Nguyễn Minh Cần
2013-10-25
2013-10-25
Khi
kêu gọi các đảng viên cộng sản “tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng”, hai ông Lê Hiếu
Đằng và Hồ Ngọc Nhuận có nêu vấn đề “thành lập Đảng dân chủ-xã hội”, nên chúng
tôi muốn nói rõ thêm về chủ nghĩa xã hội-dân chủ.
Chủ
nghĩa xã hội – dân chủ
Trước
hết, xin nói về từ ngữ. Theo tôi, từ ngữ “xã hội-dân chủ” phản ánh đúng thực
chất của chủ nghĩa xã hội-dân chủ hơn là từ ngữ “dân chủ-xã hội”. Vì sao? Vì cơ
sở tư tưởng của phong trào “xã hội-dân chủ” là học thuyết về chủ nghĩa xã hội,
mà thứ chủ nghĩa xã hội đó là chủ nghĩa xã hội dân chủ; nó khác hẳn thứ chủ
nghĩa xã hội chuyên chính vô sản, chủ nghĩa xã hội độc tài, tức là thứ chủ
nghĩa xã hội của người cộng sản.
Từ
ngữ chủ nghĩa xã hội-dân chủ lần đầu tiên được nhà văn Anh Bernard Shaw dùng
năm 1888. Sau này, tại Đại hội thành lập Quốc tế Xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là
Quốc tế Xã hội - SI) tại Frankfurt năm 1951, từ ngữ này đã được chính thức sử
dụng. Qua những bước thăng trầm, ngày nay Quốc tế Xã hội đã lớn mạnh, đến năm
1999 đã có 143 đảng gia nhập. Những người cộng sản nước ta biết đến chủ nghĩa
xã hội-dân chủ và các Đảng Xã hội-Dân chủ, chủ yếu qua những bài mạt sát thậm
tệ của Lenin, Stalin và những người CS khác... đối với các lãnh tụ của phong
trào này, như Ferdinand Lassalle, Karl Kautsky, Eduard Bernstein, v.v.... Các
đảng viên CSVN vì bị bưng bít trên 70 năm trời, chỉ được nghe duy nhất một
tiếng nói của Lenin, Stalin... không hề được tiếp cận các nguồn tư liệu khác,
nên thường có lắm điều ngộ nhận.
Các
Đảng Xã hội-Dân chủ châu Âu phần nhiều chịu ảnh hưởng của Ferdinand Lassalle
(1825–1864), người sáng lập ra Đảng Xã hội-Dân chủ Đức hồi năm 1863 và là chủ
tịch đầu tiên của đảng. Mãi 26 năm sau khi Đảng Xã hội-Dân chủ Đức ra đời,
Friedrich Engels và một số người khác mới thành lập Quốc tế Xã hội chủ nghĩa,
còn gọi là Quốc tế II. Quốc tế này thu hút các Đảng Xã hội chủ nghĩa, trong đó
có Đảng Xã hội-Dân chủ Đức. Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, trong hàng
ngũ Quốc tế II có nhiều phái khác nhau, trái nhau về quan điểm và đường lối.
Đến năm 1914 vì không thống nhất được với nhau về chiến lược cũng như phương
thức đấu tranh nên Quốc tế II phải giải tán.
Trong
phong trào xã hội-dân chủ có một phái nhỏ những người theo chủ nghĩa Marx, chủ
trương cách mạng bạo lực giành chính quyền, đập tan bộ máy nhà nước cũ, thiết
lập chuyên chính vô sản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là Vladimir Lenin,
Rosa Luxemburg, Karl Liebknecht... Về sau những người này tách ra thành lập
Đảng Cộng sản. Lenin và những người CS căm ghét các lãnh tụ và đảng viên các
Đảng Xã hội-Dân chủ, mạt sát họ tàn tệ, còn khi nắm được chính quyền ở Nga thì
thẳng tay đàn áp, thậm chí tiêu diệt họ về thể xác.
Các
phái khác trong phong trào xã hội-dân chủ thì ôn hòa hơn, họ chủ trương xét lại
chủ nghĩa Marx, từ bỏ con đường bạo lực cách mạng, phủ nhận chuyên chính vô
sản, v.v... như Karl Kautsky, Eduard Bernstein, Rudolf Hilferding, Friedrich
Adler... Những người này chú trọng công bằng xã hội, chủ trương quốc hữu
hóa những xí nghiệp quan trọng về chiến lược, nhà nước can thiệp vào kinh tế,
đối tác xã hội giữa những người lao động và những người thuê nhân công, xây
dựng một xã hội dân chủ đa nguyên về tư tưởng, đa đảng về chính trị, dựa vào
những nguyên tắc tự do và tình huynh đệ, bảo đảm triệt để quyền con người, bảo
vệ quyền lợi của tất cả mọi người lao động – không chỉ giai cấp công nhân, mà
cả giới trí thức, nông dân, các trại chủ và tầng lớp trung gian, kể cả các
doanh nhân nhỏ và vừa. Họ cho rằng điều kiện quan trọng nhất để xác lập chủ
nghĩa xã hội đúng thực chất là thực hiện nền dân chủ chân chính trong mọi lĩnh
vực: chính trị, kinh tế, xã hội.
Dân
chủ chính trị phải bảo đảm cho người dân mọi quyền và quyền tự do của công dân,
bảo đảm tính đa đảng, chế độ nghị trường, quyền phổ thông bầu cử, thượng tôn
luật pháp và sự tham gia thực sự của người dân vào việc điều hành công việc xã
hội.
Dân
chủ kinh tế nhằm chống lại sự tập trung quyền lực kinh tế vào tay một thiểu số,
để mỗi người đều có thể ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và phân phối. Vì thế
dân chủ kinh tế phải nhằm xây dựng một hệ thống kinh tế đảm bảo được việc sử
dụng nguồn tài nguyên xã hội cho lợi ích của mọi người. Theo quan niệm của
những người xã hội-dân chủ, quyền lực kinh tế trong xã hội không thuộc những
người nắm phương tiện sản xuất, mà thuộc về những người điều hành chúng. Vì vậy
áp dụng dân chủ kinh tế phải được bảo đảm không phải bằng việc tước đoạt sở hữu
của những người chủ xí nghiệp, mà bằng cách làm cho đông đảo người lao động
tham gia ngày càng nhiều vào việc điều hành doanh nghiệp, cả ở các xí nghiệp
riêng lẻ (qua các hội đồng sản xuất, kiểm tra lượng người làm, việc trả công
lao động và điều kiện lao động, hợp đồng tập thể giữa người lao động và chủ các
xí nghiệp), cũng như trong phạm vi toàn xã hội (qua việc thành lập các cơ quan
đối tác xã hội giữa người lao động và các nhà kinh doanh, việc mở rộng lĩnh vực
sở hữu của thị chính, của hợp tác xã, của nghiệp đoàn, v.v...). Trước đây,
những người xã hội-dân chủ chủ trương quốc hữu hóa và kế hoạch hóa, ngày nay,
họ nhấn mạnh vai trò của thị trường, nhưng vai trò này phải được nhà nước điều
tiết. Còn nhà nước phải khá “ôn hòa” và không được gây trở ngại cho sáng kiến
riêng của cá nhân.
Dân
chủ xã hội là mục tiêu cuối cùng của những người xã hội-dân chủ, nó nhằm bảo
đảm mọi quyền lợi xã hội của người lao động (các quyền lao động, học vấn, nghỉ
ngơi, trị bệnh, nhà ở, bảo đảm xã hội), cũng như phải xóa bỏ mọi hình thức áp
bức, kỳ thị, người bóc lột người, bảo đảm các điều kiện để cho sự phát triển tự
do của mỗi cá nhân.
Mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ phải đạt tới bằng nhưng phương tiện hòa bình
và dân chủ, bằng sự tiến hóa dần dần của xã hội, nhờ những cải cách, nhờ sự hợp
tác giữa các giai cấp, dựa trên sự ủng hộ của nhà nước dân chủ.
Những
điều trình bày trên đây về chủ nghĩa xã hội-dân chủ không chỉ là lý thuyết mà
đã được thực hiện hàng chục năm rồi trong thực tiễn ở nhiều nước châu Âu,
đặc biệt ở Bắc Âu, như ở Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan; những nơi đó tự
do dân chủ được đảm bảo tuyệt đối, xã hội rất trong sạch, hầu như vắng bóng nạn
tham nhũng, nên chất lượng đời sống của người dân rất cao. Một vài nước châu
Âu, như Đức, Pháp, Anh..., châu Mỹ, như Canada, châu Úc, như nước Australia
cũng đã đạt được nhiều thành tựu của chủ nghĩa xã hội-dân chủ. Còn tình trạng
các nước do các ĐCS đi theo con đường của chủ nghĩa Marx-Lenin, nhân dân bị
thống trị bi đát như thế nào, tưởng không cần phải nói.
Nói
đến những nhân vật đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn ở nước ta ít nhiều chịu
ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội-dân chủ thì tôi rất đồng tình với hai ông Hà Sĩ
Phu và Mai Thái Lĩnh, là trước tiên phải nói đến nhà chí sĩ Phan Châu Trinh
(1872-1926). Cụ là một nhà dân chủ Việt Nam không kêu gọi bạo lực, không có đầu
óc chuyên chính. Người thứ hai chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội-dân chủ là
Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ (1920-1947). Ông đã sáng lập ra Việt
Nam Dân chủ Xã hội Đảng (ngày 21.09.1946), gọi tắt là Đảng Dân Xã. Đảng này
theo nguyên tắc “chủ quyền ở nơi toàn thể nhân dân”, chủ trương “toàn
dân chánh trị” và “chống độc tài bất cứ hình thức nào”. Nét độc đáo
của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ là tư tưởng xã hội-dân chủ hòa quyện với giáo lý đức
Phật.
Chúng
tôi viết nhiều về chủ nghĩa xã hội-dân chủ, mà ít nói đến Đảng Xã hội-Dân chủ,
vì nghĩ rằng, phấn đấu để thực hiện chủ nghĩa xã hội-dân chủ, không chỉ có các
Đảng Xã hội-Dân chủ. Đảng của những người xã hội-dân chủ còn có thể mang
nhiều tên khác, như Đảng Lao động, Đảng Công nhân, Đảng Công bằng, Đảng Chính
Nghĩa, v.v... Cái tên đảng không phải là quan trọng, cái chính, cái thực chất
là cương lĩnh, là mục tiêu đấu tranh của đảng, tức là chủ nghĩa xã hội-dân chủ
đích thực. Chúng tôi nhấn mạnh chữ “đích thực”, vì trên đời này, khi có những
thứ tốt thuộc “hàng chính hiệu” thì thường cũng xuất hiện nhiều “hàng giả”,
“hàng nhái”. Điều này dễ thấy ở một vài nước CS gọi là “xã hội chủ nghĩa”: Khi
“hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới” bị sụp đổ hồi cuối những năm 80 đầu những
năm 90 thế kỷ trước thì ban lãnh đạo một vài ĐCS vội vàng thay đổi nhãn hiệu,
đổi tên đảng thành Đảng Xã hội-Dân chủ, Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ, và
tuyên bố theo chủ nghĩa xã hội-dân chủ, chỉ cốt để bảo vệ quyền lực của giai
cấp cầm quyền cũ, chứ thực ra họ vẫn giữ thực chất CS. Đó là một thực tế, các
chiến sĩ dân chủ cần cảnh giác.
Viết
đến đây, chúng tôi không thể không nhắc đến ý kiến của Giáo sư Phan Đình Diệu,
một trong những nhà trí thức khả kính. Ý kiến của ông như thế này: “Tôi hy vọng
là Đảng (cộng sản) sẽ tự biến đổi thàng Đảng xã hội dân chủ để lãnh đạo nước ta
thành một nước xã hội chủ nghĩa dân chủ, như vậy thì cả vấn đề giữ quyền lãnh
đạo cho Đảng (cộng sản) và tạo ra một nền dân chủ của xã hội đều được giải
quyết một cách trọn vẹn, và do đó, nước ta sẽ sớm thực hiện được mục tiêu “dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, hội nhập vào quốc tế.”
Giáo sư Tiến sĩ Phan Đình Diệu giỏi về toán học, ông là người khảng khái, chính
trực, nhưng chưa chắc ông đã giỏi về chính trị học. Bài toán khó khăn của Đất
nước mà Tiến sĩ giải cách này, chúng tôi tin chắc rằng “đáp số” sẽ làm ông thất
vọng nặng nề!
Nhân
tiện, cũng xin nói thêm điều này: hiện nay ở Việt Nam, có những nhân sĩ, trí
thức... đề nghị đổi tên ĐCSVN thành Đảng Lao động Việt Nam, đổi tên nước
CHXHCNVN thành Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, tưởng như vậy thì tình hình VN sẽ
thay đổi hẳn, mọi sự sẽ tốt lên. Về chuyện đổi tên, kẻ viết bài này có học được
một bài học rất thấm thía do Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh dạy cho. Xin chia sẻ
cùng các bạn: Năm 1950, chúng tôi được triệu tập đến căn cứ địa của Trung Ương
để tham dự cuộc họp chuẩn bị cho việc đổi tên ĐCS tại Đại hội Đảng năm 1951. Cụ
Hồ bước lên bục giảng giải đáp thắc mắc cho khoảng ba trăm cán bộ cao cấp và
trung cấp đến họp. Cụ mở nắp hộp thuốc lá thơm của cụ nhãn hiệu CRAVEN A. Giơ
cao nắp hộp phía có chữ CRAVEN A lên trước mặt chúng tôi, cụ lớn tiếng nói:
“Đây là ĐCS”, rồi cụ xoay nắp hộp mặt trái phía trong không có chữ, đưa lên và
nói tiếp: “Đây là Đảng Lao động”. Rồi cụ thủng thẳng hỏi: “Đã rõ chưa? Có khác
nhau gì không?” Cả hội trường ầm vang tiếng đáp: “Rõ rồi ạ! Dạ, không khác nhau
gì cả!”.
Đúng
là bài học nhớ đời! Dưới thời ĐLĐVN cũng như dưới thời ĐCSVN, dưới thời VNDCCH
cũng như dưới thời CHXHCNVN, mọi tầng lớp nhân dân đều phải chịu biết bao thảm
kịch! Lẽ nào các nhà trí thức, các nhân sĩ và toàn dân ta không thấy hay sao?
Cần
có một tư duy đúng
Chúng
tôi đánh giá cao tâm nguyện của Luật gia Lê Hiếu Đằng và nhà báo Hồ Ngọc Nhuận,
khi hai ông kêu gọi các đảng viên cộng sản hãy “tuyên bố tập thể ra khỏi Ðảng
và thành lập một Ðảng mới”, Đảng Xã hội-Dân chủ. Lời kêu gọi xây dựng một chế
độ dân chủ đa đảng, đa nguyên và kêu gọi thành lập một Đảng Xã hội-dân chủ đáng
trân trọng. Có người còn cho đó là “bản tuyên ngôn về con đường nhất thiết phải
đi...” mặc dù đó chỉ là một lời kêu gọi thôi, không có cương lĩnh, mục tiêu,
chương trình gì cụ thể cả.
Thật
ra, lời kêu gọi đó của hai ông không có gì mới. Khi nói đến “tuyên ngôn”, thiết
tưởng cần phải nhắc lại để mọi người nhớ: Cách đây trên 7 năm, lần đầu tiên
trong lịch sử phong trào dân chủ nước ta, đã từng có một bản tuyên ngôn của 118
công dân ở trong nước (xin nhấn mạnh ba chữ ở trong nước) khao khát tự do dân
chủ được công bố công khai ngày 08.04.2006. Đó là “Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho
Việt Nam 2006” (còn gọi là Tuyên ngôn 8406). Tuyên ngôn đó đã nói rất rõ ràng
và mạnh mẽ về mục tiêu đấu tranh cho một chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng, mục
tiêu đấu tranh cho mọi quyền tự do, dân chủ. Tuyên ngôn đó, được trên
5000 người Việt Nam trong và ngoài nước công khai ký tên, và được 140 chính
khách quốc tế bảo trợ, trong đó có cố Tổng thống Vaclav Havel.
Tuyên
ngôn 8406 vạch rõ rằng, sau khi cướp được chính quyền, ĐCS đã thủ tiêu quyền
dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam, đã chà đạp thô bạo tất cả những quyền
thiêng liêng về tự do, dân chủ, cũng như quyền được sống yên bình và mưu cầu
hạnh phúc. Tuyên ngôn 8406 nhận định rằng, vì “lấy chủ nghĩa
Mác-Ăng-ghen-Lênin-Xtalin và tư tưởng Mao Trạch Đông, kết hợp với thực tiễn
Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng”
nên ĐCS đưa “bóng ma của chủ nghĩa cộng sản đã luôn đè ám lên đầu, lên cổ
toàn Dân Việt Nam”, ... “đã triệt tiêu hầu hết những quyền con người của
Nhân dân Việt Nam. Và hôm nay, nó vẫn đang tạm đô hộ, chiếm đóng lên cả hai mặt
tinh thần và thể chất của toàn Dân tộc Việt Nam”. Tuyên ngôn 8406 nói rõ “Mục
tiêu cao nhất trong cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ cho Dân tộc hôm nay là
làm cho thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay phải bị thay thế triệt để,
chứ không phải được “đổi mới” từng phần hay điều chỉnh vặt vãnh như đang xảy
ra. Cụ thể là phải chuyển từ thể chế chính trị nhất nguyên, độc đảng, không có
cạnh tranh trên chính trường hiện nay, sang thể chế chính trị đa nguyên,
đa đảng, có cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với những đòi hỏi chính đáng của Đất
nước, trong đó hệ thống tam quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp phải được
phân lập rõ ràng, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và trải nghiệm của
Nhân loại qua những nền dân chủ đắt giá và đầy thành tựu.” Còn “Mục tiêu
cụ thể là thiết lập lại các quyền cơ bản của toàn Dân sau
đây: Quyền Tự do Thông tin Ngôn luận...”, “Quyền Tự do hội họp, lập hội,
lập đảng, bầu cử và ứng cử...”, “Quyền Tự do hoạt động Công đoàn độc lập
và Quyền Đình công chính đáng...”, “Quyền Tự do Tôn giáo...”.
Tuyên ngôn 8406 tuyên bố rõ ràng “Phương pháp của cuộc đấu tranh này là hòa
bình, bất bạo động...” (các chữ in đậm trong các ngoặc kép là theo đúng
nguyên bản).
Chúng
tôi nghĩ rằng Tuyên ngôn 8406 này rất xứng đáng làm bảng chỉ đường cho phong
trào đấu tranh giành Tự do, Dân chủ ở nước ta. Chính vì đấu tranh cho một Cương
lĩnh đúng đắn như vậy, nên đến nay dù bị khủng bố rất ác liệt, hàng trăm chiến
sĩ dân chủ của Khối 8406 đã bị truy bức, sách nhiễu, đàn áp hết sức tàn bạo, bị
tống vào tù ngục CS, bị quản chế tại nhà, nhưng phong trào dân chủ vẫn được duy
trì và ngày càng phát triển. Cho đến nay đã có 190 thành viên của Khối 8406 là
nạn nhân của sự đàn áp như vậy, trong số đó 65 chiến sĩ dân chủ bị lãnh án tù
giam từ 7 năm trở lên! Rất nhiều chiến sĩ của Khối 8406 đã nêu gương đấu tranh
kiên cường trong nhà tù. Chúng tôi không thể nêu hết tên của họ, vì sợ chiếm
nhiều chỗ trong bài.
Cũng
cần nói thêm, Khối 8406 còn đề ra “Cương lĩnh Khối 8406” và công bố “Tiến trình
Dân chủ hóa Việt Nam gồm 4 giai đoạn & 8 bước”. Khối 8406 đã phát hành tờ
bán nguyệt san “Tự Do Ngôn Luận”, vừa là báo mạng vừa là báo giấy có 32
trang A4 để vận động cho tự do dân chủ, chống chế độ độc tài toàn trị. Từ ngày
15.04.2006 đến ngày 01.09.2013, bán nguyệt san không xin phép này đã ra được
178 số. Khối 8406 còn thường xuyên ra những lời tuyên bố, những lời kêu gọi,
những nhận định, những kháng thư... để hướng dẫn dư luận, phản đối nhà cầm
quyền và động viên đại chúng đấu tranh.
Chúng
tôi nghĩ rằng cần phải nói những điều này để mọi người nhìn thấy rõ những thành
tựu đã có, không vì những hiện tượng mới bộc phát mà che lấp những thành tựu đã
thực hiện được bằng nỗ lực, bằng xương máu, nước mắt và mồ hôi của hàng trăm,
hàng nghìn người!
Khi
đọc kỹ những bài viết và bài nói (trả lời phỏng vấn) của Luật gia Lê Hiếu Đằng
và nhà báo Hồ Ngọc Nhuận, chúng tôi không thể không nói đến tính hời hợt, thô
thiển, chưa chín chắn của những lập luận của hai ông.
Nhiều
người có nhận xét về điều ông Lê Hiếu Đằng đã cho biết: “Nằm trong bệnh viện...
tôi đã suy nghĩ, đọc một số bài báo rồi các nhà văn, nhất là những nhà văn quân
đội như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu” rồi ông mới “thấy sự bi thảm của thân
phận con người trong cái gọi là CNXH ở miền Bắc, một xã hội không có bóng
người”, ông chuyển biến tư tưởng và hạ bút viết bài “Suy nghĩ trong những
ngày nằm bịnh”. Người đọc có thể nghĩ rằng sự hiểu biết của ông Lê Hiếu
Đằng như thế là chưa sâu sắc. Nhưng dẫu sao tôi cũng mong rằng nhận thức của
ông Đằng còn chín chắn hơn nhiều so với cái “hiểu loáng thoáng” của ông
Nguyễn Tất Thành1 hồi năm 1920, khi ông này nhảy từ Đảng Xã hội Pháp
sang Quốc tế III; mà vì cú nhảy đó Đất nước và Dân tộc Việt Nam đã và đang chịu
biết bao tai họa! Chuyện ông Lê Hiếu Đằng chuyển từ ĐCS sang cổ động cho Đảng
Xã hội-Dân chủ làm ta nhớ đến “cú nhích chân” (cụm từ của Tiến sĩ Hà Sĩ
Phu) của ông Nguyễn Tất Thành mà Tiến sĩ đã nhắc đến trong bài “Xưa nhích
chân đi, giờ nhích chân lại” bước từ Đảng Xã hội Pháp sang Quốc tế III của
Lenin, chỉ vì ông Nguyễn Tất Thành thấy “Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến
vấn đề thuộc địa”2, ...“Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì,
chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản là gì thì tôi (tức Nguyễn Tất Thành)
chưa hiểu”3. Thậm chí “Sơ thảo luận cương về các dân tộc và
thuộc địa” của Lenin đăng trên báo L’Humanité ngày 16-6-1920 thì “ngay cả
chữ nghĩa trong văn bản” ấy ông Nguyễn Tất Thành “cũng chỉ hiểu loáng
thoáng thôi”4.
Về
vấn đề thành lập đảng đối lập, ông Bằng Phong Đặng Văn Âu đã viết chí lý trong
bài “Căn bệnh khủng hoảng trí tuệ”: “...Là luật gia, là nhà hoạt động
chính trị, ông Đằng nói đến thành lập đảng đối lập với chính quyền cộng sản có
vẻ rất tài tử, khơi khơi. Ít nhất ông phải phác họa vắn tắt về cái chủ trương,
đường lối (của đảng ấy) như thế nào để người đọc biết ý ông ra sao.”
Hai
ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận nên xem lại mình có ngây thơ không, khi nói
rằng: “Chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng, chứ chưa
có một văn bản nào cấm điều này? Mà nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp
không cấm chúng ta đều có quyền làm. Đó là quyền công dân chính đáng của chúng
ta.” Các ông quên rằng hai ông cũng như toàn dân nước ta đang sống dưới chế độ
độc tài toàn trị của ĐCSVN hay sao? Xưa nay có bao giờ ĐCS coi trọng luật pháp,
coi trọng nguyên tắc pháp lý đâu, tất cả những thứ đó trong mắt đám cầm
quyền CS chỉ là những quan niệm tư sản về pháp quyền phải vứt bỏ. Ngoài miệng
họ vẫn nói “thượng tôn pháp luật”, nhưng đó là thứ “pháp luật phi pháp” của họ
thôi mà họ bắt người dân phải theo! Thực ra họ có coi pháp luật ra cái gì đâu?
Thế thì mấy chữ của ông Lê Hiếu Đằng “Cần cho lập thêm các đảng đối lập với
Đảng Cộng sản Việt Nam” có nghĩa lý gì với họ?
Thành
thật mà nói, đọc những điều hai ông nói và viết về dân chủ đa đảng và về Đảng
Xã hội-Dân chủ, chúng tôi thấy rằng nhận thức của hai ông còn... – xin đừng
giận vì lời nói thẳng – thô thiển và mơ hồ. Về vấn đề này, chúng tôi hoàn
toàn đồng tình với nhà báo Ngô Nhân Dụng, viết trong bài “Ông Hồ Ngọc Nhuận
cần đổi cách suy nghĩ”. Ông Ngô Nhân Dụng có lời khuyên rất chí lý:
“Trong lúc tranh đấu để thiết lập một xã hội dân chủ tự do chúng ta cần sống
theo lối tự do dân chủ”. Chúng xin nói thêm: Mà muốn sống theo lối tự do dân
chủ thì phải hiểu thấu đáo xã hội dân chủ tự do đích thực nó phải như thế nào?
Cũng
như khi kêu gọi thành lập Đảng Xã hội-dân chủ thì phải hiểu thấu đáo về chủ
nghĩa xã hội-dân chủ, về lịch sử của phong trào xã hội-dân chủ thế giới, về mục
tiêu của chủ nghĩa đó qua các thời kỳ lịch sử cũng như về cương lĩnh của Đảng
Xã hội-dân chủ, phải nói rõ sự khác biệt to lớn của mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội-dân chủ so với chủ nghĩa xã hội-chuyên chính vô sản, tức là chủ nghĩa xã
hội-độc tài của những người cộng sản. Đáng tiếc là hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ
Ngọc Nhuận đã không làm được điều đó. Có chỗ ông Lê Hiếu Đằng lại viết ông muốn
“thành lập một đảng mới, chẳng hạn như đảng Dân chủ-Xã hội”. Người đọc cảm thấy
dường như ông chưa chắc chắn lắm, hoặc chưa quyết định dứt khoát. Thế thì làm
sao người ta có thể đáp ứng lời kêu gọi của ông?
Tôi
ngạc nhiên khi nghe Luật gia Lê Hiếu Đằng trả lời phóng viên RFI, ông nói rằng
ông “phân tích theo quan điểm Mác-Lênin thôi”, dựa theo những điều ông đã “học
abc của chủ nghĩa Mác-Lênin” thì ông thấy chế độ độc đảng là “vô lý, cái
này nó phản lại (ý nói chủ nghĩa Mác-Lênin)”. Như vậy là ông không biết rằng
cái gọi là “chủ nghĩa Mác-Lênin” của Lenin và Stalin bao giờ cũng chủ trương
độc đảng, tức là chỉ một mình đảng cộng sản độc tôn thống trị, cái đó Lenin gọi
là “hegemonia” (Nhà xuất bản Sự Thật dịch là độc quyền lãnh đạo) của ĐCS. Chính
cái đó mới đẻ ra chế độ độc tài toàn trị CS với nguyên tắc “chuyên chính vô
sản” – đó là nguyên nhân của mọi tai họa của Đất nước và Dân tộc VN ta! Thế mà
ông Lê Hiếu Đằng lại cho chế độ độc đảng là “vô lý, cái này nó phản lại” chủ
nghĩa Mác-Lênin!
Tôi
giật mình khi thấy ông nói rằng: “Trong cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công
tội” ông đại tá nói thời kỳ Mao già rồi cũng nghiêng về khuynh hướng dân
chủ xã hội của Đệ Nhị Quốc tế, rồi bản thân ông cũng đề nghị như vậy”! Có thể
nào một người đang kêu gọi thành lập Đảng Xã hội-Dân chủ lại có thể mơ hồ đến
thế về tên độc tài CS đẵm máu nhất nhì thế giới của thế kỷ 20?
Hai
ông Lê Hiếu Đằng và Hồ Ngọc Nhuận kêu gọi các đảng viên cộng sản ra khỏi Đảng
để thành lập Đảng Xã hội-Dân chủ đối lập với ĐCS. Có lẽ hai ông chưa nghĩ sâu
rằng: nếu một Đảng Xã hội-Dân chủ chỉ gồm rặt những đảng viên cộng sản cũ thì
cái Đảng Xã hội-Dân chủ đó có thể bảo đảm thực hiện đúng tinh thần và thực chất
của chủ nghĩa xã hội-dân chủ đích thực hay không? Hay một thời gian nào đó,
đảng ấy sẽ mất đi tính đối lập mà quay trở lại thỏa hiệp với đảng cầm quyền?
Một Đảng Xã hội-Dân chủ kiểu đó có khả năng thâm nhập được vào đại chúng không?
Hay nó chỉ tự đóng mình trong câu lạc bộ “các cụ lão thành cựu đảng viên CS”?
Vì sao hai ông không đặt vấn để rộng rãi hơn, không kêu gọi các tầng lớp khác,
thanh niên, công nhân, lao động, trí thức, nông dân, doanh nhân, trại chủ cùng
tham gia Đảng Xã hội-Dân chủ? Chính những lớp người này không bị những nếp nghĩ
theo lối CS hằn sâu trong óc, không bị nhiễm sâu trong máu những tư tưởng,
phong cách CS mới có khả năng tiếp thụ chủ nghĩa xã hội-dân chủ đích thực, mới
có khả năng cạnh tranh với ĐCS và ít khuynh hướng thỏa hiệp với ĐCS. Cạnh tranh
thật sự với ĐCS, đối lập chính trị thật sự với ĐCS thì mới có hy vọng thay đổi
chính quyền qua các cuộc bầu cử tự do, chứ nếu cứ nghĩ rằng “cùng hợp tác (với
ĐCS) để thúc đẩy xây dựng dân chủ cho nước Việt Nam” thì e rằng chẳng mấy chốc
Đảng Xã hội-Dân chủ chỉ gồm các cựu đảng viên CS sẽ trở thành “cái đuôi” của
ĐCS!
Dù
chúng tôi có nhiều thiện cảm với chủ nghĩa xã hội-dân chủ, nhưng để đấu tranh
với ĐCS, chúng tôi nghĩ rằng không nhất thiết đảng đối lập phải là (hoặc chỉ
là) Đảng Xã hội-Dân chủ mà còn cần đến nhiều đảng khác nữa, nhiều tổ chức,
nhiều phong trào, nhiều diễn đàn, nhiều mặt trận, nhiều liên minh, ngay cả
nhiều hội đoàn có hay không có tính chính trị nữa. Mỗi đảng, mỗi tổ chức đại
biểu cho một lớp người có ý hướng, có quyền lợi, có mục tiêu, có sở thích...
giống nhau, tất cả những cái đó hình thành một xã hội dân sự mạnh mẽ mới có khả
năng đối lập với ĐCS và chính quyền CS.
Dù
rằng trong nhận thức, quan niệm hoặc cách diễn đạt hai ông Lê Hiếu Đằng và Hồ
Ngọc Nhuận còn có chỗ bất cập, thiếu sót, nhưng hai ông đã can đảm gióng lên
tiếng nói chính nghĩa trong lúc nhiều người còn mê ngủ. Điều đó thật đáng hoan
nghênh.
Nguyễn
Minh Cần, ngày 01/09/2013
*Nội
dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA
_____
1.
Người viết cố ý không dùng tên Nguyễn Ái Quốc, vì đó là một bút danh tập thể
của một nhóm người mà ông Nguyễn Tất Thành đã chiếm làm của riêng.
2.
Trích từ sách “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của
Trần Dân Tiên.
3.
Trích từ bài “Con đường dẫn tôi tới chủ nghĩa Lenin” của Hồ Chí Minh.
4.
Lời của Hồ Chí Minh được nhắc lại trong bài “Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí
Minh” của Lữ Phương.
No comments:
Post a Comment