12:13:am 19/10/13
Hồi
ký Lê Ngọc Danh
Chết để làm gì ? Ai nói câu đó ? Thiếu tướng Nguyễn
Khoa Nam. Ai nghe được ? Trung úy tùy viên Lê Ngọc Danh. Ghi nhận ở đâu ?
Trong tác phẩm Nguyễn Khoa Nam của gia tộc Nguyễn Khoa. Người nói như vậy có
phải đang hoảng loạn tâm thần hay không ? Không hề. Lúc đó tướng quân Nguyễn
Khoa Nam hết sức sáng suốt, bình tĩnh và dũng cảm.
Nhắc lại Chết để làm gì như vậy có phải là sỉ
nhục một danh tướng VNCH không ? Tầm bậy. Lê ngọc Danh viết lại với tấm lòng
tôn kính ông thầy. Dòng họ Nguyễn Khoa in trong sách với niềm hãnh diện chia xẻ
với toàn quân. Tôi viết lại nguyên văn vì chợt bắt được linh hồn của chữ nghĩa.
Các bạn chê bai là chưa tỏ ngọn ngành. Nhưng cũng nhờ những phê phán loạng
quạng tôi có dịp giảng giải nguồn cơn. Thực vậy, các bạn thắc mắc loạn ngôn
nhưng tôi phải cảm ơn, chính vì các bạn mà tôi viết lại đầu đuôi câu chuyện
này.
Di ngôn
tự vấn
Từ nhiều năm trước, tôi đọc hồi ký Lê Ngọc Danh,
chợt đến những đoạn nghe đối thoại của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tôi lặng
người. Tôi suy tư về tư duy của con người đã nói lên những lời bất hủ đó. Khi
tùy viên báo tin tướng Minh đầu hàng. Ông nói: Qua biết rồi. Khi
báo cáo các sĩ quan thân cận di tản. Ông nói: Đi làm gì. Khi được
thương binh yêu cầu: Thiếu tướng đừng bỏ tụi em. Ông nói: Không! Qua
không bỏ tụi em. Khi báo cáo phó tướng tự tử. Ông nói: Chết để
làm gì. Những lời ông nói lúc đó không phải dành cho thủ hạ. Không phải
dành cho chúng ta. Tướng Nguyễn Khoa Nam nói cho chính ông. Ông tự hỏi và tự đi
tìm câu trả lời. Bây giờ 38 năm sau, xin các bạn cùng tôi tìm hiểu. Tôi phải
viết lại câu chuyện từ đầu như sau.
Những
lời cuối cho miền Nam
Lịch sử ghi rằng. 1954 Geneve chia đôi đất nước. Đất
nước trở thành 2 miền Nam Bắc. Trải qua 21 năm đấu tranh chính trị rồi chiến
tranh thực sự. Tháng 4 năm 1975 Bắc quân tràn ngập các quân khu 1,2 và 3. Quân
khu 4 của tướng Nguyễn Khoa Nam với 3 sư đoàn, 18 tiểu khu và 200 ngàn quân vẫn
còn yên tĩnh. Tổng thống và thủ tướng cùng bàn giao và ra đi. Đại tướng tổng
tham mưu trưởng cũng ra đi. Trung tướng quyền tổng tham mưu trưởng điện thoại
cho tướng Nam yêu cầu chuẩn bị đón chính phủ và bộ tổng tham mưu tái phối trí
về miền Tây. Tướng Nam điện thoại cho tư lệnh sư đoàn 9 đưa trung đoàn Long An
chuẩn bị lên đường. Liền sau đó lệnh hủy bỏ. Vị tổng thống dân sự chưa nhậm
chức được 1 tuần đã chuẩn bị bàn giao cho vị đại tướng cuối cùng.
Chiều 29 tháng 4- 1975 thiếu tướng Phạm văn Phú quê Hà Đông,
47 tuổi uống thuốc độc tự tử tại nhà, tự nhận trách nhiệm làm mất vùng 2. Chở
vào nhà thương Grall cấp cứu. Ông qua đời sáng 30 tháng 4, trước khi có lệnh
đầu hàng. Trưa 30 tháng 4 đại tướng Dương văn Minh ra lệnh buông súng trên
radio Sài gòn. Tại Cần thơ, trung úy Lê ngọc Danh bước vào phòng tư lệnh quân
đoàn 4 báo cáo chưa hết lời, tướng Nguyễn Khoa Nam ngồi coi giấy tờ, ngước lên
nói: Qua biết rồi. Trung
tá cảnh sát Nguyễn văn Long sinh trưởng tại Huế, 56 tuổi, nghe tin
radio đã tự sát bằng súng lục tại công viên giữa thành phố Sài Gòn. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ,
quê Sơn Tây, 42 tuổi, bình tĩnh ngồi ăn 3 bát cơm với các sĩ quan rồi rút vào
phòng tự tử bằng súng tại bộ tư lệnh Lai Khê.
Từ căn cứ Đồng Tâm nghe tin đầu hàng, chuẩn tướng Trần văn Hai,
quê Gò Công, 50 tuổi, tư lệnh sư đoàn 7, điện thoại qua Mỹ Tho từ giã tướng
Huỳnh văn Lạc tư lệnh sư đoàn 9 bộ binh. Sau đó ông Hai uống thuốc độc tự tử.
Trở lại Cần Thơ, tùy viên lại vào phòng tư lệnh báo
cáo các sĩ quan quân đoàn bắt đầu di tản. Tư lệnh Nguyễn Khoa Nam vẫn
ngồi ở bàn giấy, nhìn lên nói. Đi để làm gì. Ông tự hỏi nhưng đã tự tìm
thấy câu trả lời. Ông quay sang chỉ thị cho tùy viên chuẩn bị xe. Lúc đó là
chiều 30 tháng 4. Sài Gòn đang náo loạn. Những chiếc trực thăng cuối cùng của
Hoa Kỳ đã rời tòa đại sứ từ sáng sớm. Bến Bạch Đằng vắng lặng vì toàn thể
hạm đội VNCH đã ra khơi đêm qua. Đoàn tầu quân vận của chúng tôi đi sau hải
quân nhưng chưa ra khỏi cửa sông đã nghe lệnh đầu hàng. Trong khi đó, tại miền
Tây, tướng Nam, tưởng chừng một ngày như mọi ngày, đi thăm thương binh tại quân
y viện Phan thanh Giản giữa 1 thị xã Cần thơ vắng lặng. Thương binh ngóc đầu
nói với vị tư lệnh: Thiếu tướng đừng bỏ tụi em. Tư lệnh nói: Không, Qua
không bỏ tụi em. Bước ra cửa bệnh viện, tùy viên thấy tư lệnh chùi
nước mắt. Trở về tư dinh, tư lệnh vẫn mặc quân phục thắp hương lễ Phật.
Hai lần phái đoàn cộng sản vào gặp tư lệnh rồi lại
đi ra. Tối 30 tháng 4 tùy viên Lê ngọc Danh qua nhà tướng tư lệnh phó Lê văn
Hưng. Nghe tiếng súng nổ. Chuẩn
tướng Lê văn Hưng quê Gia Định, 42 tuổi, đã vào phòng riêng tự sát.
Trở về báo cáo. Vị tư lệnh quân đoàn nói. Chết để làm gì.
Ông nói với tùy viên, nhưng thực sự là tự hỏi mình. Tùy viên kể lại, ông
vẫn mặc quân phục nằm suốt đêm 30 tháng 4. Đèn vẫn sáng trên bàn thờ Phật .
Buổi sáng sớm 1 tháng 5-1975 ở Cần thơ, thành phố vẫn vắng lặng. Ba thầy trò
đứng nhìn xuống đường. Tư lệnh đứng giữa, hai tùy viên 2 bên. Tư lệnh chợt bật khóc. Hai anh
trung úy trẻ tuổi cũng khóc theo. Giọt nước mắt của những chiến sĩ khóc cho cả
1 đạo quân. Dường như có máu trong nước mắt đàn ông. Quay vào tư lệnh
bình tĩnh giao 2 va ly cho 2 anh sỹ quan. Các anh vừa ra khỏi phòng, ông
lấy súng bắn vào đầu tự tử. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, sinh quán Thừa Thiên, năm đó 48
tuổi. Tiếng chuông thỉnh Phật lần cuối dường như vẫn còn vang vọng trong không
gian với khói hương nghi ngút. Tướng Nguyễn Khoa
Nam đã sống 1 ngày 30 tháng 4 dài nhất của đời lính.
Ông đã tự tìm thấy các câu trả lời. Đi để làm gì.
Ông không đi. Chết để làm gì. Ông biết ông chết để làm gì. Rất sáng suốt và
bình tĩnh. Ông chọn cái chết. Ông là mặt trời chói lọi của tháng 4 năm 1975.
Chết
để làm gì. Đó chính là di ngôn tự vấn.
Suy luận
cổ Kim
Sau cùng tướng Nguyễn Khoa Nam đã để lại di ngôn
bằng 1 câu hỏi. Ông đưa ra 1 bài toán và ông đưa ra lời giải đáp.
Ngày xưa ở trong Nam năm 1867 tại Cần thơ, cụ Phan thanh Giản
không giữ được 3 tỉnh miền Tây cũng đã tự tử. Ngài cũng biết chết để làm
gì. Ngoài Bắc, Nguyễn
Tri Phương 1873 rồi đến Hoàng Diệu 1882 cũng không giữ được thành Hà
Nội nên đã tự tử. Các ngài đã biết là chết để làm gì.
Con người ta thường hỏi là chết rồi sẽ đi đâu. Không
ai hỏi là chết để làm gì. Chỉ có những người tự quyết định tính mạng của mình
mới có thể đặt câu hỏi chết để làm gì.
Trong đoạn cuối của chiến tranh Việt Nam, người
chiến binh thường không có cơ hội lựa chọn. Cộng sản ào đến biển người hô
lớn. Hàng sống, chống chết. Sự lựa chọn không có suy nghĩ. Giơ tay lên sống,
không giơ tay lên bị bắn.
Đại tá Hồ ngọc Cẩn là công giáo nên không tự sát. Ông không giơ tay
đầu hàng nên bị xử bắn sau khi bị hành hạ suốt 4 tháng dài. Ông không đầu
hàng có nghĩa là đã chọn con đường chết. Ông
tự sát trong phiên tòa cộng sản. Ông tự sát bằng những viên đạn thù xử bắn.
Trên bảng vinh danh anh hùng tuẫn tiết, chúng tôi ghi nhận 7
người chiến sĩ. Sự lựa chọn không
trong tầm tay anh chị em xây dựng dự án. Toàn thể hải ngoại đã công nhận trong
38 năm qua. Có tên tuổi, hình ảnh, có tiểu sử và chiến tích. Có nhân chứng cho
tới giờ phút cuối cùng. Sau cùng tất cả đều là lính Việt Nam Cộng Hòa. Khi nhập
ngũ họ đều là lính. Cấp bậc chỉ là hình thức trong binh đoàn. Họ đã sống như
người lính và tuẫn tiết như những người lính có trách nhiệm. Bây giờ nói đến
chuyện trả lời câu hỏi Đi để làm gì. Trong anh em chúng ta dù ở lại hay
ra đi, nếu có cơ hội lựa chọn lấy quyết định cũng là 1 thái độ mà phê phán suốt
cả cuộc đời chưa hết chuyện. Bây giờ ở hải ngoại này dường như ai cũng đã ra
đi. Kẻ trước người sau. Tất cả đều phải trả lời cho tướng Nam câu hỏi. Đi
để làm gì? Nếu ngày xưa 30 tháng 4-1975 ông Nam đưa ra câu hỏi: Chết
để làm gì ? thì ngày 2 tháng 1-1961 khi Kennedy lên làm
tổng thống, ông cũng đã có câu trả lời cho vấn nạn sống để làm gì. Đừng
hỏi đất nước này đã làm gì cho anh, hãy tự hỏi anh đã làm gì cho đất
nước. Câu nói đó của Kennedy đã được khắc trên bia đá tại nhiều nơi
trên nước Mỹ. Cũng theo danh ngôn này, người ta đã dùng để tu thân suốt
cả cuộc đời. Xin đừng đòi hỏi người khác phải làm cái này, cái nọ; hãy tự hỏi mình xem đã làm được
gì cho bản thân, cho gia đình, cho cộng đồng, cho đất nước tạm dung và cho quê
hương bỏ lại. Lịch sử luôn luôn ở bên những người hành động. Lịch sử không có
chỗ cho các bạn ngồi phê phán. Có ý kiến hay, xin bạn đứng lên làm lịch sử.
Bài diễn
văn lịch sử
Nhân nói đến chuyện khắc các di ngôn trên bia đá,
xin kể các bạn câu chuyện dành cho phần kết. Năm 1863, trận chiến kinh hoàng
nhất của chiến tranh Nam Bắc Hoa Kỳ xảy ra tại vùng Gettysburg thuộc
Pennsylvania giữa binh đoàn Potomac Liên bang Union và binh đoàn Bắc VA của phe
Liên hiệp Confederate. Đây là trận quyết định với chiến thắng về phe liên
bang. Chiến trường đẫm máu với 51,000 thương vong, trong số này có 7,500 binh
sĩ cả hai bên chết vì gươm giáo còn để xác tại chỗ. Trải qua nhiều ngày, các
xác chết 2 bên đã bốc mùi nên dân ở thị xã nhỏ bé Gettysburg có vài ngàn người
phải ngày đêm lo chôn cất. Một nghĩa trang 17 mẫu được thành lập. Ban tổ
chức làm lễ tưởng niệm vào ngày 19 tháng 11 năm 1893. Diễn giả chính là 1 nhân
vật danh tiếng từng là thượng nghị sĩ, thống đốc và viện trưởng Harvard. Khách
mời có tổng thống Lincoln dự trù sẽ nói vài lời trước khi chấm dứt.
Sau khi ông diễn giả chính nói chuyện 2 giờ đồng hồ,
tổng thống Lincoln đọc bài phụ diễn chưa đến 3 phút gồm có 272 chữ trong 10
câu. Bắt đầu bằng câu:
81
năm trước, ông cha ta đã tạo dựng trên lục địa này 1 quốc gia mới, thai nghén
trong tự do.
Câu cuối cùng là: Một chính quyền của dân, do dân
và vì dân sẽ không thể tàn lụi trên trái đất này.
15 ngàn người gồm các thống đốc và chính khách có
mặt. Tất cả đã sững sờ nghe trực tiếp bài diễn văn bất hủ. Đây là những lời nói
khuôn vàng thước ngọc và trở thành bài diễn văn nổi tiếng kim cổ trên toàn cầu.
Đặc biệt bài diễn văn này tuyệt đối không đề cập đến chiến thắng hay chiến bại.
Không nói đến bạn hay thù. Tổng thống nói: Những người nằm xuống ở đây đều đã
chết cho tổ quốc.
Người ta khắc bài diễn văn trên đá tại các thư viện,
tại các trường đại học và tại nhà mồ của ông Lincoln ở Springfield, Illinois.
Đó là lý do chúng tôi muốn có cơ hội khắc trên bia
đá những lời của tướng Nguyễn Khoa Nam. Những lời nói ngắn ngủi của ông phản
ảnh triết lý sống và chết của con người. Ra đi hay ở lại. Câu hỏi của cả nhân
loại trên con đường tìm đất sống, tìm tự do. Con đường mưu cầu hạnh phúc. Sống
để làm gì, và chết để làm gì.
Lời Chúa và lời Phật nói ra cũng phải có người chiêm
nghiệm và giải thích. Phải viết thành Kinh Thánh hay Kinh Phật để truyền bá và
học hỏi.
Đi hay ở. Tại sao. Đi để làm gì.
Sống hay chết. Sống để làm gì và chết để làm gì.
Tôi không biết rằng có thuyết phục được ban tượng
đài khắc lời của tướng Nguyễn Khoa Nam thành câu chuyện Anh Việt ở phía sau bức
tường hay không. Nhưng câu chuyện và lời nói của ông đã khắc sâu trong tim tôi.
Mãi mãi, chẳng bao giờ ai lấy ra được. Đi để làm gì, tôi đã có câu trả lời bằng
nửa cuộc đời. Chết để làm gì . Tôi chưa biết.
© Giao Chỉ San Jose
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment