Saturday, 26 October 2013

HÃY GỌI CHÚNG TÔI LÀ TÙ NHÂN CÔNG ƯỚC. . . (Lê Lam - Danlambao)




27-10-2013

Hiện nay dư luận trong nước và quốc tế đã gọi hàng trăm người đang bị giam cầm vì bất đồng chính kiến với đảng cộng sản là tù nhân lương tâm và còn thành lập Quỹ tù nhân lương tâm (Prisoners of Conscience Fund), Quỹ chống án cho các tù nhân lương tâm. Thuật ngữ tù nhân lương tâm “Prisoner of Conscience” xuất phát từ nhóm đấu tranh cho nhân quyền thuộc Tổ chức Ân Xá Quốc Tế vào đầu thập niên 1960. Thuật ngữ này nhằm đề cập đến bất cứ ai bị bỏ tù vì lý do chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, màu da, xu hướng tình dục, niềm tin hay lối sống miễn là họ đã không sử dụng hoặc ủng hộ bạo lực. Thuật ngữ này còn để chỉ những người đã bị cầm tù, hoặc bị bức hại vì biểu lộ niềm tin theo tư tưởng và lương tâm của họ một cách ôn hoà.

Ngày 28/5/1961 bài báo “Các tù nhân bị bỏ quên” đã khởi đầu chiến dịch, lời kêu gọi của Tổ chức Ân Xá Quốc Tế và lần đầu thuật ngữ tù nhân lương tâm được ra đời. 

Thuật ngữ tù nhân lương tâm dành cho bất kỳ người nào mà thân xác bị kiềm chế do bị cầm tù hay bằng cách khác vì biểu lộ dưới mọi hình thức từ ngữ, ký hiệu, hoặc bất kỳ ý kiến mà họ quan niệm một cách trung thực và không ủng hộ hoặc chấp nhận việc bạo hành cá nhân... Thuật ngữ này không bao gồm những người đã âm mưu với một chính phủ nước ngoài để lật đổ chính phủ của chính họ. Các tù nhân đặc thù này còn bị chính phủ cho là mối đe dọa thực sự cho an ninh của đất nước và điều này không chỉ có riêng ở Việt Nam mà còn là khái niệm được áp dụng ở một số nước trên thế giới như Miến Điện, Trung Quốc... 

Từ đó cụm từ “tù nhân lương tâm” hay tiếng nói của lương tâm nhân loại được sử dụng rộng rãi trong các cuộc hội thảo về tù nhân chính trị, tôn giáo, phi hình sự khác... Ở Việt Nam hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo còn chọn ngày Quốc Tế Nhân Quyền 10 tháng 12 “Human Rights Day” hàng năm làm ngày Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam...

Thế nhưng, theo trình bày trên, cụm từ tù nhân lương tâm chỉ thể hiện ý chí và tiếng nói lương tâm nhân loại muốn đả phá xiềng xích, gông cùm, muốn bênh vực những người bị cầm tù vì bất đồng chính kiến, bất đồng niềm tin lối sống một cách ôn hòa. Thuật ngữ tù nhân lương tâm hoàn toàn không nói lên được bản chất pháp lý và chỗ dựa pháp lý của nó là Bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền ngày 10/12/1948, hoặc Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị năm 1966, Công Ước Quốc Tế về Kinh Tế Xã Hội và Văn Hóa, Công Ước Quốc Tế về Chống Phân Biệt Đối Xử Với Phụ Nữ... 

Không chỉ thế giới mà cả Việt Nam đều phải có nghĩa vụ tuân thủ các quy tắc pháp lý quốc tế trong đó Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã khẳng định “...mọi người sinh ra đều tự do, bình đẳng về nhân quyền và quyền lợi” và mọi người còn có quyền tự do ngôn luận - bày tỏ quan điểm, tự do quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới, quyền tự do hội họp và lập hội một cách ôn hòa v.v... Thế nhưng vì muốn thực thi các quyền này dưới sự lãnh đạo độc tài của đảng cộng sản đã có mười bốn ngàn người ký tên vào Kiến nghị 72, gần mười ngàn người ký tên vào Tuyên bố Công dân Tự do, hơn mười lăm ngàn người ký tên vào Tuyên bố Hội đồng giám mục Việt Nam và còn nhiều hơn thế nữa. Cuộc chiến về nhân quyền nhằm đạt mục đích thực thi các công ước quốc tế sẽ không có điểm dừng , trong khi những người anh em của chúng ta như Nguyễn Hữu Cầu với 34 năm tù xuyên thế kỷ, Trương Văn Xuân, Nguyễn Văn Trai sau mười lăm năm lao lý đã vùi thây. 

Và còn biết bao người khác như: Linh mục Nguyễn Văn Vàng, Nguyễn Văn Lý; Mục sư Nguyễn Công Chính; Hòa thượng Thích Quảng Độ; Bác sĩ Nguyễn Đan Quế; Giáo sư Đoàn Việt Hoạt; Luật sư: Nguyễn Bắc Truyển, Lê Công Định, Lê Thị Công Nhân, Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân; Nhà báo: Trương Minh Đức, Tạ Phong Tần, Phan Thanh Hải, Nguyễn Văn Hải (Điếu cày); Nhạc sỹ: Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình; Doanh nhân Phạm Bá Hải; Thầy giáo Đinh Đăng Định; Kỹ sư: Trương Minh Nguyệt, Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long; Sinh viên: Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha; Blogger: Đinh Nhật Uy, Phạm Thanh Nghiên, Đỗ Thị Minh Hạnh, Phạm Viết Đào, Trương Duy Nhất; Thanh niên tôn giáo: Hồ Lê Sơn, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Tấn Thành, Hồ Đức Hòa, Nguyễn Xuân Anh, Trần Hữu Đức,d Chu Mạnh Sơn, Nguyễn Văn Duyệt, Nông Hùng Anh, Trần Văn Nhật, Thái Văn Dung, Nguyễn Đình Cường, Trần Đức Thạch, Hồ Văn Oanh, Đặng Xuân Diệu, Đậu Văn Dương, Hoàng Phong và còn rất nhiều tù nhân khác nữa.

Xét cho cùng họ đều là tù nhân công ước quốc tế. Đó là chưa kể những tù nhân “Dự khuyết” đang tiếp tục và sẵn sàng tiếp tục bước vào vòng lao lý. Những người tù khả ái đó là những giáo sư, kỹ sư, bác sỹ, nghệ sỹ, nhà báo, doanh nhân, luật sư, sinh viên, dù rằng là lương hay giáo dân, tất cả cũng chỉ vì đòi hỏi quyền cơ bản về nhân quyền mà đảng cộng sản Việt Nam đang chà đạp, vi phạm trắng trợn các công ước mà họ đã từng tham gia ký kết. Cụ thể của những vi phạm công ước quốc tế là việc sử dụng các điều 88, 89, 258 Bộ luật hình sự. Do đó, tại sao chúng ta gọi những người đấu tranh bảo vệ quyền cơ bản vốn có của con người là tù nhân lương tâm? Sao không thử gọi một lần điển hình với doanh nhân - blogger Đinh Nhật Uy là tù nhân công ước. Qua cách gọi này bạn sẽ có một suy nghĩ khác, một tầm nhìn khác và thế giới sẽ thấy một trách nhiệm khác hẳn - không chỉ của cá nhân, tổ chức, nhóm, hoặc riêng biệt dân tộc mà còn là trách nhiệm chung của nhân loại. Thuật ngữ tù nhân công ước chính là căn cứ pháp lý cho các nước thành viên vào cuộc, là cơ sở để huy động sức mạnh toàn lực thực thi công ước, có như thế mới thấy hết lương tâm, trách nhiệm của cộng đồng phấn đấu vì một thế giới xã hội dân sự thời đại.

Lê Lam - cựu tù công ước quốc tế



No comments:

Post a Comment

View My Stats