Phùng Hoài
Ngọc
24.10.2013
Suốt gần ngàn năm qua trong
nhiều hoàn cảnh bị cai trị trực tiếp mà người Việt học Khổng tử vẫn không bị
Hán hoá, bây giờ có cần phải lo lắng một cái Viện Khổng tử chăng?
Ngày xưa người Việt học Hán ngữ
và Khổng tử vì không thể không học. Tuy nhiên thời ấy các cụ nhất định phiên âm
Hán ngữ ra âm Hán-Việt để xài, quyết không học nguyên vẹn tiếng Hoa, nhằm giữ
vững tự chủ tự lập, tránh khỏi bị đồng hoá.
Khi thấy chữ Hán không đủ phục vụ nhu cầu cần thiết, các cụ soạn ra chữ
Nôm để ghi âm nốt một phần tiếng Việt cho đủ dùng.
Tìm hiểu vai trò của Khổng tử ở
Trung Quốc và Việt Nam, tưởng chúng ta cũng nên điểm qua vài nét về Khổng học.
Khổng tử sống vào cuối thời
Xuân thu (sinh 551 trước CN, mất 479 tr CN).
Thời Xuân thu (770 – 455 tr.CN)
xã hội Trung Hoa đang bước vào giai đoạn sơ kỳ phong kiến. Thể chế xã hội chia
hai bậc cai trị chính thức: hoàng đế 帝 và chư hầu 侯. Hoàng đế nhà Chu ngày càng tỏ ra không đủ sức
cai quản lãnh thổ ngày càng rộng lớn với cả trăm nước chư hầu (chư 诸: các, số nhiều). Đã vậy còn nảy sinh một bậc chen giữa là “vương 王”, có lúc lên tới 14 vị (còn
dùng chữ bá 伯 không chính thức kèm với vương王,bá tức là “bác”, anh của cha,
nhưng giữ quyền cao hơn cha, tức là lạm quyền. Vậy người dân mới bực mình dùng
chữ “bá” với ý mỉa mai, bực bội như bá đạo, bá quyền, bá chiếm…Bá vương
lấn lướt tung hoành bất chấp hoàng đế. Dân chúng chịu một cổ ba tròng. Đây là
giai đoạn loạn lạc, đời sống bất an do các chư hầu đua nhau “tranh bá đồ
vương”, họ vơ vét của cải thuế khoá, tuyển lính để chứng tỏ lực lượng mình hùng
hậu, nhằm tham dự các đại hội chư hầu bầu chọn “bá vương”. Nếu đạt được tước
“vương” thì sẽ tiếp tục lôi kéo chư hầu và bá vương khác, nhắm cái đích cuối
cùng là tranh “đế”. Trong hoàn cảnh như vậy, kẻ sĩ hay võ sĩ thấy cần phải chọn
đúng minh chúa mà theo (làm chính trị thời ấy như đánh bạc). Đất nước bất an
thì lòng người cũng ly tán, lối sống bừa bãi, tệ nạn xã hội phát triển, chả
biết đâu là chuẩn mực văn minh…
Trong bối cảnh ấy, nhiều trí
thức học giả thấy cần phát huy vai trò của mình để vãn hồi trật tự, sao cho giữ
được cuộc sống thanh bình an lạc ngày xưa. Lão Tử đưa ra học thuyết “Đạo đức
kinh” (kinh: đường mòn, vạch sẵn mà đi) không ngoài mục đích trên… Kế đến nhà
giáo Khổng tử xuất hiện. Tuy làm quan cho vua Lỗ, tham mưu cho một ông vua,
Khổng tử lại không được nhà vua tin cậy nên ông thấy cần phải biên soạn bài
giảng mở lớp dạy học, phổ biến tư tưởng cho mọi người. Ông lại chọn một số môn
đệ cùng đi qua nhiều nước chư hầu khác thuyết giảng. Nói chung tư tưởng của ông
chỉ được các vua hầu khen chứ không sử dụng…Khổng tử nêu gương các minh chúa
tiền nhân từ giai đoạn đầu nhà Chu trở về trước (đến các vua truyền thuyết
Nghiêu -Thuấn- Vũ) làm điểm xuất phát cho học thuyết. Hạt nhân của Khổng học là
chữ “Lễ”, từ đó học thuyết được phát triển khá phong phú, toàn diện.
Trước khi soạn bài giảng, ông
sưu tầm tài liệu và biên soạn thành sách. Do khiêm tốn ông đều nói rằng “cổ
nhân dạy”, thực ra đó là tư duy của chính ông, chiêm nghiệm của chính mình về
thời cuộc. Điều đặc biệt là cách hành xử của ông trong cuộc sống thường nhật,
ông giảng bài làm sao thì thực hành đúng như vậy.
Bộ sách Khổng tử gồm: Ngũ
kinh có 5 sách: Kinh Lễ, Kinh Thượng thư, Kinh Xuân thu, Kinh thi và
Kinh Dịch. Tứ thư có 4 sách: Đại học, Trung dung, Luận ngữ
(bài giảng của ông và có phần học trò phát triển) và Mạnh tử thư là
trước tác của Mạnh tử (385–303 tr.CN, Mạnh tử ra đời sau Khổng tử gần một trăm
năm) tập trung vào đối tượng vua chúa để khuyên răn, được coi là phát triển sâu
sắc tư tưởng của Khổng tử. Do đó đời sau gọi đầy đủ là học thuyết Khổng-Mạnh,
nhưng nếu gọi vắn tắt là “Khổng học” cũng không sai mấy và được chấp nhận.. .
Đến thời nhà Hán (203 tr.CN– 220) sau khi thống nhất giang sơn, họ Lưu chủ yếu
đã xoá bỏ hai cấp “bá vương” và “chư hầu” để xây dựng chế độ phong kiến quân
chủ tập trung (quy trọn vào chữ “đế”), họ bắt đầu vận dụng học thuyết Khổng tử
làm nền tảng giáo dục, từ đó kéo dài suốt gần hai ngàn năm, tạm tính đến 1911.
Sách Khổng tử ngày nay chỉ thấy
có ba cuốn còn ít nhiều giá trị là Luận ngữ, Kinh thi và Kinh
Dịch. Người Việt đã từng biên dịch phát hành nhiều lần, nhà nho Viêt Nam có
đủ khả năng truyền bá những gì cần thiết về Khổng học cho hậu sinh.
Ngày nay, các nước mở tung cửa
tri thức cho con người lựa chọn. Chúng ta có cần phải lo lắng một cái Viện nhỏ
đặt trong một cái trường đại học không thuộc hàng đầu ở Hà Nội không ? Người ta
chỉ ngạc nhiên vì sao phải cần hai Thủ tướng mới ký kết được một cái văn bản
nho nhỏ ấy đặt trong “Tuyên bố chung” ? Thay vì chỉ cần hai Bộ giáo dục hay Bộ
văn hoá, thậm chỉ hai trường đại học ký kết với nhau cũng được. Còn một điều lạ
nữa: viện Khổng tử không dám tự nhiên tồn tại độc lập ngoài mặt tiền, mà chịu
nép mình vào trong khuôn viên một trường đại học cỡ trung bình ở Hà Nội (Đại
học Hà Nội nguyên là trường Cao đẳng SP Hà Nội mới nâng cấp). Có lẽ họ còn e
dè, nghe ngóng tình hình và thái độ phản ứng mặn hay nhạt của dân Hà Nội, dân
Việt Nam chăng ?
Khổng học đã lặn sâu vào nền
văn hoá Việt với nhiều mức độ, trên nhiều lớp người khác nhau. Nhiều lần tôi
ngẫu nhiên tiếp xúc mấy cụ già không biết chữ, nói chuyện đời, các cụ bật ra
những câu văn Khổng tử khiến tôi giật mình. Sau đoán rằng các cụ “học Luận ngữ”
qua một số tích chèo, tuồng đồ và cải lương hay qua chuyện trò khi nhâm nhi
rượu trà với các cụ đồ nho làng…
Bàn về vai trò của một học
thuyết trong lịch sử.
Sáng lập và chủ trương một học thuyết là nhu cầu khát vọng của nhà trí
thức. Khi họ viết ra, hầu như chỉ muốn giãi bày với thiên hạ, họ không hình
dung được về sau thiên hạ sẽ sử dụng ra sao. Việc sử dụng học thuyết trong một
chế độ cai trị bạo ngược vô pháp vô thiên lại là việc khác. Một chế độ độc tài
toàn trị trong lịch sử loài người từ thời xưa đến nay vẫn ưa dùng một học
thuyết (nào đó) để làm bình phong, làm ngọn cờ.. Thành ngữ thời phong kiến nói
“Ngoại nho nội pháp” (ngoài miệng nói nho giáo trọng chữ Nhân, thực tế coi
trọng dùng Pháp gia tức hình phạ. Bao nhiêu chế độ độc tài đều dùng hai lực
lượng tay trái- tay phải này: Ban tuyên truyền mị dân rao giảng học thuyết (có
biên tập, cắt xén) và “Công cụ vũ lực đàn áp khủng bố” mỗi khi mị dân bất thành
(mị: làm cho si mê vì nịnh khéo, làm cho ngủ say).
Tô đã từng đọc thấy một số bài
báo của một số ít người, thậm chí của một số học giả nho học có tiếng ở Việt
Nam, phê phán Nho học rất nặng nề. Rằng Nho giáo kìm hãm đất nước Trung Quốc và
Việt Nam vào vòng lạc hậu lâu dài, rằng Khổng học trở thành công cụ cho giai
cấp phong kiến thống trị đè nén áp bức nhân dân. v.v… Tôi nghĩ, nhà thống trị
họ muốn làm gì thì làm, quen thói bá đạo bá quyền, họ chỉ cần học thuyết để mị
dân thôi. Họ hiểu đúng đắn hay sai lạc học thuyết ấy cũng chẳng sao. Họ vận
dụng hay xếp xó cũng không sao. Họ cũng lập ra Viện, Khoa triết học này nọ
nghiên cứu học thuyết ông A, ông B hoặc là ghép bừa bãi hai ông thành học
thuyết A-B nhưng chẳng thực hành được gì đáng kể nếu chưa nói là đã thực hành
sai be bét. Khi thấy học thuyết A-B mất giá thì họ đẻ ra Tư tưởng C, họ ghép
lung tung cho có như một bức bình phong nham nhở, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từng
bi quan than thở rằng “chính trị”ở xứ ta là một “món lẩu thập cẩm” quả không
sai.
Chúng ta biết rằng đến thế kỷ
18, phương Tây mới trỗi dậy, vượt qua mặt phương Đông nhờ các thành tựu khoa
học kỹ thuật và tư tưởng cộng hoà, và tất nhiên không thể thiếu vai trò các nhà
lập thuyết. Như vậy, trước đó phương Đông chúng ta có cái khoa học xã hội –
nhân văn nào hay hơn Khổng học đâu? Lỗi là ở các giai cấp thống trị phương Đông
không mở mang giao thương với phương Tây sớm hơn, chứ đâu phải lỗi tại Khổng tử
khiến cho chế độ phong kiến TQ trì kéo 2000 năm, Việt Nam non 1000 năm !
Văn Miếu- Quốc tử giám nghìn
năm trầm mặc ở giữa thủ đô Thăng Long- Hà Nội, dân chúng và trí thức chẳng hề
phàn nàn (họ chỉ phàn nàn cái bức tượng một ông Tây đứng giơ tay chỉ trỏ ở một
vườn hoa gần bờ Hồ Hoàn Kiếm vài chục năm qua mà đặt thơ lục bát giễu nhại
chơi). Người Việt Nam, kể cả nhà nước ngày nay vẫn tự hào về Văn Miếu- Quốc tử
giám, coi đó như biểu tượng văn hoá nghìn năm của mình, cái cổng vào là Khuê
văn các (bên trong cổng chính) được chọn là biểu tượng logo Hà Nội, hễ có khách
quốc tế thì thế nào cũng dẫn họ đến đó chiêm ngưỡng. Tôi chưa biết một quan
điểm nào phê phán quần thể kiến trúc đó.
Liên hệ đến Karl Marx, dù ông
là kẻ thù của chủ nghĩa tư bản (theo cách nhìn của những người cộng sản), nhưng
nước Anh tư bản thâm niên cổ thụ vẫn tôn trọng ông trong công viên nghĩa trang
Highgate với mộ phần cả gia đỉnh và tượng đài Marx trang nghiêm ở đó. Có thể,
người ta coi ông là nhà phản biện vĩ đại không tự nguyện, vô hình trung giúp
chủ nghiã tư bản tự cải thiện mình. Có thể, người ta gạn đục khơi trong, chọn
ra được những trước tác triết học của Marx có ích cho tư duy nhân loại. Họ chỉ
không cần kỷ niệm cái giải pháp thất bại thảm hại đầy hệ luỵ của ông là “dùng
bạo lực chuyên chính vô sản lật đổ chủ nghĩa tư bản” mà thôi.
Viện Khổng tử, vì thế chỉ là
cây cầu truyền bá ngôn ngữ, văn hoá nói chung, đại thể như một “Trung tâm văn
hoá Trung Hoa”. Giả sử không có Viện đó thì hiện nay ở nước ta vẫn lai rai nghiên
cứu học tập ngôn ngữ và văn hoá TQ (trong đó có Khổng học), tuỳ theo đa dạng
nhu cầu của nhân dân và nhà nước…
Một người bạn đồng nghiệp góp
bàn chí lý rằng: Người ta không sợ ông Khổng, hay cái Viện Khổng tử, mà người
ta sợ cái kẻ (cả phía TQ lẫn phía VN) đang muốn lợi dụng Khổng giáo cho mục
đích riêng họ. Và Khổng giáo cùng Viện Khổng tử bị lên án là vì (vô tình) trở
thành công cụ cho những kẻ này. Đạo Khổng có những nội dung bất cập, đồng thời
có nhiều điểm hay, nhưng chắc chắn nó chưa đầy đủ. Trong khi người dân VN còn
đang rất thiếu hiểu biết về tự do, dân chủ, pháp quyền (những
khái niệm xa lạ với Khổng giáo) mà nhà nước không những đã không tạo điều kiện
để làm tăng sự hiểu biết của người dân về những vấn đề trên, lại đi lo vun đắp
cái tinh thần Khổng giáo, là điều mà truyền thống VN cũng đã thấm nhuần lắm
rồi, lại xuất phát từ chủ trương của một anh thực dân (mới nổi lên) là TQ, thì
việc ấy chẳng phải cũng đáng lo lắm sao ?
Do đó tôi nghĩ rằng chẳng cần
phải lo ngại Viện Khổng tử sắp mở ở Việt Nam nhưng chúng ta vẫn thường xuyên
nâng cao cảnh giác.
Mời đọc tham khảo (trích bài
viết của tác giả Huỳnh Văn Út trên Trần Nhương blog):
“Viện Khổng Tử thuộc Trường Đại
học McMaster University Canada bị đóng cửa từ tháng 7/2013 sau năm năm hoạt
động. Học viện này bị chỉ trích là được chỉ đạo bởi Tổng Lãnh sự Trung Quốc tại
Canada để làm công tác tình báo nhằm chi phối và gây ảnh hưởng tới các quan
chức bản xứ. Người Anh cho rằng sự tồn tại của Viện Khổng Tử ở Trường Kinh tế
và Khoa học Chính trị Luân Đôn (LSE- London School of Economics and Political
Science) là một điều kỳ quặc vì Khổng Tử vốn trọng Nho học và xem khinh buôn
bán. Tờ China Daily đưa ra một thống kê cho rằng có 64 Viện Khổng Tử đang hoạt
động trong các trường đại học ở Mỹ (Cũng tờ báo này lại mâu thuẩn khi đưa ra
một thống kê rằng có 81 Viện Khổng Tử ở Mỹ). Năm 2012 có 51 trong số 600 giảng
viên người Trung Quốc làm việc trong các Viện này buộc phải về nước vì vi phạm
luật di trú của Mỹ”.
Thế đấy, Viện Khổng tử sắp mở,
hàng ngàn lao động TQ bất hợp pháp đang tồn tại trên đất VN, phim Tàu bá chiếm
hầu hết đài truyền hình trung ương và địa phương suốt ngày đêm, cái nào cũng
đáng ngại cả.
GNLT.PHN
No comments:
Post a Comment