HỘI CHỨNG VỀ
QUÊ VÀ KHỦNG HOẢNG LÒNG TIN
https://www.facebook.com/doduyngoc/posts/10158553019533635
Sau đợt
người dân lũ lượt theo nhau về quê đêm 30.9 rạng sáng 1.10 gây tắc nghẽn ở cửa
ngõ Long An. Dù chính quyền tìm mọi cách ngăn cản và thuyết phục, làn sóng người
vẫn không đồng tình. Cuối cùng, chính quyền phải sắp xếp cho dân về theo nguyện
vọng. Tiếp theo đó, tối 2.10, bà con lao động miền Tây lại đi xe máy rầm rộ nối
nhau từ Bình Dương về thành phố để hồi hương. Lãnh đạo tỉnh lại kêu gọi bà con ở
lại nhưng cũng chẳng ai nghe, ai cũng chỉ có một mong muốn là trở về. Tất cả hướng
ra quốc lộ 13 hướng về Sài Gòn. Hàng ngàn chiếc xe rú trong đêm quyết chí ra
đi.
Từ khi dịch
bùng phát ở thành phố và một số tỉnh lân cận, đã có mấy đợt di tản như thế này.
Bắt đầu là những người quê ở miền Trung và miền Bắc, đường xa hàng ngàn cây số,
họ vẫn liều lĩnh quay đầu đi về. Rồi đến mấy đợt người miền Tây. Tất cả đã đến
giới hạn của sự chịu đựng.
Trước đây,
Sài Gòn đất lành chim đậu. Họ bỏ quê, bỏ ruộng vườn vào đây, lên đây kiếm kế
sinh nhai. Đất Sài Gòn bao dung và rộng mở. Họ cũng đã trở thành dân Sài Gòn. Họ
làm đủ nghề để sống và gởi tiền về nuôi con đi học, cho cha mẹ già viên thuốc
lúc ốm đau. Thợ hồ cũng kiếm được một, hai trăm ngàn một ngày. Bán vé số được
trăm tờ cũng có được trăm ngàn. Làm thúng xôi đầu hẻm, xe bánh mì đầu đường,
gánh bún riêu trong ngõ cũng sống được qua ngày. Cùng chiếc xe đạp rong ruổi
mua phế liệu, lượm ve chai cũng nuôi được gia đình. Làm công nhân trong hãng xưởng,
bát cơm có thêm miếng thịt cá, con sinh ra có được hộp sữa để lớn. Họ an tâm sống
và lao động trên đất này với chút hi vọng thế hệ tiếp nối sẽ có cuộc sống tốt
hơn, tương lai sẽ hạnh phúc hơn.
Nhưng rồi
đất không còn lành khi cơn đại dịch thổi tới. Những chỉ thị, văn bản, nghị quyết,
biện pháp lần lượt ra đời. Đường phố không người đi, xóm làng giăng dây, căng kẽm.
Nhà máy đóng cửa. Mọi hoạt động đông cứng lại và họ trở thành người thất nghiệp.
Số tiền nhỏ nhoi để dành cạn dần. Viễn cảnh chết đói đến gần đe doạ cuộc sống của
vợ con. Họ nghe và tin những lời hứa của chính quyền, của nhà nước là không để
một ai phải đói, không để ai bị bỏ lại phía sau. Họ tin và họ chờ. Nhưng rồi
khi trong nhà không còn hạt gạo, khi sữa cũng chẳng có tiền mua cho con nhỏ, đến
bữa không còn có bát cơm vẫn thấy mình bị bỏ quên, vẫn biết mình đang bị bỏ lại.
Bốn tháng trông đợi, 120 ngày cầm cự bữa đói bữa no sống nhờ cơm từ thiện, họ bắt
đầu tuyệt vọng. Gói hỗ trợ lần 1, rồi lần 2, thủ tục rườm rà, khai báo đủ kiểu
nhưng người có kẻ không. Ở trên thì bảo trợ cấp cho từng người, ở dưới lại cho
là cấp cho từng hộ. Số tiền hỗ trợ có nơi nhận, có chỗ chờ hoài không thấy. Có
khi được cho bó rau, mấy củ lại cấp cho cả chục người trong nhà trọ, biết chia
làm sao để ăn cho đủ. Bốn tháng tiền nhà, không tiền đóng, chủ đuổi. Bốn tháng
tiền điện nước, cũng không đủ tiền trả, điện cắt, nước cắt, sống làm sao? Cuối
cùng là bị đuổi ra khỏi phòng trọ, ra ở vỉa hè mà sống sao? Hàng ngày lại phải
chứng kiến biết bao người lần lượt vào bệnh viện và chết trong lặng lẽ, biết
bao hủ cốt lần lượt xuất hiện trên bàn thờ tạm bợ trong phòng trọ, biết bao tin
người nhiễm bệnh không có ai chăm sóc. Mấy trăm hủ tro cốt cũng vừa đem về miền
Tây vì không có địa chỉ rõ ràng ở thành phố.
Thế nên
đành phải về thôi. Chỉ còn một con đường sống là quay lưng lại nơi chốn đã từng
nuôi sống mình, gạt nước mắt mà ra đi. Ngày xưa đến đây vì tương lai và giờ đây
cũng vì mốt mai mà đành phải lìa bỏ. Trách nhiệm thuộc về ai? Chính quyền không
lo được cho dân thì không có gì để níu giữ họ lại.
Hiểu được
nỗi lòng của những người chấp nhận, liều lĩnh ra về vì đã cùng đường mới thông
cảm cho họ khi họ có lúc đã điên cuồng bạo loạn. Có đồng cảm với những bí bách
của họ mới thấy thương cho cảnh họ quỳ với bó nhang giữa lộ mà vái với thinh
không. Họ không quỳ lạy các lực lượng công an, cảnh sát cơ động, dân phòng đang
đóng nơi chốt chặn họ lại. Bởi họ biết rõ lực lượng này chỉ chấp hành lệnh. Lệnh
trên bảo cấm là cấm, thả là thả. Họ vái lạy bởi họ chỉ còn một con đường duy nhất.
Họ vái lạy bởi họ chẳng còn biết tin ai. Họ vái lạy trời, lạy đất, lạy âm binh,
ma quỷ, thành hoàng mở cho họ một con đường để được sống. Họ vái lạy như là một
hành động cầu may để có một con đường thoát.
Họ cần một
sinh lộ bởi họ không còn tin vào những lời hứa của con người nữa.
Trước tình
trạng người dân rời thành phố về quê, lãnh đạo thành phố phát biểu thấy có
trách nhiệm chưa chăm lo chu đáo cho bà con. Đại diện cho chính quyền thành phố
còn cho rằng bất cứ người dân nào đến với thành phố vì bất cứ lý do nào, thành
phố đều trân trọng đón tiếp và thực sự chăm sóc để họ có điều kiện tốt nhất khi
ở đây. Đối với người lao động, thành phố lại càng trân trọng vì chính họ góp phần
phát triển kinh tế thành phố. Vì vậy, thành phố luôn tạo điều kiện tốt nhất cho
người lao động, luôn tìm những giải pháp tốt nhất để chăm lo cho người lao động,
vì họ xứng đáng được như thế. Thành phố tạo điều kiện tốt nhất cho người dân
các tỉnh ở lại.
Nói hay
quá, tình cảm quá, xúc động quá. Nhưng rất tiếc, dân nghe những lời như thế nhiều
lần quá rồi. Dân đã chờ, dân đã mong, dân đã đợi chính quyền thực hiện những điều
đã nói bằng hành động. Nhưng làm không tròn, nhưng không đúng như lời hứa. Nên
dân chẳng còn tin, dân không còn sức đâu để đợi, nên dân phải dứt áo ra về. 120
ngày chờ mong sự giúp đỡ mà không thấy. Giờ với lời hứa sẽ tạo điều kiện tốt nhất
sẽ chờ đến thêm bao tháng nữa? Nằm ở vỉa hè chờ sao? Nhịn ăn để chờ sao? Tin được
nữa không?
Nhiều người
đi về khi trong túi chỉ còn 50.000 đồng sau khi đã tốn hết tiền xét nghiệm để
có tấm giấy đi đường. Có cặp vợ chồng, vợ mang bầu 8 tháng chở nhau về trên chiếc
xe đạp với con đường hàng trăm cây số với vẻn vẹn có 100.000 đồng làm lộ phí.
Không biết người sản phụ ấy có đẻ rớt con giữa lộ không nếu như không gặp người
thấy tình cảnh của họ mà gởi cho 5 triệu đồng. Vợ chồng, con cái đèo nhau trên
một chiếc xe với lỉnh kỉnh đồ đạc, tiền cũng đã cạn rồi, con đường về còn xa,
còn qua biết bao nhiêu trạm, không biết rồi có về được quê nhà không? Những đứa
trẻ đang còn ẵm ngửa vẫn phải chịu đựng với nắng mưa và gió bụi. Gia tài nhiều
khi chỉ là cái quạt máy hay chỉ là đống móc áo. Gia sản chỉ gói gọn trên chiếc
xe. Có người còn đạp xe đạp để làm chuyến đi về. Có cả gia đình lếch thếch đi bộ
về, quê nhà xa quá, đi bao giờ mới đến? Họ biết bao gian nan, nguy hiểm trên đường
đang chờ chực nhưng vẫn quyết đi vì không còn con đường nào khác.
Từ cuộc
chiến tranh chống Pháp cho đến chiến tranh Nam Bắc kéo dài mấy chục năm. Người
Việt đã bao lần tản cư, di cư, sơ tán rồi di tản. Tất cả đều tránh né để trốn
chạy đạn bom, để tìm một nơi chốn yên bình trong thời chiến. Giờ đây, chiến
tranh đã qua gần nửa thế kỷ rồi, thời đi ra biển để tìm bến bờ khác cũng chấm dứt
lâu rồi. Thế nhưng người ta vẫn chứng kiến những đợt di tản nối tiếp nhau trong
cơn đại dịch. Những cuộc trở về để sinh tồn, để được còn được miếng ăn, được sống
cùng gia đình, người thân, với ruộng đồng ao cá dù giờ đây làng xóm chẳng còn
được như xưa. Về để quên đi những lời hứa vì chẳng còn hi vọng, để trốn chạy những
thực tế phũ phàng. Đó cũng là hình thức phản kháng của người dân khi mất lòng
tin.
Trong cơn
đại dịch đã mang lại biết bao đau thương và mất mát. Cơn đại dịch cũng còn mang
đến hội chứng về quê và sự khủng hoảng lòng tin. Suy sụp kinh tế rồi thời gian
sẽ phục hồi. Mất lòng tin khó lòng lấy lại.
3.10.2021
DODUYNGOC
Hình cuối
bài : https://www.facebook.com/doduyngoc/posts/10158553019533635
.
.
Cảm ơn anh đã nói lên tất cả
YOUTUBE.COM
Ly Kỳ Cả
Nhà 5 Người Đi Bộ Trên Đường "Tẩu Thoát " Về Miền Tây Trong Túi Chỉ
Còn 30 Ngàn Đồng
Ly Kỳ Cả Nhà 5 Người Đi Bộ Trên Đường "Tẩu Thoát " Về
Miền Tây Trong Túi Chỉ Còn 30 Ngàn Đồng
No comments:
Post a Comment