3-5-2012
Lịch sử cổ đại và cận đại của Trung
Quốc cho thấy dù Trung Quốc dưới chế độ nào, quân chủ chuyên chế hay cộng sản
độc tài, Trung Quốc luôn có ý đồ bành trướng đại Hán, xâm lược và đồng hóa các
nước nhỏ lân bang.
Với Việt Nam, lịch sử đã rất nhiều
lần chứng minh ý đồ bành trướng đại Hán qua suốt chiều dài lịch sử lập quốc và
giữ nước của dân tộc Việt.
Từ năm 208 trước công nguyên đến
năm 939, hơn 1000 năm Bắc thuộc, tổ quốc Việt Nam bị nhiều triều vua Tàu lần
lượt đô hộ. Họ dùng mọi phương cách ác độc nhằm đồng hóa dân tộc Việt và biến
nước Việt thành một tỉnh, quận của Tàu. Từ thế kỷ thứ nhất Hai Bà Trưng khởi
nghĩa giành độc lập được 3 năm (40 - 43) thì bị nhà Hán đánh bại. Dân tộc Việt
Nam luôn kiên cường chống mọi dã tâm đồng hóa của quan quân đô hộ Tàu, giữ gìn
bản chất và phong tục cao quí của dân tộc Việt. Nhiều cuộc khởi nghĩa liên tục
nổi dậy đánh đuổi thực dân Tàu giành lại độc lập. Tiêu biểu có cuộc nổi dậy của
anh em Bà Triệu thời nhà Đông Ngô, năm 541 Lý Nam Đế khởi nghĩa đánh đuổi nhà
Lương giành độc lập, năm 550, Triệu Quang Phục đánh bại nhà Lương, tiếp tục giữ
được độc lập trong thời gian 30 năm. Nhà Tùy và sau đó Đường trở lại đô hộ Việt
Nam thêm hơn 300 năm. Từ năm 905, sau khi Khúc Thừa Dụ tuyên bố tự chủ và Ngô
Quyền đại thắng quận đội nhà Hán tại “Bạch Đằng Giang” vào năm 939, Việt Nam
mới thực sự có độc lập và kéo dài hơn 900 năm, đến cuối thế kỷ 18, trong đó có
20 năm (đầu thế kỷ 15) bị nhà Minh xâm chiếm đô hộ.
Trong suốt thời gian hơn 900 năm
độc lập dựng nước và giữ nước, Việt Nam luôn bị các triều đại bành trướng đại
Hán phương Bắc tìm đủ mọi cách đánh chiếm, hay xâm lấn. Dân tộc Việt Nam đã bao
lần vừa chiến thắng chống lại kẻ thù xâm lược phương Bắc vừa giữ gìn nguyên vẹn
truyền thống văn hóa phong tục Việt, chống lại mọi hình thức xâm thực văn hóa
từ phương Bắc nhằm đồng hoá dân tộc Việt.
Trước đây, dù dưới triều vua nào, triều đình và toàn dân không bao giờ
xem Tàu là nước láng giềng tốt, không là người bạn thân thiết với tình nghĩa
như anh em ruột thịt “môi hở răng lạnh” như tất cả những người lãnh đạo của
đảng cộng sản Việt Nam luôn công khai tuyên bố. Những nhà vua, lãnh đạo Việt Nam nào hèn yếu đi cầu cạnh, tùng
phục Tàu để được bảo vệ hay giúp cướp đoạt quyền lực đều đưa đến tai họa đất
nước bị đô hộ và nguy cơ bị Tàu đồng hóa như Trần Ích Tắc chạy sang cầu cứu nhà
Nguyên năm 1285, Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh năm 1789, và gần đây hơn
Hoàng Văn Hoan, đảng viên kỳ cựu cao cấp trong Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản và là
một trong những nhân vật sáng lập đảng Cộng Sản Việt Nam, chạy sang cầu cạnh
Trung Cộng năm 1979, v.v...
Kinh nghiệm lịch sử giữa Việt Nam
và Trung Quốc là một bài học bảo vệ tổ quốc quí báu cho toàn dân, trước đây và
nhất là hiện nay. Dầu cho Việt Nam chỉ là một nước nhỏ dân ít nhưng đã nhiều
lần anh dũng và kiên cường đánh bại những lực lượng hùng mạnh và thiện chiến
của nước Tàu đại Hán phương Bắc. Trung Quốc từ ngàn năm nay không hề là một
nước bạn láng giềng tốt bụng như họ đang tuyên truyền qua câu chữ “16 chữ vàng
và 4 tốt” mà thực chất là nước bá quyền hiểm độc, luôn chực chờ và sẵn sàng
nuốt chửng Việt Nam. Lý do chính làm cho đất nước Việt Nam vẫn tồn tài sau hơn
một ngàn năm bị Tàu đô hộ với nhiều âm mưu thâm độc nhằm đồng hóa dân Việt của
nhiều triều đại của Trung Hoa, đó là do Việt Nam có một nền văn hoá đặc trưng
của dân tộc Việt, phong tục thuần Việt, được gìn giữ và trân quí ngay tại mọi
thôn làng trên khắp đất nước.
Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, mối họa
của Việt Nam trước bá quyền đại Hán Tàu đã và đang tái diễn. Việt Nam đang đứng
trước mối hiểm họa bị Tàu xâm lược và đồng hoá. Mối nguy hại tột cùng này là sự mù quáng của các
cấp lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam, và tệ hại nhất là văn hoá phong tục Việt,
mà người dân Việt nhờ vào đó để tồn tại và vươn lên trong suốt thời gian dài hơn
1000 năm Bắc thuộc, đã và đang bị hủy hoại và bị thay vào đó bởi một mớ tư
tưởng ngoại lai của chủ nghĩa cộng sản ảo tưởng mà từ đó tính linh thiêng và
lòng yêu tổ quốc mà tiền nhân đã dày công vun xới nhanh chóng bị xoá bỏ.
Chủ nghĩa cộng sản Mác Lê một thời
được thịnh hành tại Âu Châu, thế kỷ 20 rồi được du nhập vào một số nước tại các
châu lục khác trong đó có Việt Nam, Trung Hoa, lợi dụng lòng yêu nước của dân
chúng qua phong trào đấu tranh giành độc lập, chống lại chế độ thực dân trong
và sau thế chiến thứ 2. Hệ quả của chủ nghĩa cộng sản là đại đa số người dân
vẫn tiếp tục bị áp bức, bóc lột, kỳ thị và phân biệt đối xử khốc liệt bởi một
nhóm thiểu số cầm quyền mới. Chỉ khác là chế độ cộng sản còn tệ hại, vô nhân
đạo và không có tình người đối với người dân bình thường hơn so với tất cả các
triều đại vua chúa khét tiếng ác độc của nước ta trước kia. Chế độ cộng sản đẩy dân chúng vào tình trạng nghèo đói
cơ cực, vô sản đã đành nhưng tai hại nhất của chủ nghĩa cộng sản là nó hủy hoại
những phong tục đặc thù, tình tự và đạo đức dân tộc, tinh thần quốc gia, mà nhờ
vào đó dân tộc Việt Nam đã chống lại được dã tâm đồng hoá của bá quyền đại Hán
Tàu phương Bắc. Thay vào đó chỉ là lòng thù hận một mất một còn giữa người và
người chỉ vì sự khác biệt quan điểm chính trị, chiêu bài đấu tranh giai cấp,
tôn thờ ngoại bang, xoá bỏ biên giới quốc gia. Trong chế độ cộng sản, ngoài
việc tôn thờ cá nhân, điều tai hại là lòng yêu quí Tổ quốc bị lu mờ mà thay vào
đó là một thế giới công sản không biên giới. Những lời tuyên truyền rêu rao
“yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, yêu chủ nghĩa cộng sản” của người cộng sản
chỉ là lời nói mị dân, đánh đồng và là sự lừa gạt trắng trợn.
Qua thực tế mà
đất nước và dân tộc Việt Nam đã từng trải nghiệm, 1954 -1975 tại miền Bắc và từ
1975 đến nay tại miền Nam, người cộng sản Việt Nam không phải chiến đấu giải
phóng giành tự do dân chủ cho tổ quốc hay đồng bào mà họ chiến đấu cho thế giới
cộng sản theo chỉ thị của cộng sản quốc tế, trước kia do Nga nay do Trung Cộng
lãnh đạo. Kêu gọi giải phóng giành độc lập
chỉ là một chiêu bài đường mật để lôi kéo và lợi dụng những người yêu nước
trung thực. Học tập và tuyên truyền tẩy não theo chủ nghĩa cộng sản, những
người cộng sản Việt Nam ngay từ thời kỳ thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam trước
1945 cho đến gần đây luôn tôn sùng phục vụ Cộng Sản Tàu, coi những người cộng
sản Tàu là anh em ruột thịt tin cẩn, coi Mao Trạch Đông là người thầy, là cha,
là người lãnh đạo tối cao của các đảng cộng sản. Trong thời kỳ chống Pháp và
chiến tranh quốc cộng Nam Bắc từ 1954 đến 1975, nhà nước cộng sản Việt Nam tại
miền Bắc luôn tôn thờ lãnh đạo và nước Tàu, luôn coi nước Tàu là hậu phương tín
cẩn, được Tàu cung cấp toàn bộ vũ khí và hậu cần để thực hiện cuộc chiến nồi da
xáo thịt tại miền Nam Việt Nam, trong khi đó đảng cộng sản Tàu đứng ngoài làm
"ngư ông đắc lợi". Vì
tin mù quáng vào chủ nghĩa cộng sản quốc tế là đưa đến thế giới đại đồng không
còn biên giới phân chia các nước cộng sản anh em, nên nhà nước cộng sản Việt
Nam đã từng sẵn sàng giao đất đai, biển đảo cho Trung Cộng trấn đóng trong thời
kỳ chiến tranh Bắc Nam. Trên thực tế, chủ nghĩa cộng sản quốc tế chỉ là
cái bánh vẽ do các nước cộng sản đàn anh tạo ra để cám dỗ và nuốt chửng các
nước nhỏ láng giềng. Tại Châu Âu, Nga lập ra Liên Bang Sô Viết để thôn tính các
nước nhỏ tại Trung Á. Tại Á Châu có Trung Cộng với dã tâm xâm lược đại Hán từ
ngàn xưa cũng sáp nhập những nước nhỏ vùng Tây Tạng, Nội Mông, Bắc Ấn. Lãnh đạo
cộng sản Việt Nam đã xung phong làm những tên lính cộng sản tiên phong chết thế
trong trận chiến nhuộm đỏ toàn thế giới.
Sinh mạng của hằng triệu thanh niên
và người dân Việt Nam đã phải hy sinh làm công cụ cho ý đồ mở rộng bờ cõi của
thế lực cộng sản quốc tế Nga Tàu, trước tiên là thôn tính nhuộm đỏ miền Nam
Việt Nam và sau đó toàn khu vực Đông Nam Á rồi xuống phía nam. Đảng cộng sản
Việt Nam vì bị mê hoặc bởi chủ nghĩa cộng sản quốc tế đã sẵn sàng giao đất đai
biển đảo cho đàn anh cộng sản Tàu “giữ hộ”. Cho đến hôm nay những vùng lãnh thổ
mà lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam giao cho người đàn anh “ruột thịt” cộng sản
Tàu, Tàu chiếm trọn. Không dừng, Trung Cộng đã để lộ cho thế giới kế hoạch
chiếm toàn bộ vùng Biển Đông với con đường biên giới biển vẽ tay chín đoạn hình
lưỡi bò phi lý phi pháp, song song với việc nhanh chóng phát triển sức mạnh quân
sự phục vụ cho ý đồ này. Tình hình căng thẳng tại Biển Đông hiện nay minh chứng
cho dã tâm bành trướng của Trung Quốc.
Lịch sử ngàn năm của Việt Nam đã
từng chứng minh rằng Việt Nam sẽ không bị Tàu đồng hóa nếu người Việt giữ được
trọn vẹn văn hóa Việt, phong tục Việt và tinh thần “QUYẾT CHIẾN” chống bá quyền
đại Hán Trung Cộng. Nhưng để có được tinh thần quyết chiến, quyết tâm giữ gìn
bờ cõi chống lại ý đồ xâm lược của đại Hán Trung Cộng, Việt Nam phải nhanh
chóng phục hồi lại văn hóa Việt, tình cảm Việt, phong tục Việt, đạo đức Việt,
nhất là phải nhanh chóng hủy diệt toàn bộ loại văn hóa cộng sản lai căng
“Mác-Lê-Mao”.
Đặc tính ưu việt ngàn năm của văn hoá Việt Nam đã bị hủy
hoại hầu như toàn bộ tại miền Bắc từ năm 1954, sau khi đảng Cộng Sản Việt Nam
cướp chính quyền, và thay vào đó một loại văn hóa ngoại lai mất gốc gọi là văn
hóa cộng sản, văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Miền Nam Việt Nam với may mắn của 20 năm được sống dưới chế độ tự do dân chủ
nên nề nếp văn hóa, đạo đức, phong tục ngàn đời của người Việt được bảo vệ trọn
vẹn và tiếp tục phát huy. Hiện nay vì lợi ích của phe nhóm thiểu số nắm quyền
trong đảng cộng sản và nhóm đặc quyền cơ hội kinh tế “tư bản đỏ” không còn tình
người kết hợp với sự tiếp tục mù quáng theo đuổi chủ nghĩa Cộng Sản tự biến dạng,
một chủ thuyết mà cả thế giới đã lên án và khai tử, tình trạng suy đồi văn hoá
Việt vẫn còn tiếp tục và biến nền văn hóa Việt ngàn đời ưu việt thành loại văn
hóa vong bản- vô văn hóa, văn hóa đề cao và khuyến khích thù hận, tuyên dương
cướp đoạt, tước đoạt.
Nguy hiểm hơn nữa là trong khi nhà
nước Trung Cộng xem Việt Nam là kẻ thù lịch sử, ngang nhiên chiếm đất (trận
chiến biên giới khốc liệt năm 1979 với hàng vạn binh lính và thường dân Việt bị
quân Tàu Cộng thảm sát) chiếm biển chiếm đảo (1974 với quần đảo Hoàng Sa, 1988
với một phần quần đảo Trướng Sa), liên tục bắn giết binh lính, cướp đoạt tài
sản của ngư dân Việt trên Biển Đông, thì
lãnh đạo đảng chính quyền và cán bộ đảng viên đảng cộng sản Việt Nam lại vẫn
tiếp tục tôn thờ, trung thành với đảng cộng sản Tàu và xem Trung Cộng là nước
đồng chí anh em ruột thịt, trong khi đó lại kết tội những người Việt Nam
yêu nước chống lại bá quyền Tàu Cộng là “thế lực thù địch” và đàn áp không
nương tay. Thay vì noi gương Miến Điện nhanh chóng giải trừ độc tài đảng trị và
phục hồi chế độ dân chủ pháp trị để bảo vệ đất nước chống lại bọn xâm lược Tàu
Cộng, đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam tiếp tục khủng bố ác liệt hơn và bỏ tù
những người Việt không đồng chính kiến, công khai phê phán những việc làm sai
trái của họ.
Trước sự hung hãn của đội quân hung
bạo Mông Cổ, tiền nhân của chúng ta đã hùng dũng tuyên bố “QUYẾT CHIẾN” cho câu
hỏi “NÊN HÒA HAY NÊN CHIẾN?”
Hiên nay trước
hành động gây hấn và ngang ngược xâm lược Biển Đông của bá quyền Trung Cộng,
câu hỏi tương tự lại được đặt ra cho toàn dân Việt Nam: “Nên hòa hay nên
chiến”, nên thần phục hay quyết đối đầu, trước hành động xâm lược trắng trợn và
sự hung hăng tàn bạo của Tàu?
Câu trả lời đương nhiên phải như là
câu trả lời của tiền nhân Việt Nam trước họa xâm lược của quân Nguyên Mông:
QUYẾT CHIẾN, THỀ QUYẾT CHIẾN. Phải đối đầu để tìm cái sống, để bảo vệ lãnh thổ
và lãnh hải của tổ quốc. Trung Cộng đang xâm lược Việt Nam, đã và đang giết
người dân Việt thì bọn họ không là bạn, là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng
chí tốt, đối tác tốt”, mà chỉ là “láng giềng ác, kẻ thù ác, đối thủ ác, đối tác
ác”.
Toàn dân Việt Nam trong nước cũng
như ngoài nước cần phải hiên ngang đứng lên chống đối và tỏ thái độ QUYẾT CHIẾN
trước hành động bá quyền xâm lược của Trung Cộng. Thời gian không cho phép Việt
Nam chần chờ, nhún nhường để mong được bá quyền Tàu Cộng ban phát đặc ân. Kéo
dài thêm thời gian sẽ giúp tạo thêm lợi thế cho tên láng giếng gian manh, xảo
quyệt. Càng kéo dài thời gian thì kẻ thù lịch sử bá quyền Trung Cộng sẽ càng có
thêm thời giờ tăng cường sức mạnh như hổ dữ được mọc thêm cánh. Càng kéo dài
thời gian càng giúp cho bọn bá quyền xâm lược Tàu Cộng rảnh tay khuất phục kẻ
thù xa, Phi Luật Tân, rồi sau đó trở lại thẳng tay thu phục hay bóp chết đồng
chí “giai đoạn” láng giếng gần, Việt Nam!
Vì tiền đồ của Việt Nam và cũng vì
tương lai của chính cá nhân, gia đình của những người cộng sản đang nắm giữ
quyền lực trong toàn bộ guồng máy cai trị, đừng đi theo gót chân tội lỗi của
Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Hoàng Văn Hoan …, hãy có hùng tâm ngàn đời của
dân tộc, phải nhanh chóng và dứt khoát từ bỏ chế độ độc tài cộng sản mà toàn
thế giới đã đoạn tuyệt, hội nhập cùng thế giới văn minh tiến bộ tự do dân chủ
để người dân Việt cả nước, trong và ngoài nước, nhanh chóng phục hồi nề nếp văn
hóa nhân bản và phong tục cao quí của dân tộc Việt, đoàn kết và cùng quyết
chiến chống lại bọn xâm lược lịch sử phương Bắc, Tàu Cộng.
Khi đó toàn thế giới sẽ là đồng
minh cùng đồng hành với Việt Nam, một nước Việt Nam thật sự tự do dân chủ trong
đó nhân quyền được tôn trọng và phát huy.
Khi đó hành động xâm chiếm Biển
Đông của bá quyền Trung Cộng sẽ bị thất bại. Và Biển Đông sẽ luôn là vùng biển
của tổ quốc Việt Nam trường tồn vĩnh cửu.
Biển Đông còn là của Việt Nam, nước
Việt Nam còn.
Ngày 02 Tháng 05 Năm 2012
.
.
.
No comments:
Post a Comment