Mai Xương Ngọc dịch
October 11, 2013
Việc hủy bỏ chuyến thăm của
Tổng thống Obama đến tham dự ASEAN và Hội nghị Cấp cao APEC tuần tới đã làm xôn
xao mạng Internet với các cuộc thảo luận rằng việc này có thể có ý nghĩa gì đối
với vai trò của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương. Tuy nhiên, phản ứng ban đầu không
nhất thiết đã là tốt. Tổng thống Obama đã từng hủy bỏ chuyến đi đến Indonesia
và Úc ba lần trong giai đoạn 2009 – 2010. Sự chú ý đến ngoại giao cá nhân của
chính quyền Bush ở Đông Nam Á cũng tương tự như vậy.
Phillipines và Việt Nam đều là
vật hy sinh cho lợi ích lớn hơn của ASEAN ? (Ảnh: Internet)
Tuy nhiên, trong khu vực, ít
nhất thì mọi chuyện được bỏ qua khi xuất hiện chiến lược “Xoay trục sang châu
Á” của Mỹ.
Bản chất của sự xoay trục là
một vấn đề. Về mặt quân đội thì thiếu nguồn lực, còn yếu tố kinh tế – hiệp định
đối tác thương mại tự do xuyên Thái Bình Dương – lại bị phức tạp hóa bởi một
cuộc họp kín của Đảng dân chủ trong Hạ viện, nơi đa phần và hiển nhiên theo
đuổi chủ nghĩa bảo hộ. Việc này đang bắt đầu lắng chìm dần trong khu vực. Tuy
nhiên, sự hấp dẫn của câu chuyện xoay trục vẫn chứng tỏ mức độ sôi nổi một cách
đáng kể.
Nếu kế hoạch xoay trục dự báo
một cuộc hủy bỏ quan trọng khác – điều này gần như chắc chắn sẽ xảy ra – người
ta sẽ đặt câu hỏi tại sao. Lý do là vì Đông Nam Á cần Mỹ. Có thể gọi đó là một
hợp đồng bảo hiểm hoặc chính sách cân bằng hoặc bảo đảm rủi ro thấp, hay bất cứ
điều gì bạn muốn, ASEAN không muốn bị bỏ lại một mình với Trung Quốc. Cũng
không có sự liên kết nào với các nước bên ngoài khác khiến họ được yên lòng như
sự hiện diện của Mỹ.
Khi Ngoại trưởng Mỹ John Kerry
thay thế vị Tổng thống để chuẩn bị tham dự cuộc họp tuần tới với các nhà lãnh
đạo ASEAN, ông ta sẽ phải cảm nhận hoàn toàn ý nghĩa của điều này. Mỹ nắm giữ
một lập trường vững mạnh, đặc biệt là về vấn đề đang gây tranh chấp mà lại sát
với lợi ích của Mỹ nhất – Biển Đông.
Ông ta cũng nên nhìn lại một
góc lịch sử dường như không có liên quan gì của ASEAN để hiểu những gì đang
thực sự xảy ra ở đây trên vấn đề này.
Trong những năm 1980, Campuchia
là một trong những chiến trường vĩ đại và bi thảm nhất của Chiến tranh lạnh.
Với sự hỗ trợ của Liên Xô, cộng sản Việt Nam xâm chiếm vào năm 1978. Hành động
này đã loại bỏ một trong những tai họa lớn của nhân loại, chế độ Khmer Đỏ, và
thay thế bằng một chế độ bù nhìn của Việt Nam. Gần như ngay lập tức, Trung Quốc
can dự vào cuộc xung đột, tìm cách ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô trong khu
vực. Sự kháng cự tại địa phương nổi lên, và đột nhiên, Đông Nam Á quay trở lại
thành tuyến đầu của cuộc Chiến tranh lạnh.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã hạn chế không chỉ trích chế độ Khmer Đỏ giết choc – không muốn can thiệp bằng những phán xét đạo đức. Nhưng chế độ mới dưới sự hậu thuẫn Việt – Xô thì lại khác, nó gây ra một mối đe dọa trực tiếp. Ba quốc gia – Singapore, Thái Lan, và Phillipnes – huy động quân đội để phản đối và làm đảo ngược cuộc xâm lược của Việt Nam.
Indonesia và Malaysia lại có
cách nhìn khác về vấn đề. Indonesia và các nhà lãnh đạo Malaysia họp mặt tại
một thị trấn Mã lai có tên là Kuantan. Theo lời một học giả Đông Nam Á, ông
Amitav Archarya kể lại, họ đã đưa ra một điều kiện: ASEAN nên công nhận quyền
lợi của Việt Nam ở Campuchia bằng một giải pháp chính trị đối với cuộc xung
đột; đổi lại, Việt Nam sẽ phải giữ khoảng cách với Liên Xô. Như vậy, ASEAN sẽ
khôi phục lại hòa bình và ngăn cản sự can thiệp của các cường quốc lớn hơn.
“Học thuyết Kuantan” được biết
đến bị thất bại hai tháng sau đó vào tháng Sáu năm 1980, khi quân đội Việt Nam
truy đuổi lực lượng kháng chiến Campuchia chạy vượt qua lãnh thổ Thái Lan. Hệ
quả là ASEAN kiên quyết yêu cầu Việt Nam rút quân toàn bộ. Singapore, Thái Lan,
và Phillipines – với sự trợ giúp của chính phủ Campuchia do Việt Nam tạo dựng –
chiếm được ưu thế. ASEAN, Mỹ và Trung Quốc can thiệp để hỗ trợ cho cuộc kháng
chiến của Campuchia, năm 1989, Việt Nam rút quân. Việt Nam được thừa nhận là
thành viên ASEAN vào năm 1995, còn Campuchia vào năm 1999.
Mọi chuyện tốt đẹp đã kết thúc
tốt đẹp. (Phần lớn là tốt – vì Hun Sen, Thủ tướng chính phủ bù nhìn của Việt
Nam tại Campuchia ngày nay vẫn đang nắm giữ quyền lực.) Nhưng lịch sử tóm tắt
này đưa ra một bài học quan trọng trước mắt về cách thức hoạt động của ASEAN.
Năm 1980, Indonesia và Malaysia đã sẵn sàng bán đứng lợi ích của Thái Lan với tư cách là một quốc gia tiền tuyến lẫn những mối quan tâm của Singapore và Phillipines. Lợi ích của Indonesia và Malaysia có tính trừu tượng hơn. Ưu tiên của họ là đảm bảo duy trì và mở rộng ASEAN về lâu dài, cũng như ngăn cản các cường quốc bên ngoài can thiệp vào. Giải quyết các mối quan tâm của các thành viên ASEAN đối với Việt Nam không nằm trong chương trình nghị sự của họ.
Một điều gì đó tương tự cũng
đang xảy ra hiện nay xung quanh cuộc xung đột ở Biển Đông. Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa, được hậu thuẫn bởi sự tăng trưởng có tính kỷ lục về chi tiêu quốc
phòng, triển khai hải quân, và các cơ giới hàng hải khác, đang khẳng định một
tuyên bố chủ quyền đối với phần lớn Biển Đông – cho đến sát đường ven biển của
Phillipines. Lần này, chủ yếu là Phillipines, và cả Việt Nam, tự thấy họ trở
thành vật hy sinh vì lợi ích lớn hơn của ASEAN.
Lần này, lời biện giải cho sự
hòa giải với kẻ xâm lược bên ngoài đang diễn ra hàng ngày. Việc này được thực
hiện thông qua hình thức của sự kiên nhẫn vô hạn trước chính sách ngoại giao
của Trung Quốc. Trong 20 năm qua, ASEAN đã luôn kêu gọi sử dụng luật pháp quốc
tế làm cơ sở cho việc quản lý và giải quyết tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.
Tuy nhiên, khi Phillipines đưa ra trọng tài để phân xử theo Công ước Liên Hợp
Quốc về Luật Biển (UNCLOS), các đối tác ASEAN lại im lặng. Bất chấp thực tế rằng
tất cả bọn họ đều đã ký kết.
ASEAN bị rơi vào những cuộc đàm
phán vô tận về một Bộ quy tắc ứng xử để ràng buộc các bên đối với xung đột. Còn
Mỹ – ngoài việc khuyến khích ngoại giao nhanh hơn – cũng ủng hộ. Kể cả khi
Trung Quốc phỉ báng và cố gắng cô lập Phillipines khi nước này đứng lên bảo vệ
chủ quyền.
Đừng hiểu sai. Nếu một lúc nào
đó có thể ký kết một Bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc, đó sẽ là một thành
công lớn. Nhưng nó sẽ không tự xảy ra. Và nó sẽ không xảy ra nếu không có một
chính sách chủ động và mạnh mẽ hơn của Mỹ. Nếu để ASEAN tự lo liệu, tổ chức này
không có khả năng đối phó với các vấn đề ở Biển Đông.
Đã đến lúc sử dụng đòn bẩy nằm trong mối quan tâm của ASEAN đối với sự hiện diện của Mỹ để chống lưng cho ASEAN trong việc đối phó với Trung Quốc.
Trong các cuộc họp sắp tới tại
Brunei, Bộ trưởng Kerry nên thúc đẩy tinh thần quyết đoán hơn của Chính phủ
trong năm 2010, khi Ngoại trưởng Clinton đưa ra quy tắc về Biển Đông tại Hà
Nội. Thật vậy, chính quyền nên tiến thêm một bước xa hơn. Thay vì thu nhận sự
tư vấn thận trọng của ASEAN về cách xử lý mối quan hệ tương tác với Trung Quốc,
Chính phủ cần phải ép ASEAN đưa ra những lập trường công khai cứng rắn hơn, và
đặc biệt là phải hỗ trợ trên vấn đề của Phillipines. Thay vì chấp nhận các buổi
diễn tập quân sự chung có quy mô hạn chế giữa các nước ASEAN, Mỹ và Trung Quốc
như là một phần của cơ chế Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN + và các cơ chế toàn khu
vực khác do ASEAN lãnh đạo, Mỹ nên thúc ép ASEAN loại trừ Trung Quốc ra khỏi
các buổi diễn tập cho đến khi nước này nghiêm túc hơn trong việc giải quyết vấn
đề tranh chấp. Mỹ có thể sử dụng chính sự tham gia của nước này làm đòn bẩy.
Trong nhiều năm nay, các thành
viên ASEAN đã cảnh báo Mỹ không yêu cầu tổ chức này phải lựa chọn bởi vì chúng
ta có thể sẽ không thích cách nó lựa chọn. Được cảnh báo một cách thích đáng,
chính quyền Obama kiềm chế – nhượng lại thế chủ động cho một tổ chức có hồ sơ
quản lý rất ảm đạm đối với các tranh chấp ở bên ngoài biên giới của nó. Nhưng
ASEAN không có nhiều lựa chọn thay thế như tổ chức này giả tưởng. Đôi khi quyền
lãnh đạo có nghĩa là yêu cầu các nước đối tác và đồng minh phải thực hiện những
công việc khó khăn. Nếu đó là một sự lựa chọn, vậy thì hãy chấp nhận: ASEAN cần
phải lựa chọn. Một quy tắc ứng xử sẽ chỉ thành công bằng cách ngăn chặn việc
Trung Quốc vừa có thể lựa chọn tham gia Bộ quy tắc ứng xử với ASEAN, lại vừa có
thể củng cố lập trường tối đa của nước này. Mỹ có thể giúp ASEAN thực hiện điều
này bằng cách tạo ra những thái độ cương quyết hơn trong nội bộ ASEAN.
Thế giới blog sẽ lắng xuống sau
những đợt hủy bỏ của Tổng thống Obama. Những nghi ngờ về sự tồn tại của sức
mạnh Mỹ tại khu vực Đông Nam Á chắc chắn sẽ vẫn còn. Họ đã ở đó ít nhất 40 năm.
Tuy nhiên, có một số thực tế cơ bản hơn vẫn còn tiếp diễn: lợi ích của Mỹ trong
khu vực, sự trỗi dậy của Trung Quốc, và nhu cầu của các nước ASEAN đối với sự
hiện diện của Mỹ – cũng như những sự chia rẽ trong nội bộ ASEAN. Tất cả những
điều này cần phải được xem xét thích đáng trong những nỗ lực nhằm đảm bảo lợi ích
quốc gia của Mỹ.
---------------------
[*] Walter Lohman là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Châu Á của Quỹ Heritage.
[**] Lưu ý của Ban biên tập: Ban đầu, khi bài viết này được đăng tải, Tổng thống mới chỉ phần nào hủy bỏ chuyến đi của ông ta. Bài viết đã được cập nhật để phản ánh các diễn biến tiếp theo.
Nguồn: Walter Lohman, “The South China Sea
and the Lessons of History“,The National Interest, ngày 04 Tháng 10, 2013.
Bản Tiếng Việt © 2013 The
Pacific Chronicle
No comments:
Post a Comment