Thiện Ý
12/08/2019
Vì sao Việt quốc chống cộng, từ khi nào và cho đến
bao giờ? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi lần lượt trình bày:
·
Việt quốc và Việt cộng là ai?
·
Vì sao Việt Quốc chống cộng?
·
Việt quốc chống cộng từ khi nào và cho đến bao giờ?
I - VIỆT QUỐC VÀ VIỆT CỘNG LÀ AI?
Để trả lời câu hỏi này và để tránh hiểu lầm với ý
nghĩ từ ngữ Việt Quốc viết tắt của Việt Nam Quốc Dân Đảng, cần định nghĩa “Việt
quốc” và “Việt Cộng”được dùng trong bài này cùng các bài viết bao lâu nay của
chúng tôi, để thấy rõ vì sao có cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng tại Việt Nam
kéo dài nhiều thập niên qua vẫn chưa chấm dứt. Theo chúng tôi:
1
- Việt quốc bao gồm các chính quyền, các chính đảng quốc gia và
quần chúng nhân dân có ý thức và hành động chống cộng. Nói cách khác Việt
quốc là những người Việt Nam không cộng sản, theo “ý thức hệ quốc gia”,
tôn thờ Tổ Quốc Việt Nam, coi quyền lợi dân tộc Việt Nam là tối thượng, kế thừa
sự nghiệp dựng nước và giữ nước của lịch sử Việt Nam, khởi đi từ Thời Hồng Bàng
với các Vua Hùng dựng nước Văn Lang (tên cổ xưa của Việt Nam), qua các
triều đại độc lập tự chủ do các vua quan Việt Nam cai trị đất nước (Đinh,
Lê, Lý, Trần…) hay những thời kỳ dài ngắn bị ngoại bang xâm chiếm đô hộ
(1000 năm Bắc thuộc, gần 100 năm Pháp thuộc), với các anh hùng hào kiệt
đã lãnh đạo nhân dân chống ngọai xâm, giành và giữ độc lập, tự chủ cho dân tộc,
viết nên những trang sử oai hùng và vẻ vang cho dân tộc Việt (như Ngô Quyền,
Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt , Quang Trung, Phan Đình
Phùng, Cao Thắng, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Thái Học…).
2
- Việt cộng bao gồm đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), các chính quyền và quần
chúng nhân dân có ý thức và hành động tri tình ủng hộ cộng sản (khác với bất đắc dĩ, bị ép buộc phải theo CS). Nói cách khác, Việt
cộng là những người Việt Nam theo Ý thức hệ cộng sản, tôn thờ “Tổ quốc Xã Hội
Chủ Nghĩa” (Liên Xô đứng đầu Đệ tam quốc tế CS…), coi lợi ích quốc tế
cộng sản là tối thượng, kế thừa thành quả đấu tranh giai cấp và tiếp tục thực
hiện “chiến tranh cách mạng vô sản”, dưới ngọn cờ “chiến tranh giải
phóng dân tộc” (ngụy dân tộc) để cướp chính quyền, thực hiện chủ
nghĩa xã hội, mở mang bờ cõi cho các tân đế quốc đỏ Nga-Tầu, cộng sản hóa Việt
Nam cũng như toàn cầu, tách khỏi và chống lại dòng chính lịch sử dân tộc, xóa bỏ
ranh giới quốc gia để hội nhập vào một “Thế giới đại đồng”(cộng sản
chủ nghĩa)…
II - VÌ SAO VIỆT QUỐC CHỐNG CỘNG?
Việt quốc chống cộng, vì:
1
- Trên bình diện lý luận: Chủ nghĩa cộng sản dù có là một
lý tưởng nghe qua có vẻ nhân đạo, cao đẹp, có tính mê hoặc lòng người, nhất là
những người trẻ tuổi vốn say mê lý tưởng cao cả khi vào đời. Thế nhưng không tưởng
theo nghĩa một lý tưởng không thể, không bao giờ thực hiện được. Vì vậy, những
cá nhân (đảng viên cộng sản) hay tập đoàn (đảng cộng sản) ở
bất cứ quốc gia nào, khi vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào thực tiễn đã chỉ là
tai họa thảm khốc, xung đột giai cấp, chiến tranh hận thù, tiêu hủy tài nguyên
quốc gia, tàn phá đất nước, hủy hoại mọi nền tảng đạo đức xã hội, văn hóa dân tộc,
mất độc lập tự chủ (vì lệ thuộc cộng sản quốc tế…), đưa nhân
dân vào cuộc sống mất tự do, đói khổ, lầm than, di hại nghiêm trọng, toàn diện
và lâu dài cho nhiều thế hệ nhân dân, phân hóa dân tộc… của quốc gia ấy.
Rốt cuộc, cái gọi là “cuộc cách mạng vô sản”
để xây dựng “một xã hội không người bóc lột người” (từ xã hội chủ
nghĩa, còn giai cấp, đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, không còn giai cấp, không
còn nhà nước…), tất cả chỉ là chiêu bài lừa mị của một tập đoàn thống
trị độc quyền, độc tôn, độc tài (đảng cộng sản) để xây dựng “một
xã hội người (với thiểu số cán bộ đảng viên CS) độc quyền
áp bức bóc lột người ( tuyệt đại đa số nhân dân)”. Một sự độc
quyền áp bức bóc lột tinh vi và tàn ác chưa từng có trong lịch sử hình thành
các hình thái xã hội loài người có giai cấp (xã hội cộng sản nguyên thủy,
xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản… theo duy vật sử quan
cộng sản).
2
- Trên bình diện thực tiễn: Việt cộng nói riêng, cộng sản
quốc tế nói chung, đã tin theo và vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào thực tế nước
ta (cũng như một số nước khác trên thế giới), đã gây tác hại
nghiêm trọng, toàn diện, di hại lâu dài trên con người, dân tộc và đất nước Việt
Nam trong nhiều thập niên qua và còn di hại lâu dài cho dân tộc và đất nước Việt
Nam qua nhiều thế hệ sau này.Và do đó, thời hậu cộng sản nhân dâ Việt Nam sẽ phải
mất nhiều thời gian mới có thể khắc phục, phục hồi và ổn định phát triển toàn
diện.
-
Vì tin và hành động theo “ý thức hệ cộng sản” Việt cộng đã đánh mất bản sắc dân tộc, tách rời khỏi lịch sử chính
thống quốc gia Việt Nam và dùng “Tính giai cấp” và lăng kính “đấu
tranh giai cấp” để phê phán chủ quan, không trung thực về các triều đại và
các anh hùng hào kiệt của lịch sử Việt Nam, xuyên tạc lịch sử và chối bỏ Tổ Quốc
Việt Nam, để chọn và tôn thờ cái gọi là “Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Liên Xô”
là tổ quốc của mình. Và vì vậy cộng sản Việt Nam sẵn sàng hy sinh quyền lợi của
Tổ Quốc và dân tộc Việt Nam cho quyền lợi của đảng CSVN và quốc tế cộng sản, cụ
thể là hai tân đế quốc CS Nga-Tàu (công cụ tri tình cho quốc tế CS
trong Thời kỳ Chiến tranh ý thứ hệ toàn cầu..,).
-
Vì chủ trương hận thù và đấu tranh giai cấp làm động
lực, Việt cộng đã phá đổ mọi quan hệ xã hội nhân bản vốn tốt đẹp giữa người với
người, đã không ngần ngại thủ tiêu, bắn giết và làm mọi điều tàn ác với con người;
dù là những người anh em cùng mầu da sắc máu, chung nguồn gốc Việt tộc với họ,
theo phương châm “cứu cánh biện minh cho hành động” như VC đã làm
trong giai đoạn chiến tranh Quốc Cộng vừa qua .Điển hình cao độ là đấu tố dã
man ở Miền Bắc sau Hiệp định Genève 1954 chia đôi đất nước; đã tàn sát, chôn sống
hàng ngàn quân dân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa, trong biến cố Tết Mậu Thân
1968 ở Huế và nhiều hành động tán ác khác như pháo kích hàng đêm vào các thành
thị giết hại dân lành, đặt chất nổ để khủng bố, phá hoại trong suốt cuộc chiến
tranh Quốc- Cộng ở Miền Nam (1954-1975) và sau cuộc chiến( tập
trung đầy ải hàng ngàn quân cán chính VNCH trong các trại tù cải tạo…)
-
Vì chủ trương vô thần, chết là hết, nên Việt cộng
không sợ hậu quả, đã thẳng tay đàn áp những người dân hữu thần, dùng mọi thủ đoạn,
phương cách dù bất nhân, tàn bạo nhằm tiêu diệt mọi tín ngưỡng, tôn giáo, vốn
là nhu cầu tinh thần quan yếu trong đời sống tâm linh của con người, và là một
thực thể xã hội góp phần quan trọng vào nền đạo đức xã hội nhân bản qua mọi thời
đại.
Thực
tế là, sau khi nắm được quyền thống trị toàn đất nước hơn 44 năm qua(1975-2019) và trước đó trên một nửa nước Miền Bắc (1954-1975),
đảng CSVN đã áp đặt một chế độ độc tài toàn trị, với một đảng duy nhất nắm quyền
thống trị (đảng CSVN) với một nhà nước “Chuyên chính
vô sản” (tức độc tài cộng sản) bác đoạt quyền tự do, dân chủ và
các nhân quyền cơ bản của nhân dân, thông qua “ một chính quyền của đảng,
do đảng và vì đảng cộng sản Việt Nam”. Việt cộng đã sử dụng quân đội, công
an, luật pháp, tòa án, nhà tù, pháp trường… như những công cụ của “chế
độ độc tài toàn trị CS” để trấn áp nhân dân, duy trì và bảo vệ quyền cai trị
độc tài, độc tôn, độc quyền với những ưu quyền đặc lợi của một giai cấp thống
trị mới (giai cấp cán bộ đảng viên cộng sản), chia nhau nắm quyền, ăn
chia lợi ích ở các cấp, các ngành trong bộ máy đảng và bộ máy nhà nước. Nghĩa
là một giai cấp thiểu số (khoảng 3-4 triệu đảng viên CS) bằng bạo lực của
nòng súng lưỡi lê, công an trị, để thống trị trên tuyệt đại đa số nhân dân Việt
Nam (trên 90 triệu dân) từ thượng tầng quốc gia đến hạ tầng cơ sở.
Đó
là những lý do khái quát, căn bản trên bình diện lý luận và thực tiễn, khiến Việt quốc, là những người Việt Nam theo ý thức hệ quốc gia, hay
là những người Việt Nam không cộng sản, từ quá khứ đến hiện tại, từ trong nước
ra hải ngoại, đã và vẫn đang tiếp tục con đường chống cộng trường kỳ cho đến
ngày thành đạt mục tiêu lý tưởng tối hậu của mình là dân chủ hóa đất nước. Vậy
thì…
III - VIỆT QUỐC CHỐNG CỘNG TỪ KHI NÀO VÀ CHO ĐẾN BAO GIỜ
?
Có thể nói, kể từ khi “ý thức hệ cộng sản” du
nhập vào Việt Nam trong những thập niên đầu Thế Kỷ 20, nhưng rõ rệt là kể từ
khi đảng Cộng sản Việt Nam xuất hiện chính thức trên chính trường Việt Nam.
Nghĩa là sau khi ông Hồ Chí Minh được huấn luyện và đào tạo từ lò cộng sản
Moskva, nhận chỉ thị của Đệ tam Quốc tế Cộng sản Nga trở về Hong Kong họp Đại Hội
thống nhất ba đảng Marxist thành lập trước đó (Đông Dương Cộng sản Đảng,
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn và An Nam Cộng sản đảng) thành đảng Cộng sản
Việt Nam (CSVN) vào ngày 3 tháng 2 năm 1930. Và có thể coi công cuộc chống cộng
từ ý thức đến hành động, cũng khởi đi từ đó, nhằm thành đạt các mục đích chống
cộng của từng giai đọan, tiến tới thành đạt mục tiêu chống cộng tối hậu là đánh
bại chủ nghĩa cộng sản trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn, để xây dựng
một chế độ tự do dân chủ đích thực theo đúng ý nguyện và vì lợi ích của toàn thể
quốc dân Việt Nam.
Như vậy, cộng cuộc chống cộng có thể chia làm ba
giai đoạn. Trong phạm vi một bài nhận định tổng quát chúng tôi chỉ có thể trình
bầy khái quát như sau:
1
- Tiền chiến tranh Quốc-Cộng: (1930 -1954)
Đây
là giai đọan chống cộng đầu tiên, diễn ra trong thời kỳ kháng chiến chống ách
thống trị của thực dân Pháp giành độc lập dân tộc. Các thế hệ Việt Nam theo ý thức hệ quốc gia đã chống cộng nhằm ngăn
chặn một hiểm họa hậu Pháp thuộc: Hiểm họa cộng sản hóa Việt Nam.
Bởi vì trong giai đoạn này, lực lượng được coi là
lãnh đạo chống cộng, bao gồm các chính đảng quốc gia (Việt Nam Quốc Dân Đảng,
Việt Nam Độc Lập, Việt Nam Cách Mạng Đảng tức Phục Việt, Đại Việt Quốc Xã, Đại
Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Ái Quốc Đảng, Nhân Xã Đảng…) và một số nhà trí
thức, thân hào nhân sĩ yêu nước tiên tiến tiêu biểu như Hùynh Thúc Kháng, Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh… Họ đã thấy được ý đồ của ông Hồ và Cộng đảng Việt Nam
chỉ là lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân, thông qua cuộc kháng chiến chống
Pháp như một phương tiện, không phải để giành độc lập cho dân tộc Việt Nam, mà
làm nhiệm vụ của cộng sản quốc tế, giành thuộc địa kiểu mới cho các tân đế quốc
đỏ Nga -Tầu, nhuộm đỏ đất nước và nô dịch hóa nhân dân Việt Nam.
Vì
thế, mục tiêu chống cộng giai đoạn này là làm sao
cho quần chúng Việt Nam thấy được hiểm họa cộng sản, không tin,
không theo, không để cho ông Hồ và Cộng đảng Việt Nam lợi dụng của cải, xương
máu và lòng yêu nước chống ngọai xâm của mọi tầng lớp nhân; để dùng kháng
chiến như phương tiện, không phải để giành độc lập cho dân tộc, mà giành “Thuộc
địa kiểu mới” cho các “Tân Đế Quốc Đỏ Nga –Tầu” thực hiện “Chủ
nghĩa thực dân kiểu mới” của cộng sản quốc tế.
Cuộc phân tranh Quốc - Cộng lúc này diễn ra âm thầm
nhưng không kém phần quyết liệt, giữa một bên là các chính đảng Quốc gia và các
thân hào nhân sĩ yêu nước, bên kia là đảng CSVN. Đôi bên Quốc-Cộng phân tranh
nhằm tiêu diệt nhau và thu phục, lôi kéo nhân dân theo và nhận chịu sự lãnh đạo
của mình. Cuộc phân tranh Quốc-Cộng giai đọan này, lúc đầu chủ yếu diễn ra trên
mặt trận tư tưởng, tuyên truyền chính trị, nhằm lôi kéo quần chúng Việt Nam tin
theo và tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự lãnh đạo của mình.
Tuy
nhiên, vào thời khoảng cuối cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954), sau khi Nhật bại trận trong Thế Chiến
Thứ II, phải trao trả độc lập cho Việt Nam. Lúc đó, Cộng Đảng Việt Nam
đứng đầu là ông Hồ Chí Minh, dù thế yếu so với các chính đảng quốc gia, song nhờ
thủ đọan khôn khéo và tính tổ chức, tinh thần kỷ luật và tính cách mạng cao của
một đảng Marxist-Leninnist, nên đã cướp thời cơ, giành được chính quyền nhiều
nơi trên cả nước (Cách mạng Tháng 8 -1945). Nhưng vì thực lực
và tình hình thực tế quốc nội cũng như quốc tế lúc đó, chưa cho phép đảng CSVN
lộ rõ nguyên hình và độc chiếm chính quyền, nên ông Hồ đã phải thành lập một
chính phủ, quốc hội liên hiệp Quốc-Cộng, sọan thảo và ban hành một bản Hiến
Pháp năm 1946 thiết lập chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (giả
hiệu: ngụy cộng hòa, ngụy dân chủ…) mang tính “Dân chủ tư sản”, chứ
chưa dám thiết lập “Chế độ chuyên chính vô sản” tức “độc tài tòan trị
cộng sản”. Ngay cả đảng CSVN lúc đó cũng phải tuyên bố tự giải tán. Mãi sau
này, khi nắm được quyền thống trị nửa nước Miền Bắc, cũng vẫn phải gọi tên đảng
CSVN trá hình là “Đảng Lao Động Việt Nam” chứ chưa dám xưng danh “Đảng
Cộng sản Việt Nam”. Đồng thời cũng vẫn phải giữ bảng hiệu chế độ “Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa” cho đến khi đã thôn tính được Miền Nam vào 30-4-1975,
thống trị cả nước, sau đó mới dám trương bảng hiệu “Đảng CSVN” và chế độ
“Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (giả danh và giả nghĩa).
Sở
dĩ Việt cộng phải trá hình như thế, là vì thời khoảng những năm đầu sau Thế Chiến
II, cộng sản đang bị thế giới coi là một hiểm họa toàn cầu. Trong khi tại Việt Nam quần chúng chưa biết gì nhiều về cộng sản. Những
người biết thì rất sợ chủ nghĩa tam vô (vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo),
nên ông Hồ và Cộng đảng Việt Nam đã phải ngụy trang bằng mọi cách và khai thác
triệt để lòng yêu nước chống ngoại xâm của toàn dân và lòng căm thù giai cấp
trong một số bộ phận nhân dân (Công nhân với chủ tư bản, Nông dân căm thù địa
chủ, cường hào ác bá ở nông thôn…).
Trên thực tế, đôi lúc đã có những cuộc xung đột võ
trang giữa các đảng phái quốc gia và Cộng đảng Việt Nam, gây tổn thất nhân mạng
cho cả đôi bên. Riêng Cộng đảng Việt Nam, ngòai các họat động tuyên truyền, thủ
đoạn lừa mị tinh vi để lôi kéo quần chúng, họ còn sử dụng các hình thức khủng bố,
thủ tiêu những ai không theo hay chống lại họ. Một số nhà ái quốc Việt Nam đã bị
CSVN thủ tiêu trong giai đọan này như lãnh tụ Đại Việt Quốc Dân Đảng Trương Tử
Anh, hay các nhân sĩ ái quốc như Khái Hưng, Hòang Đạo, Ngô Đình Khôi và nhiều
nhà lãnh đạo tôn giáo ái quốc khác theo ý thức hệ quốc gia như Giáo chủ Phật
giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, Hội thánh Cao Đài Tây Ninh Phạm Công Tắc…
Kết
quả của cuộc phân tranh Quốc - Cộng giai đọan này, Quốc thua, Cộng thắng. Là vì mục tiêu chống cộng giai đoạn này đã không đạt được: Việt quốc
không những đã không ngăn chặn được hiểm họa CS trong ý thức quần chúng, mà thực
tế đã để đảng CSVN dưới mặt nạ Việt Minh (viết tắt “Việt Nam Độc lập Đồng minh
hội” một tổ chức do Cộng đảng dựng lên) nắm quyền chủ đạo kháng chiến trong
thời kỳ chót của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954).Với chiến thắng
Điện Biên Phủ Việt Minh (Việt cộng) đã cướp được chính quyền trên một nửa
thuộc địa Bắc Việt của Pháp, làm hậu phương phát động và tiến hành chiến tranh
nhuôm đỏ Miền Nam.
2
- Chiến tranh Quốc-Cộng (1954 – 1975)
Vì giai đoạn 1, phe Quốc gia đã thất bại trong mục
tiêu chống cộng để ngăn chặn hiểm họa Cộng sản từ xa, khi Cộng đảng VN chưa
giành được lãnh thổ để thiết lập một chính quyền “Chuyên Chính Vô Sản” (tức
độc tài toàn trị cộng sản), thực hiện chủ nghĩa Cộng sản.
Vì thế cho nên cuộc trường chinh chống cộng phải tiếp
tục chặng đường chống cộng giai đoạn hai (1954 – 1975) trong khung cảnh
một thế chiến lược quốc tế mới hình thành sau Thế Chiến II (Chiến tranh ý thức
hệ Cộng sản chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa) và trong thực trạng một đất nước
chia hai, theo sự áp đặt của các cường quốc có ảnh hưởng, thông qua Hiệp Định
Genève 1954. Hiệp định này được ký giữa Pháp (quân cướp nước) với Việt
Minh, mặt nạ của Việt cộng (Phường bán nước cho cộng sản quốc tế Nga-Tàu) sau
khi Pháp thất trận Điện Biên Phủ, nên chỉ có ý nghĩa như là thực dân Pháp mất một
nửa thuộc địa Miền Bắc vào tay Việt cộng; còn nửa nước Miền Nam, thực dân pháp
phải trao trả độc lập hoàn toàn, sau khi đã trao trả độc lập từng phần từ năm
1948 cho chính quyền chính thống quốc gia của Vua Bảo Đại, sau cùng là chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa kế tục chính danh quyền bính quốc gia của bên Việt quốc.
Cuốc chiến tranh ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa và tư
bản chủ nghĩa mang tính toàn cầu hình thành sau Thế Chiến II, diễn ra dưới hai
hình thái Chiến Tranh Lạnh giữa các mước giầu, và chiến tranh nóng nơi một số
nước nghèo, có số phận không may như Việt Nam. Vì thế Việt quốc ở Miền Nam được
‘phe tư bản chủ nghĩa” chọn là “Tiền đồn Thế Giới tự do” và
Việt cộng ở Miền Bắc được ‘phe xã hội chủ nghĩa” (hay cộng sản
quốc tế) chọn là “tiền phương phe xã hội chủ nghĩa” làm “nhiệm vụ
quốc tế cao cả” là phát động “Chiến tranh cách mạng” để nhuộm đỏ
toàn cõi Việt Nam và các quốc gia trong vùng. Từ đó, đất nước Việt Nam trở
thành bãi chiến trường, nhân dân hai miền Bắc-Nam như bia đỡ đạn cho các thế lực
khuynh đảo quốc tế tranh dành ảnh hưởng và lợi ích quốc gia của họ, với lợi ích
trước mắt là tiêu thụ cho hết lượng vũ khí đạn dược tồn đọng sau thế chiến II
và thử nghiệm thêm các loại vũ khí mới…
Tại Miền Bắc, ông Hồ và Cộng đảng Việt Nam, sau khi
chiếm được một nửa đất nước, đã xây dựng và củng cố một chế độ độc tài toàn trị
cộng sản, theo mẫu mực của đế quốc Đỏ hàng đầu Liên Xô thời bấy giờ. Tuy nhiên,
để che đây thực chất này, Hồ Chí Minh và Cộng đảng Việt Nam đã dùng lại danh
xưng chế độ “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” của bản Hiến pháp 1946, ban
hành sau khi Nhật bại trận trong Thế Chiến II (1939-1945), buộc phải
trao trả độc lập cho Việt Nam. Nay để tiếp tục làm nhiệm vụ quốc tế cộng sản, cộng
sản Bắc Việt đã làm nhiệm vụ tên lính xung kích của cộng sản quốc tế (Nga-Tầu),
phát động cuộc chiến “Nồi da xáo thịt” nhằm thôn tính nhuộm đỏ Miền Nam,
vùng đất tự do của quốc gia Việt Nam, với chính quyền chính thống, chính danh
Việt Nam Cộng Hòa.
Trong khi đó tại Miền Nam, chính quyền Việt quốc (Việt
Nam Cộng hòa) trong tư thế chính thống, chính danh, có chính nghĩa, kế tục
quyền lực quốc gia, tiếp nhận độc lập chủ quyền từ tay thực dân Pháp trên một nửa
đất nước ở Miền Nam, kiến tạo một chế độ dân chủ pháp trị (Việt nam Cộng hòa)
hình thành sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955 truất phế Vua Bảo Đại, cáo
chung chế độ quân chủ chuyên chế Việt Nam, thiết lập chế độ cộng hòa với chủ
quyền quốc gia thuộc về toàn dân, đáp ứng đúng ý nguyện của nhân dân Việt Nam.
Trong
giai đoạn này, cả hai bên Quốc - Cộng đều có tư thế quốc gia, có lãnh thổ,
chính quyền quân đội và nhân dân, hành xử quyền cai trị đối nội cũng như đối
ngoại. Khi đó, với sự trợ giúp của ngoại bang thuộc hai
phe đối đầu: cộng sản và tư bản. Cộng sản Bắc Việt (CSBV), sau sáu năm củng cố,
xây dựng miền Bắc thành hậu phương lớn, đã thành lập “Mặt Trận Dân Tộc Giải
Phóng Miền Nam” (12-1960) rồi sau đó đẻ ra “Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời
Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” (1967) làm công cụ quân sự, chính trị phát động
và tiến hành chiến tranh xâm lăng Miền Nam, với sự trợ giúp của Nga –Tầu và các
nước trong phe “Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Trong khi đó, tại Miền Nam Việt Nam, chính quyền
chính thống quốc gia Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), với sự trợ giúp của Hoa Kỳ và
các cường quốc tư bản, theo đuổi một cuộc chiến tranh tự vệ, với mục đích ngăn
chặn, đẩy lùi và đập tan ý đồ xâm lăng của CSBV, xây dựng và củng cố chế độ dân
chủ pháp trị, phát triển kinh tế ngày càng vững mạnh, thực hiện chủ trương tiến
tới thống nhất đất nước bằng con đường hòa bình, với sự ưu thắng của một Miền
Nam dân chủ, giầu mạnh trên chế độ độc tài tòan trị cộng sản, lạc hậu và nghèo
nàn ở Miền Bắc (như thực tế đã xảy ra ở nước Đức qua phân và sẽ xảy ra ở Triều
tiên trong tương lai không xa).
Cuộc
chiến tranh Quốc-Cộng kéo dài 21 năm (1954-1975), với
kết cuộc phe Quốc gia một lần nữa bị là “bên thua cuộc”, CSBV đã thôn tính
được Miền Nam, thống trị toàn cõi đất nước bằng một chế độ độc tài toàn trị CS.
Việt Quốc thua cuộc chủ yếu trước hết là vì tầng lớp lãnh đạo các chính quyền
VNCH không bảo vệ được chủ quyền quốc gia và công cuộc chống cộng hoàn toàn lệ
thuộc vào Hoa Kỳ đến độ để cho quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến (1965)
là Mỹ hóa chiến tranh, để đối phương CSBV “ngụy dân tộc” giật được chính nghĩa
dân tộc “chống ngoại xâm” (chống Mỹ cứu nước). Thứ đến là vì sau khi các mục
tiêu và lợi ích chiến lược đã đạt được thông qua cuộc chiến Việt Nam, Hoa Kỳ là
thực hiện “Việt nam hóa chiến tranh” (1969) để rút chân ra khỏi
cuộc chiến một cách danh dự; song Hoa Kỳ đã không thực hiện những cam kết giúp
VNCH về quân sự, kinh tế để đủ khả năng tiếp tục chiến đấu chống cộng để tự
tôn.
Hệ quả là, chế độ dân chủ VNCH cáo chung, chính quyền
VNCH sụp đổ, quân lực VNCH tan rã. Hệ quả là hầu hết sĩ quan và lãnh đạo chính
quyền các cấp VNCH bị CS đầy ải, hành hạ, sỉ nhục trong các trại tù “Tập
trung cải tạo”. Một thiếu số quan chức chính quyền, quân đội và nhân dân Miền
Nam kịp di tản ra hải ngoại trước ngày 30-4-1975, và vượt biên nhiều năm sau
đó, qui tụ thành những Tổ Chức Cộng Đồng, các đảng phái chính trị và tổ chức đấu
tranh, đoàn thể xã hội, tôn giáo tiếp tục công cuộc chống cộng giai đọan 3 vì tự
do dân chủ cho đất nước.
3
- Hậu chiến tranh Quốc-Cộng (Từ sau
30-4-1975… đến ngày kết thúc)
Đây là giai đoạn chống cộng cuối cùng của Việt Quốc
để khẳng định chân lý, chính nghĩa tất thắng thuộc về bên nào (Việt Cộng
hay Việt Quốc) trong cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng kéo dài nhiều thập
niên qua tại Việt Nam. Giai đoạn chống cộng này sẽ chấm dứt khi Việt Quốc thành
đạt mục tiêu tối hậu là dân chủ hóa đất nước. Nghĩa là chế độ độc tài toàn trị
cộng sản tiêu vong để hình thành một chế độ dân chủ pháp trị, với các quyền tự
do, dân chủ, dân sinh, nhân quyền được tôn trọng, bảo vệ và hành xử. 44 năm qua
(1975-2019) Việt Quốc đã chóng cộng như thế nào, thành quả ra sao, chúng tôi sẽ
trình bày chi tiết trong các bài viết tiếp theo
III - KẾT LUẬN
Việt Cộng thì đã thất bại hoàn toàn và vĩnh viễn,
không còn có cơ hội và điều kiện để thực hiện mục tiêu tối hậu lý tưởng của
mình là “xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa”. Đúng như chúng tôi đã
trình bày trong loạt bài chủ đề “ 44 năm Việt Cộng xây dựng xã hội chủ
nghĩa vì sự nghiệp của cộng sản quốc tế, thành quả và triển vọng tương
lai”
Sau bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày tiếp qua loạt
bài “44 năm Việt Quốc chống cộng vì tự do, dân chủ cho đất nước, thành quả
và triển vọng tương lai ”.Mời bạn đọc đón xem để có dữ kiện so sánh hai con
đường dẫn đến hai mục tiêu tối hậu khác.nhau giữa Việt Quốc và Việt Cộng, cuối
cùng “ai thắng ai?”.
Thiện
Ý
Houston, ngày 6-8-2019
No comments:
Post a Comment