như một “lực lượng cứu lụt”, gồm các nhân viên về y tế, thông tin, cơ
khí, cùng với một số quân chiến đấu để bảo vệ an ninh cho họ. Ông Diệm đồng ý.
Taylor đánh điện cho Tổng Thống Kennedy, đề nghị gửi một đạo quân từ sáu đến
tám ngàn người. Trong khi dừng chân tại Baguio ở Philippines trên đường về Mỹ,
Taylor gửi điện cho Tổng Thống Kennedy yêu cầu gửi ngay đạo quân này, coi như
nỗ lực đóng góp với Nam VN để cứu lụt, đồng thời chặn đứng việc cộng sản xâm
lấn Miền nam. Taylor cũng đề nghị Hoa Kỳ cứu xét việc ném bom Bắc Việt.
Nhưng Ngoại Trưởng Dean Rusk không đồng ý với đề
nghị của Tướng Taylor. Ông nới với Tổng Thống Kennedy rằng Hoa Kỳ không nên can
dự về quân sự, cho đến khi ông Diệm chịu cải tổ về chính trị.
Tướng Maxwell Taylor, Bộ trưởng Quốc Phòng Robert MacNamara và TT.
Kennedy thảo luận về VN (tháng 9 năm 1963)
Ngược lại, đề nghị của Taylor được sự đồng ý của Bộ
Trưởng Quốc Phòng McNamara, Thứ Trưởng QP Gilpatrick, và Bộ Tham Mưu Liên Quân
(JCS). Trong khi ủng hộ việc gửi quân, JCS cũng báo động rằng, lực lượng 8.000
người không có là bao, không đủ để làm thay đổi cán cân lực lượng, và khó tránh
được việc gửi thêm quân.
Trong báo cáo chính thức gửi cho Tổng Thống Kennedy
ngày 03 tháng 11, 1961, Taylor đề nghị mang quân chiến đấu vào Việt Nam. Điều
này khiến Tổng Thống Kennedy rất bối rối, vì từ đầu ông đã không muốn vậy.
Nhưng nếu công luận biết có đề nghị này, mà ông từ chối, thì sẽ bị phe bảo thủ
chỉ trích là quá mềm yếu trước cộng sản. Vì thế, ông đã không công bố đề nghị
của Taylor, liệt nó vào loại “tuyệt mật” (eyes only), trong khi nói với báo chí
là Taylor không đề nghị gửi quân, và ông cũng ra quyết định ngày 11 tháng 11 là
không gửi quân chiến đấu tới VN.
Theo sử gia Arthur Schlesinger Jr. viết trong Robert
Kennedy and His Times, Tướng Taylor sau này nói rằng, khi nhận báo cáo của
ông “Tôi không nhớ có ai đã mạnh mẽ chống lại đề nghị gửi quân, trừ một người,
và người đó là tổng thống. Tổng thống không muốn bị thuyết phục rằng đó
là chuyện phải làm…. Đó chính là tin tưởng cá nhân của tổng thống rằng quân
chiến đấu của Mỹ không nên vào [Việt Nam]”.
Vẫn theo ông Schlesinger, ngay từ trước khi phái
đoàn Taylor/Rostow đi Sài Gòn, Tổng Thống kennedy đã kiếm được một đồng minh
quan trọng, là tướng Douglas McArthur. Vị danh tướng từng đánh bại Nhật Bản và
chặn đứng được làn sóng cộng quân tại Triều Tiên, ngay từ tháng Tư 1961 đã cả
quyết với Tổng Thống Kennedy rằng sẽ là một sai lầm nếu chiến đấu tại Đông Nam
Á. Và rằng “chúng ta sẽ điên khùng nếu đánh trên lục địa Á châu, và tương lai
của Đông Nam Á nên được quyết định tại bàn hội nghị”. Quan điểm của Tướng
McArthur đã hoàn toàn chinh phục Tổng Thống Kennedy, đến nỗi, sau này, nếu có
ai bàn khác đi, ông ấy đều nói rằng: “Các anh hãy tới thuyết phục Tướng
McArthur đi, rồi tôi sẽ chịu thuyết phục”.
Cho đến hai năm sau, là cuối 1963, vẫn còn viên chức
Mỹ nêu ý kiến gửi quân Mỹ tới tham chiến tại Việt Nam, nhưng đã bị phản đối
ngay. Theo Rufus Phillips kể lại trong Why Vietnam Matters, về cuộc họp
tại Bạch Ốc sáng ngày 10 tháng 9 năm 1963, dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống
Kennedy, để nghe báo cáo về chuyến đi cấp tốc tới Việt Nam lượng định tình hình
tại chỗ của Tướng Krulax thuộc Bộ Quốc Phòng, và ông Mendenhall thuộc Bộ Ngoại
Giao: Sau khi nghe báo cáo tốt đẹp về tình hình quân sự của Krulax và tình hình
bi quan về chính trị của Mendenhall, Tổng Thống Kennedy đã hỏi một cách mỉa mai
“Có phải hai ông cùng tới một nước không?” Sau khi Rufus Phillips — một viên
chức cao cấp của Mỹ về chương trình Bình Định Nông thôn vừa từ Vịêt Nam về —
trình bầy ý kiến của mình, là đến lượt John Mecklin, giám đốc thông tin Mỹ
(USIS) tại Sài Gòn lên tiếng. “Ông ấy nghĩ rằng chúng ta nên trực tiếp phái
quân lực Mỹ tới Nam Việt Nam để hỗ trợ nỗ lực chiến tranh. Tới điểm này, phòng
họp ồn ào lên, Tướng Taylor (mặc dầu từng đề nghị đem quân chiến đấu tới VN vào
năm 1961) cương quyết ‘Không, không, không thể được trong mọi trường hợp!’ Tôi
kinh ngạc về đề nghị của Mecklin. Tôi không biết ông ta đã lấy ý tưởng đó từ
đâu. Nó đánh lạc sự chú ý từ vấn đề chính, đó là thực tế đối phó với ông bà
Nhu. Đến lượt McCone (giám đốc CIA) biện luận rằng quân đội Việt Nam có thể làm
việc với Nhu, và rằng tình hình không đến nỗi tệ như báo cáo. Harriman nói rằng
tình hình rõ ràng đang tan vỡ và rằng chúng ta không thể tiếp tục với Diệm”.
(coi
tiếp Phần 2)
—————
* Bạn đọc có thể theo dõi những chi tiết xẩy ra trong ngày TT Kennedy bị
ám sát theo đường dẫn: http://damau.org/archives/1875
------------------------------------------
6 bình
luận
- Phan Đức viết:
Theo những gì ông Đinh Từ Thức viết ở phần trên, xin
tạm góp vài thiển ý để làm
sáng tỏ một giai đoạn lịch sử, sau nửa thế kỷ.
sáng tỏ một giai đoạn lịch sử, sau nửa thế kỷ.
Đọc bài này,tôi cũng ngạc nhiên thấy nước Mỹ đồng
thuận và nhất trí cao không
thua gì CsVN,tức là giới chính trị Mỹ chỉ có một chủ trương duy nhất như ông
ĐTT mô tả là không gửi quân trực tiếp chiến đấu ở miền Nam.
thua gì CsVN,tức là giới chính trị Mỹ chỉ có một chủ trương duy nhất như ông
ĐTT mô tả là không gửi quân trực tiếp chiến đấu ở miền Nam.
Viết như thế là ông Thức đã cố ý hay vô tình bỏ quên
bộ ba “chiến lược gia”gồm
Roger Hilsman, Averell W. Harriman và Michael V.Forrestal. Họ là ai?
Roger Hilsman, Averell W. Harriman và Michael V.Forrestal. Họ là ai?
Roger Hilsman là Giám đốc Tình báo bộ Ngoại Giao do
TT.Kennedy bổ nhiệm, được
coi là kiến trúc sư chính sách về VNcủa Mỹ (architect of USA.Vietnam policy)
còn Averell W.Harriman là kiến trúc sư chính sách chiến tranh lạnh (architect
of cold war) và Michael V. Forrestal là trưởng ban điều hợp Mỹ-Việt, là một thành
viên Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ. Với chức vụ như trên của bộ ba này thì không
thể lờ đi vai trò can thiệp trực tiếp của họ được.
coi là kiến trúc sư chính sách về VNcủa Mỹ (architect of USA.Vietnam policy)
còn Averell W.Harriman là kiến trúc sư chính sách chiến tranh lạnh (architect
of cold war) và Michael V. Forrestal là trưởng ban điều hợp Mỹ-Việt, là một thành
viên Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ. Với chức vụ như trên của bộ ba này thì không
thể lờ đi vai trò can thiệp trực tiếp của họ được.
Chính bộ ba này đã chủ trương Mỹ thay thế ông Diệm
để gửi quân trực tiếp đánh
nhau với VC thì mới chận đứng được Cộng sản. Chính họ đã thảo một công điện mật
gọi là DEPTEL243 ngày 24-8-1963 trong đó chỉ thị đại sứ Cabot Lodge tiến hành
tổ chức đảo chính TT NĐD.
nhau với VC thì mới chận đứng được Cộng sản. Chính họ đã thảo một công điện mật
gọi là DEPTEL243 ngày 24-8-1963 trong đó chỉ thị đại sứ Cabot Lodge tiến hành
tổ chức đảo chính TT NĐD.
- 02.11.2013 vào lúc 7:52 pm
No comments:
Post a Comment