27-10-2013
Hiện nay dư luận trong nước và quốc tế đã gọi hàng
trăm người đang bị giam cầm vì bất đồng chính kiến với đảng cộng sản là tù nhân
lương tâm và còn thành lập Quỹ tù nhân lương tâm (Prisoners of Conscience
Fund), Quỹ chống án cho các tù nhân lương tâm. Thuật ngữ tù nhân lương tâm
“Prisoner of Conscience” xuất phát từ nhóm đấu tranh cho nhân quyền thuộc Tổ
chức Ân Xá Quốc Tế vào đầu thập niên 1960. Thuật ngữ này nhằm đề cập đến bất cứ
ai bị bỏ tù vì lý do chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, màu da, xu hướng tình dục,
niềm tin hay lối sống miễn là họ đã không sử dụng hoặc ủng hộ bạo lực. Thuật
ngữ này còn để chỉ những người đã bị cầm tù, hoặc bị bức hại vì biểu lộ niềm
tin theo tư tưởng và lương tâm của họ một cách ôn hoà.
Ngày
28/5/1961 bài báo “Các tù nhân bị bỏ quên” đã khởi đầu chiến dịch, lời
kêu gọi của Tổ chức Ân Xá Quốc Tế và lần đầu thuật ngữ tù nhân lương tâm được
ra đời.
Thuật ngữ tù nhân lương tâm dành cho bất kỳ người
nào mà thân xác bị kiềm chế do bị cầm tù hay bằng cách khác vì biểu lộ dưới mọi
hình thức từ ngữ, ký hiệu, hoặc bất kỳ ý kiến mà họ quan niệm một cách trung
thực và không ủng hộ hoặc chấp nhận việc bạo hành cá nhân... Thuật ngữ này
không bao gồm những người đã âm mưu với một chính phủ nước ngoài để lật đổ
chính phủ của chính họ. Các tù nhân đặc thù này còn bị chính phủ cho là mối đe
dọa thực sự cho an ninh của đất nước và điều này không chỉ có riêng ở Việt Nam
mà còn là khái niệm được áp dụng ở một số nước trên thế giới như Miến Điện,
Trung Quốc...
Từ đó cụm từ “tù nhân lương tâm” hay tiếng nói của
lương tâm nhân loại được sử dụng rộng rãi trong các cuộc hội thảo về tù nhân
chính trị, tôn giáo, phi hình sự khác... Ở Việt Nam hội Ái Hữu Tù Nhân Chính
Trị và Tôn Giáo còn chọn ngày Quốc Tế Nhân Quyền 10 tháng 12 “Human Rights Day”
hàng năm làm ngày Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam...
Thế nhưng, theo trình bày trên, cụm từ tù nhân lương
tâm chỉ thể hiện ý chí và tiếng nói lương tâm nhân loại muốn đả phá xiềng xích,
gông cùm, muốn bênh vực những người bị cầm tù vì bất đồng chính kiến, bất đồng
niềm tin lối sống một cách ôn hòa. Thuật ngữ tù nhân lương tâm hoàn toàn không nói lên được bản chất pháp
lý và chỗ dựa pháp lý của nó là Bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền ngày
10/12/1948, hoặc Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị năm 1966,
Công Ước Quốc Tế về Kinh Tế Xã Hội và Văn Hóa, Công Ước Quốc Tế về Chống Phân
Biệt Đối Xử Với Phụ Nữ...
Không chỉ thế giới mà cả Việt Nam đều phải có nghĩa
vụ tuân thủ các quy tắc pháp lý quốc tế trong đó Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền
đã khẳng định “...mọi người sinh ra đều tự do, bình đẳng về nhân quyền và
quyền lợi” và mọi người còn có quyền tự do ngôn luận - bày tỏ quan điểm, tự
do quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên
giới, quyền tự do hội họp và lập hội một cách ôn hòa v.v... Thế nhưng vì muốn
thực thi các quyền này dưới sự lãnh đạo độc tài của đảng cộng sản đã có mười
bốn ngàn người ký tên vào Kiến nghị 72, gần mười ngàn người ký tên vào Tuyên
bố Công dân Tự do, hơn mười lăm ngàn người ký tên vào Tuyên bố Hội đồng
giám mục Việt Nam và còn nhiều hơn thế nữa. Cuộc chiến về nhân quyền nhằm
đạt mục đích thực thi các công ước quốc tế sẽ không có điểm dừng , trong khi
những người anh em của chúng ta như Nguyễn Hữu Cầu với 34 năm tù xuyên thế kỷ, Trương Văn Xuân,
Nguyễn Văn Trai sau mười lăm năm lao lý đã vùi thây.
Và còn biết bao người khác như: Linh mục Nguyễn
Văn Vàng, Nguyễn Văn Lý; Mục sư Nguyễn Công Chính; Hòa thượng Thích Quảng Độ;
Bác sĩ Nguyễn Đan Quế; Giáo sư Đoàn Việt Hoạt; Luật sư: Nguyễn Bắc Truyển, Lê
Công Định, Lê Thị Công Nhân, Cù Huy Hà Vũ, Lê Quốc Quân; Nhà báo: Trương Minh
Đức, Tạ Phong Tần, Phan Thanh Hải, Nguyễn Văn Hải (Điếu cày); Nhạc sỹ: Việt
Khang, Trần Vũ Anh Bình; Doanh nhân Phạm Bá Hải; Thầy giáo Đinh Đăng Định; Kỹ
sư: Trương Minh Nguyệt, Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long;
Sinh viên: Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha; Blogger: Đinh Nhật Uy, Phạm
Thanh Nghiên, Đỗ Thị Minh Hạnh, Phạm Viết Đào, Trương Duy Nhất; Thanh niên tôn
giáo: Hồ Lê Sơn, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Tấn Thành, Hồ Đức Hòa, Nguyễn Xuân
Anh, Trần Hữu Đức,d Chu Mạnh Sơn, Nguyễn Văn Duyệt, Nông Hùng Anh, Trần Văn
Nhật, Thái Văn Dung, Nguyễn Đình Cường, Trần Đức Thạch, Hồ Văn Oanh, Đặng Xuân
Diệu, Đậu Văn Dương, Hoàng Phong và còn rất nhiều tù nhân khác nữa.
Xét cho cùng họ đều là tù nhân công ước quốc tế. Đó
là chưa kể những tù nhân “Dự khuyết” đang tiếp tục và sẵn sàng tiếp tục bước
vào vòng lao lý. Những người tù khả ái đó là những giáo sư, kỹ sư, bác sỹ, nghệ
sỹ, nhà báo, doanh nhân, luật sư, sinh viên, dù rằng là lương hay giáo dân, tất
cả cũng chỉ vì đòi hỏi quyền cơ bản về nhân quyền mà đảng cộng sản Việt Nam
đang chà đạp, vi phạm trắng trợn các công ước mà họ đã từng tham gia ký kết. Cụ
thể của những vi phạm công ước quốc tế là việc sử dụng các điều 88, 89, 258 Bộ
luật hình sự. Do đó, tại sao chúng ta gọi những người đấu tranh bảo vệ quyền cơ
bản vốn có của con người là tù nhân lương tâm? Sao không thử gọi một lần điển hình với doanh nhân -
blogger Đinh Nhật Uy là tù nhân công ước. Qua cách gọi này bạn sẽ có
một suy nghĩ khác, một tầm nhìn khác và thế giới sẽ thấy một trách nhiệm khác
hẳn - không chỉ của cá nhân, tổ chức, nhóm, hoặc riêng biệt dân tộc mà còn là
trách nhiệm chung của nhân loại. Thuật ngữ tù nhân công ước chính là căn cứ
pháp lý cho các nước thành viên vào cuộc, là cơ sở để huy động sức mạnh toàn
lực thực thi công ước, có như thế mới thấy hết lương tâm, trách nhiệm của cộng
đồng phấn đấu vì một thế giới xã hội dân sự thời đại.
Lê Lam - cựu tù công ước quốc tế
No comments:
Post a Comment