Wednesday, 6 October 2021

HỘI CHỨNG MỘNG DU TRUNG QUỐC (Joseph S. Nye, Jr.  -  Project-Syndicate)

 


Hội chứng mộng du Trung Quốc

Joseph S. Nye, Jr.  -  Project-Syndicate

Đỗ Kim Thêm, dịch thuật

06/10/2021

https://baotiengdan.com/2021/10/06/hoi-chung-mong-du-trung-quoc/

 

Nếu mối quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ là một ván bài, thì người Mỹ sẽ nhận ra rằng  họ đã được một lá bài tốt và tránh khuất phục trước nỗi sợ hải hay niềm tin vào sự suy tàn của Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một lá bài tốt cũng có thể thua, nếu chơi tệ.

 

Khi chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden thực hiện chiến lược cạnh tranh đại cường với Trung Quốc, các nhà phân tích tìm các phép ẩn dụ trong lịch sử để giải thích tình trạng cạnh tranh ngày càng sâu sắc. Nhưng trong khi nhiều người  dựa vào sự khởi đầu của Chiến tranh Lạnh, thì một ẩn dụ lịch sử đáng lo ngại hơn là sự bắt đầu của Thế chiến thứ nhất. Năm 1914, tất cả các cường quốc đều mong rằng cuộc chiến Balkan lần thứ ba là ngắn ngủi. Thay vào đó, như nhà sử học người Anh Christopher Clark đã chỉ ra rằng, các cường quốc bị mộng du bước vào một trận đại chiến kéo dài bốn năm, phá hủy bốn đế chế và giết chết hàng triệu người.

 

Hồi đó, các nhà lãnh đạo không quan tâm đúng mức đến những thay đổi trong trật tự quốc tế từng được gọi là “buổi hòa nhạc của châu Âu”. Một thay đổi quan trọng là sức mạnh ngày càng tăng của chủ nghĩa dân tộc. Ở Đông Âu, chủ nghĩa Pan-Slav đã đe dọa cả đế chế Ottoman và Áo-Hung, những đế chế có nhiều dân số thuộc Nam Tư. Các tác giả người Đức đã viết về các trận chiến không thể tránh khỏi giữa người Teutonic-Slav, và sách giáo khoa đã làm bùng lên ngọn lửa dân tộc chủ nghĩa. Tinh thần dân tộc được chứng minh là mối ràng buộc bền chặt hơn chủ nghĩa xã hội đối với các tầng lớp lao động ở châu Âu và là mối ràng buộc bền chặt hơn chủ nghĩa tư bản đối với các chủ ngân hàng của châu Âu.

 

Hơn nữa, có một sự tự mãn ngày càng tăng về hòa bình. Các cường quốc đã không tham gia vào một cuộc chiến tranh ở châu Âu trong 40 năm. Tất nhiên, đã có những cuộc khủng hoảng – ở Maroc năm 1905-06, ở Bosnia năm 1908, ở Maroc một lần nữa vào năm 1911, và các cuộc chiến tranh Balkan năm 1912-13 – nhưng tất cả đều có thể kiểm soát được. Tuy nhiên, các thỏa hiệp ngoại giao giải quyết những xung đột này đã gây ra sự thất vọng và sự ủng hộ ngày càng tăng đối với chủ nghĩa xét lại. Nhiều nhà lãnh đạo tin rằng kẻ mạnh giành được thắng lợi trong một cuộc chiến ngắn mang tính quyết định, sẽ là một sự thay đổi đáng hoan nghênh.

 

Nguyên nhân thứ ba dẫn đến sự mất linh hoạt trong trật tự quốc tế đầu thế kỷ XX là chính sách của Đức, vốn đầy tham vọng nhưng mơ hồ và khó hiểu. Có một sự vụng về khủng khiếp về việc theo đuổi quyền lực của Wilhelm II, Hoàng đế Đức. Có thể thấy điều gì đó tương tự với “Giấc mơ Trung Hoa” của Chủ tịch Tập Cận Bình, việc ông từ bỏ phương cách kiên nhẫn của Đặng Tiểu Bình và chính sách ngoại giao “chiến binh sói” thái quá mang tính dân tộc của Trung Quốc.

 

Ngày nay, giới hoạch định chính sách phải cảnh giác trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc, cũng như chủ nghĩa sô vanh dân túy ở Hoa Kỳ. Kết hợp với chính sách đối ngoại hiếu chiến của Trung Quốc, lịch sử của các bế tắc và những thỏa hiệp không thỏa đáng đối với Đài Loan, triển vọng của tình trạng leo thang khinh suất  giữa hai cường quốc vẫn tồn tại. Như Clark đã đề cập, một khi những thảm họa như Thế chiến thứ nhất xảy ra, “chúng áp đặt cho chúng ta (hoặc dường như làm như vậy) một cảm giác về sự cần thiết chúng”. Nhưng năm 1914, Clark kết luận, “tương lai vẫn còn rộng mở – chỉ đúng như vậy. Đối với tất cả những khó khăn của các mặt trận ở cả hai phe có vũ trang của châu Âu, đã có những dấu hiệu cho thấy thời điểm cho một cuộc đối đầu trọng đại có thể sắp qua“.

 

Một chiến lược thành công phải ngăn ngừa hội chứng mộng du. Năm 1914, Áo chán ngấy chủ nghĩa dân tộc mới nổi của Serbia. Việc một tên khủng bố người Serbia ám sát một hoàng tử người Áo là một cái cớ hoàn hảo cho một tối hậu thư. Trước khi đi nghỉ  hè, hoàng đế Đức đã quyết định ngăn chặn một nước Nga đang trỗi dậy và ủng hộ đồng minh Áo của mình bằng cách cấp cho Áo một công hàm ngoại giao ủng hộ vô điều kiện. Khi ngài trở về và biết được Áo đã thực hiện như thế nào, ngài đã cố gắng thu hồi bản văn, nhưng đã quá muộn.

 

Mỹ hy vọng sẽ ngăn chặn việc sử dụng vũ lực của Trung Quốc và duy trì sự lấp lửng về mặt pháp lý đối với Đài Loan, nơi mà Trung Quốc coi là một tỉnh nổi loạn. Trong nhiều năm, chính sách của Hoa Kỳ đã được soạn thảo để ngăn chặn việc Đài Loan tuyên bố độc lập về mặt pháp lý cũng như việc Trung Quốc sử dụng vũ lực đối với hòn đảo này. Ngày nay, một số nhà phân tích cảnh báo rằng, hai chính sách răn đe song hành này đã lỗi thời, vì sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc có thể cám dỗ các nhà lãnh đạo của họ hành động.

 

Những người khác tin rằng, một sự bảo đảm hoàn toàn với Đài Loan hoặc ám chỉ rằng, Mỹ đang đi theo hướng đó sẽ kích động cho Trung Quốc hành động. Nhưng ngay cả khi Trung Quốc né tránh một cuộc xâm lược quy mô toàn diện và chỉ cố gắng ép buộc Đài Loan bằng cách phong tỏa hoặc bằng cách chiếm một trong những hòn đảo ngoài khơi của họ, nguy cơ chiến tranh vẫn sẽ bùng nổ nếu có một sự cố liên quan đến các tàu hoặc máy bay dẫn đến thiệt hại về nhân mạng. Nếu Mỹ phản ứng bằng cách đóng băng tài sản hoặc viện dẫn Đạo luật giao dịch với kẻ thù, cuộc chiến ẩn dụ của hai nước có thể nhanh chóng trở thành hiện thực. Bài học của năm 1914 là cảnh giác với chứng mộng du, nhưng chúng không đưa ra giải pháp để giải quyết vấn đề Đài Loan.

 

Một chiến lược thành công của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc bắt đầu từ trong nước. Nó đòi hỏi phải duy trì các thể chế dân chủ thu hút thay vì ép buộc các đồng minh, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển để duy trì lợi thế công nghệ của Mỹ và duy trì sự cởi mở của Mỹ với thế giới. Đối với bên ngoài, Mỹ nên tái cấu trúc các lực lượng quân sự kế thừa của mình để thích ứng với sự thay đổi công nghệ; củng cố các cấu trúc liên minh, bao gồm NATO và các thỏa thuận với Nhật Bản, Australia và Hàn Quốc; tăng cường mối quan hệ với Ấn Độ; củng cố và bổ sung các thể chế quốc tế mà Mỹ đã giúp tạo ra sau Thế chiến thứ hai để thiết lập các tiêu chuẩn và quản lý sự phụ thuộc lẫn nhau; và hợp tác với Trung Quốc, nếu có thể được, về các vấn đề xuyên quốc gia. Cho đến nay, chính quyền Biden đang theo một chiến lược như vậy, nhưng năm 1914 là một lời nhắc nhở thường xuyên về sự thận trọng.

 

Trong tương lai gần, với các chính sách quyết đoán của Tập, Hoa Kỳ có thể sẽ phải dành nhiều thời gian hơn cho sự quân bình trong cạnh tranh. Tuy nhiên, một chiến lược như vậy có thể thành công, nếu Mỹ tránh được tư tưởng ma quỷ hóa và những suy diễn tương tự sai lầm như trong  thời Chiến tranh Lạnh, đồng thời duy trì các liên minh của mình. Năm 1946, George Kennan đã tiên đoán chính xác về một cuộc đối đầu kéo dài hàng thập niên với Liên Xô. Mỹ không thể kiềm chế Trung Quốc, nhưng có thể hạn chế lựa chọn của Trung Quốc bằng cách định hình môi trường mà nước này trỗi dậy.

 

Nếu mối quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ là một ván bài, thì người Mỹ sẽ nhận ra rằng  họ đã nhận được một lá bài tốt và tránh khuất phục trước nỗi sợ hãi hay niềm tin vào sự suy tàn của Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một lá bài tốt cũng có thể thua nếu chơi tệ.

 

                                                         ***

Joseph S. Nye, Jr. là Giáo sư Đại học Harvard và tác giả sách: Do Morals Matter? Presidents and Foreign Policy from FDR to Trump.

 

.

NGUỒN :

 

The China Sleepwalking Syndrome  

Oct 4, 2021

Joseph S. Nye, Jr.

Project Syndicate 

 

 

=================

 

MỘT BẢN DỊCH KHÁC

 

Tại sao chiến tranh Mỹ – Trung vẫn có thể xảy ra?

Nguồn: Joseph Nye, “The China Sleepwalking Syndrome”, Project Syndicate, 04/10/2021.

Biên dịch: Trần Hùng

http://nghiencuuquocte.org/2021/10/06/tai-sao-chien-tranh-my-trung-van-co-the-xay-ra/

 




No comments:

Post a Comment

View My Stats