Sự thống trị của Bắc
Kinh ở Biển Đông không phải là điều tất yếu
Ben Bland và William Matthews - Foreign Policy
Tạ
Kiều Trang dịch
26/07/2025
Tư
duy nhóm và chủ nghĩa ngắn hạn đang làm lu mờ đi những đánh giá về vùng biển
này.
Một
tàu container thuộc sở hữu Đan Mạch, chất đầy hàng, rời cảng Singapore và tiến
vào hải phận quốc tế. Tàu gửi tín hiệu đến hệ thống nhận dạng tàu thuyền “Trịnh
Hòa” của Trung Quốc, cung cấp thông tin cập nhật về hàng hóa và lộ trình dự kiến
qua Biển Đông đến Thượng Hải. Bất chấp những lo ngại lâu nay về mối đe dọa của
Trung Quốc đối với tự do hàng hải, Bắc Kinh vẫn cho phép tất cả tàu thương mại
tiếp cận không hạn chế những tuyến đường thương mại toàn cầu quan trọng này, miễn
là tàu sử dụng công nghệ giám sát của Trung Quốc. Trái lại, lực lượng hải quân
nước ngoài bị hạn chế nghiêm ngặt trong các vùng biển này, và quyền kiểm soát
được duy trì bởi lực lượng hải quân và cảnh sát biển của Trung Quốc, đi kèm với
mạng lưới trải rộng gồm tàu không người lái, drone, cảm biến và vệ tinh.
VIDEO
:
Sự
thống trị của Bắc Kinh ở Biển Đông không phải là điều tất yếu
https://www.youtube.com/watch?v=HhvmAmJcdRg&t=5s
Năm
ấy là năm 2035. Đoạn trích trên phản ánh một kịch bản giả định về sự thống trị
của Trung Quốc ở Biển Đông mà chúng tôi vừa trình bày cho các nhà hoạch định
chính sách và chuyên gia hàng hải ở Đông Nam Á và Vương quốc Anh trong một bài
tập “dự báo ngược” (back-casting).
Là
một phương pháp được các chính phủ, cơ quan tình báo và quân đội sử dụng nhằm
giảm thiểu thiên kiến từ con người và khuyến khích tư duy phản biện, dự báo ngược
là phản chiếu của dự báo (forecasting). Dự báo ngược yêu cầu các nhà nghiên cứu
phác họa một kịch bản tương lai có thể xảy ra, rồi truy ngược quay trở lại hiện
tại và đặt câu hỏi “Tại sao lại thành ra như thế?” Mục tiêu không phải nhằm dự
đoán tương lai, mà nhằm xác định các động lực dài hạn và các điểm bùng phát
(trigger points) ngắn hạn.
Diễn
biến và kết cục của tranh chấp ở Biển Đông sẽ định hình bản chất và quy mô sự
trỗi dậy toàn cầu của Trung Quốc, cũng như tương lai của tự do hàng hải và
thương mại mở. Nhưng chúng tôi lo ngại rằng tư duy nhóm và chủ nghĩa ngắn hạn
đang làm lu mờ những đánh giá về vùng biển này.
Chúng
tôi phác hoạ kịch bản này với vai trò như là một kết cục thực tế tồi tệ nhất
(không tính các sự kiện thiên nga đen). Đáng kinh ngạc là nhiều quan chức và
nhà nghiên cứu ở Đông Nam Á mà chúng tôi đã tiếp xúc lại xem kết cục này chỉ
đơn giản là một sự tiếp diễn của thường lệ. Đó là một trong nhiều những bất ngờ
nảy sinh trong các cuộc thảo luận, qua đó nhấn mạnh tầm quan trọng của các
phương pháp như dự báo ngược trong việc thách thức quan niệm thông thường.
Trong
bối cảnh Bắc Kinh củng cố vị trí dẫn đầu ở Biển Đông, các nhà phân tích quốc tế
có xu hướng tập trung vào các yếu tố như sự bành trướng đáng kể của hạm đội hải
quân và hải cảnh Trung Quốc, Trung Quốc sử dụng “chiến thuật vùng xám” và lạm dụng
luật pháp quốc tế. Nhưng trong các cuộc thảo luận dự báo ngược, các đại biểu
Đông Nam Á lại cho rằng, nếu Trung Quốc giành được toàn quyền kiểm soát Biển
Đông, sự kết hợp giữa tiềm lực kinh tế của Bắc Kinh, cùng vị thế dẫn đầu ngày
càng tăng trong công nghệ số và năng lượng tái tạo, mới là những cân nhắc mang
tính quyết định hơn.
Vậy
viễn cảnh này có thể diễn ra như thế nào? Trung Quốc sẽ tiếp tục các hoạt động
gọi là “tằm ăn dâu” ở Biển Đông, đồng thời thăm dò điểm yếu trong hệ thống
phòng thủ và xã hội của các bên tranh chấp khác (Brunei, Indonesia, Malaysia,
Philippines, Đài Loan và Việt Nam) và làm suy yếu hệ thống liên minh của Mỹ.
Nhưng động lực chính sẽ đến từ sức mạnh kinh tế khổng lồ của Trung Quốc, được
phát huy thông qua các phương tiện dụ dỗ và ép buộc.
Trung
Quốc không chỉ là đối tác thương mại lớn nhất khu vực và là nhà thầu chủ chốt
trong xây dựng hạ tầng vật chất. Họ còn ràng buộc các nền kinh tế Đông Nam Á
vào mạng lưới sản xuất tiên tiến hàng đầu thế giới của mình, đầu tư và mua lại
những startup hăng hái nhất khu vực (gồm GoTo Group, Lazada và Tokopedia), đồng
thời cung cấp công nghệ số và năng lượng tái tạo tiên tiến với chi phí phải
chăng. Điều này càng tiếp diễn, các chính phủ Đông Nam Á càng khó sẵn sàng mạo
hiểm đánh đổi lợi ích kinh tế để phản kháng sự cưỡng ép của Bắc Kinh trên biển.
Viện
dẫn dân số già hóa, gánh nặng nợ chính quyền địa phương và nhà đất, cũng như
môi trường ngột ngạt đối với doanh nghiệp tư nhân, một số nhà hoạch định chính
sách và nhà phân tích ở Vương quốc Anh mà chúng tôi tiếp xúc đã đặt vấn đề về
triển vọng kinh tế dài hạn của Trung Quốc. Nhưng những người tham gia hội thảo ở
Đông Nam Á lại cho rằng, một Trung Quốc với tốc độ tăng trưởng chậm thậm chí vẫn
sẽ trở thành đối tác phát triển ngày càng quan trọng đối với quốc gia của họ
trong thập kỷ tới nhờ ở gần và có mối liên kết sâu sắc. Họ tin rằng giới tinh
hoa chính trị Đông Nam Á sẽ không dám đương đầu với Bắc Kinh trong mười năm tới
vì muốn giữ dòng chảy vốn và công nghệ, cộng với lo ngại chính đáng rằng Bắc
Kinh sẽ trừng phạt kinh tế những nước chống đối ở Biển Đông.
Điều
này có lẽ phản ánh những ưu tiên khác biệt nhau – ở Đông Nam Á, địa vị thống trị
kinh tế của Trung Quốc vốn là một điều hiển nhiên, và không giống với sức cạnh
tranh của Trung Quốc so với phương Tây, địa vị đó khó có thể bị suy giảm bởi bất
cứ sự chậm lại nào trong tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc.
Các
quốc gia ven biển Đông Nam Á đang nguy cấp đối mặt với nguy cơ nhiệt độ và mực
nước biển dâng cao, cùng với nhu cầu năng lượng ngày càng tăng trong 10 năm tới,
việc này có thể đẩy nhanh con đường đi đến thống trị của Trung Quốc. Mặc dù các
chính quyền Mỹ trước đây, cùng các đồng minh ở châu Âu và châu Á, đã khởi xướng
vô số sáng kiến tài chính xanh trong khu vực, nhưng chúng vốn diễn ra ì ạch
ngay từ trước lúc Tổng thống Donald Trump trở lại Nhà Trắng và xáo trộn chính
sách khí hậu của Washington.
Trong
khi đó, Trung Quốc đã thiết lập được vị thế thống lĩnh trong việc sản xuất tấm
pin mặt trời, tuabin gió, công nghệ pin và xe điện giá rẻ, từ đó trở thành đối
tác không thể thiếu với Đông Nam Á khi khu vực này phải hứng chịu ảnh hưởng của
biến đổi khí hậu. Sự kết hợp giữa công nghệ tái tạo với mạng lưới kỹ thuật số,
phần mềm, trí tuệ nhân tạo và sức mạnh kinh tế truyền thống của Trung Quốc nhiều
khả năng sẽ kéo Đông Nam Á tiến sâu hơn vào vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh.
Liệu
Mỹ có cần phải rút quân khỏi châu Á để Trung Quốc độc chiếm Biển Đông? Đã có cuộc
tranh luận sôi nổi về câu hỏi này ở Vương quốc Anh và Đông Nam Á, trong đó những
người tham gia thảo luận ở châu Âu tin tưởng hơn những người ở Đông Nam Á rằng
lập trường của Mỹ có thể có ảnh hưởng. Trung Quốc đã làm nhiều thứ, bao gồm xây
dựng và củng cố các căn cứ đảo lớn, cũng như đe dọa các nước láng giềng, để khẳng
định quyền kiểm soát của mình đối với vùng biển tranh chấp. Điều này diễn ra bất
chấp sự lên án của Mỹ từ năm 2010, khi Ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố Mỹ
có lợi ích quốc gia đối với tự do hàng hải và trong việc tôn trọng luật pháp quốc
tế ở Biển Đông. Nếu Washington vẫn giữ lập trường tương tự, thì Trung Quốc có
khả năng sẽ tiếp tục con đường hiện tại. Để ngăn Trung Quốc, chắc chắn sẽ cần đến
một phản ứng mạnh mẽ hơn và có khả năng dẫn đến leo thang từ phía Washington.
Điều này cũng đi kèm với những rủi ro riêng.
Vậy
làm thế nào để ngăn chặn Trung Quốc mà không làm tăng nguy cơ chiến tranh giữa
hai siêu cường vũ khí hạt nhân? Trớ trêu ở chỗ, trong khi giới chức Đông Nam Á
thường phàn nàn Mỹ và đồng minh xem nhẹ vai trò chủ động của họ, thì rất ít đại
biểu Đông Nam Á tin rằng chính phủ của họ sẽ chủ động định hình kết cục ở Biển
Đông. Không một ai trong số những đại biểu viết dự báo ngược cho rằng Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), một tổ chức khu vực, sẽ có sức ảnh hưởng.
Thay
vào đó, có một đồng thuận là Trung Quốc, ngày càng hùng mạnh và quyết đoán, sẽ
chiến thắng trước tính tự mãn và chủ nghĩa ngắn hạn của các nước Đông Nam Á –
trong khi Mỹ tuy nói hay nhưng vẫn hành động dè dặt.
Tuy
nhiên, dù không có ý tỏ ra ngây thơ trong một thế giới mà sức mạnh thuần tuý và
những kẻ liều lĩnh dường như đang chiếm ưu thế, nhưng chúng tôi tin, vẫn có
cách ngăn chặn Trung Quốc toàn trị Biển Đông. Thành công của bất kỳ nỗ lực nào
như vậy đều phụ thuộc vào độ thực dụng; việc đảo ngược hoàn toàn quyền lực của
Bắc Kinh trong khu vực là phi thực tế, nhưng các nước Đông Nam Á và các đối tác
ngoài khu vực vẫn có nhiều lựa chọn thiết thực để ngăn Trung Quốc tiến xa hơn.
Trước
hết, nên ngăn Trung Quốc tiếp tục xâm phạm các lợi ích hàng hải của Đông Nam Á.
Yêu cầu quan trọng nhất và khó khăn nhất cho việc này là ý chí chính trị từ
phía các quốc gia Đông Nam Á để gác lại những khác biệt trong khối và thể hiện
lập trường thống nhất chống lại hoạt động vùng xám của Trung Quốc, qua đó chống
lại nỗ lực của Trung Quốc nhằm làm suy yếu sự đoàn kết của ASEAN.
Một
lập trường chung như vậy cần được hậu thuẫn bằng biện pháp răn đe đáng tin cậy.
Một cách tương đối rẻ và hiệu quả để làm vậy là thông qua việc phát triển năng
lực tuần tra hàng hải tự động và tăng cường giám sát hàng hải. Chúng có thể được
tiến hành phối hợp với loạt đối tác ngoài khu vực, gồm Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc
và Mỹ, cũng như Vương quốc Anh, Pháp và các quốc gia châu Âu khác.
Chắc
chắn các quốc gia như trên sẽ có lợi khi hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ này; khi
năng lực triển khai sức mạnh hải quân của Trung Quốc tăng, Trung Quốc có thể sẽ
tìm cách mở rộng các hoạt động vùng xám trên biển ở những nơi khác nếu không có
biện pháp răn đe đáng tin cậy.
Tuy
nhiên, thách thức lớn trong dài hạn đối với các nước Đông Nam Á là giảm phụ thuộc
kinh tế và công nghệ vào Trung Quốc trong khi tránh chọn phe trong cuộc cạnh
tranh ngày càng gay gắt giữa Trung Quốc và Mỹ, đặc biệt trong bối cảnh đối mặt
với chính quyền Washington ngày càng theo xu hướng chủ nghĩa bảo hộ.
Chiến
lược tốt nhất là đa dạng hóa, bao gồm thông qua thúc đẩy thương mại nội khối,
trong đó đặc biệt chú trọng đến việc tìm nguồn cung năng lượng và các công nghệ
mới nổi bên ngoài Trung Quốc hoặc Mỹ. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – một hiệp định thương mại gồm Brunei, Malaysia,
Singapore và Việt Nam, cùng với Úc, Nhật Bản và Vương quốc Anh – là một diễn
đàn hữu ích, đặc biệt trong bối cảnh các nền kinh tế khác trong khu vực, trong
đó có Indonesia và Hàn Quốc, bày tỏ quan tâm muốn gia nhập.
Dấu
ấn kinh tế của Trung Quốc ở Đông Nam Á – cùng năng lực và thiện chí cung cấp hệ
thống kỹ thuật số và công nghệ năng lượng tái tạo rẻ và hiệu quả trên quy mô lớn
– không thể bị hoá giải ngay cả khi có sự tham gia sâu rộng từ các đối tác như
châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc. Tuy vậy, thông qua hợp tác trong và ngoài
khu vực, các nước Đông Nam Á có thể đa dạng hóa chuỗi cung ứng và tạo dựng thị
trường ngách mà Trung Quốc chưa chiếm lĩnh. Cụ thể, họ nên cố gắng thu hút đầu
tư từ bên ngoài vào những lĩnh vực có thể mang lại cho nền kinh tế khu vực một
đòn bẩy hai chiều với Trung Quốc.
Khi
theo đuổi quá trình chuyển đổi xanh và số hóa mạnh mẽ hơn, các nước Đông Nam Á
nên tránh phụ thuộc quá mức vào công nghệ của Trung Quốc, bằng cách tìm kiếm
nhà cung cấp thay thế đối với năng lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân và hệ thống
trí tuệ nhân tạo. Đối với chiến lược giảm phát thải carbon và giảm thiểu biến đổi
khí hậu, các quốc gia ngoài khu vực sẽ làm tốt nếu lắng nghe kỹ lưỡng nhu cầu của
khu vực và điều chỉnh cách tiếp cận cho phù hợp. Đối với hệ thống trí tuệ nhân
tạo, các đối tác bên ngoài có thể thu lợi từ việc tạo dựng một không gian khác
thay thế cho không gian đang bị chi phối bởi công nghệ Trung Quốc hoặc Mỹ.
Một
trong những yếu tố mang tính truyền tải nhất từ quá trình làm dự báo ngược là
chứng kiến sự bối rối của các chuyên gia luật quốc tế khi nghe người khác lập
luận rằng các tiến trình pháp lý sẽ gần như không tác động gì đến việc định
hình cán cân quyền lực đang thay đổi ở Biển Đông trong thập kỷ tới. Giới chức,
nhà nghiên cứu và học giả – những người dành phần lớn thời gian nhìn một vấn đề
cụ thể qua một lăng kính duy nhất – thường đánh mất cái nhìn tổng thể cũng như
về cách mà những mối liên kết và phụ thuộc lẫn nhau thúc đẩy sự thay đổi.
Trong
bối cảnh Trung Quốc tiếp tục củng cố vị thế, các quốc gia Đông Nam Á có tuyên bố
chủ quyền, cùng với các đối tác quan tâm đến tương lai Biển Đông, cần khẩn
trương nhìn nhận tranh chấp theo hướng bao quát hơn. Bằng việc hiểu được cách Bắc
Kinh đang kết hợp công nghệ, sức mạnh công nghiệp, tiềm lực kinh tế, sức nặng
quân sự và tham vọng ngoại giao, các quốc gia Đông Nam Á cùng đối tác châu Âu,
Mỹ và châu Á có thể phản ứng hiệu quả hơn nhờ tận dụng lợi thế riêng biệt từ
liên minh và mạng lưới đáng tin cậy của mình.
---------------------
Ben
Bland
là Giám đốc Chương trình Châu Á – Thái Bình Dương tại Viện Nghiên cứu Quốc tế
Hoàng gia Anh (Chatham House).
William
Matthews
là Nghiên cứu viên cao cấp về Trung Quốc và Thế giới tại Viện Nghiên cứu Quốc tế
Hoàng gia Anh.
Nguồn: Ben Bland và William
Matthews, “Beijing’s Dominance
of the South China Sea Is Not Inevitable”, Foreign Policy,
17/07/2025
No comments:
Post a Comment