21/08/2019
Lời
Giới Thiệu: John Garnaut có đọc tác phẩm “100 năm cuộc chạy
đua” của tiến sĩ Michael Pillsbury hay không thì không rõ. Hay các tác phẩm
khác của giới chuyên gia hàng đầu của Hoa Kỳ về Trung Quốc như Perry Link,
Andrew Nathan v.v… Điều rõ ràng là chính Garnaut cũng là người tự bỏ công
nghiên cứu tỉ mỉ các chính sách và chủ trương của Trung Quốc từ thời Mao Trạch
Đông (qua đó hiểu thêm lịch sử chiến quốc kéo dài hàng nghìn năm của họ), và sự
liên hệ xuyên suốt từ thời Mao đến thời Tập qua ý thức hệ cộng sản, cũng như
qua sách lược của Stalin và Lenin để thành lập một biểu đồ (road map) liên kết
tất cả lại với nhau.
Garnaut cũng theo dõi các chuyên gia hàng đầu của Úc
về Trung Quốc, trao đổi và thảo luận với các giáo sư John Fitzgerald, Hugh
White, Clive Hamilton, và với dân biểu Andrew Hastie, ngoài giới tinh hoa, ký
giả, chiến lược gia khác tại Úc. Kinh nghiệm làm việc tại Bặc Kinh từ năm 2007,
tiếp xúc với các giới lãnh đạo hàng đầu trong công việc của mình, cũng như các
nhà trí thức và đối kháng gốc Hoa, các trí thức ngoài luồng, và các tài liệu mật,
giúp cho Garnaut nghiên cứu chi tiết và qua đó vạch ra con đường mà Trung Quốc
dưới thời Tập Cận Bình sẽ chủ trương hành động bằng ý thức hệ chính trị của
mình ra sao.
Những người Việt quan tâm nên đọc kỹ bài “Những nhà thiết
kế tâm hồn: những gì nước Úc cần biết về ý thức hệ ở Trung Quốc của Tập Cận
Bình” của John Garnaut. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng một thời sử dụng
các chiến lược và chiến thuật của Mao, điều mà ông Hồ Chính Minh cũng công khai
thừa nhận tư tưởng Mao làm kim chỉ đường cho Việt Nam nhất là từ thời 1950 trở
đi, chứ ông chẳng có tư tưởng gì cả. Chỉ có điều các lãnh đạo Việt Nam chỉ là học
trò, lại mang tư duy lệ thuộc từ ngàn năm một cách vô thức, nhưng không có tham
vọng lớn gì cho dân tộc mà chỉ toàn tham vọng rất thiển cận cho cá nhân, gia
đình và bè phái, nên đất nước tang hoang và mục ruỗng là hậu quả tất yếu sau
nhiều thập niên dài.
Chủ nghĩa cộng sản, hay chủ nghĩa xã hội, đối với
Lenin, Stalin, Mao, hay Tập, hay các lãnh đạo cộng sản khắp nơi từ trước đến
nay, thật ra chỉ là chiêu bài, là phương tiện thôi. Điều quan trọng nhất đối với
giới lãnh đạo cộng sản khắp nơi, đặc biệt tại Nga và Trung Quốc, và đàn em Việt
Nam, là làm sao có thể điều hành quốc gia và làm sao duy trì quyền lực. Bởi rằng
nếu không làm được điều này, nhất là trong nền văn hóa chính trị lâu đời của họ,
thì không chỉ mất ghế, mất quyền, mà còn có khi mất tất cả, mất cả mạng sống,
hay bị tru di tam tộc trước đây. Chiến dịch đốt lò của
Nguyễn Phú Trọng, chẳng hạn, cũng không nằm ngoài chiêu bài này, sách lược học
được từ Tập Cận Bình.
Mong đợi những người với tư duy và văn hóa hành xử
này có thể tôn trọng pháp luật, kể cả hiến pháp, là điều không tưởng. Với tư
duy và nỗi sợ hãi như thế, những kẻ lên cầm quyền trong mọi đảng cộng sản, tại
Trung Quốc hay Việt Nam hay mọi nơi khác, là luôn sử dụng chiêu bài yêu nước
làm vỏ bọc cho ý thức hệ quyền lực của họ. Do đó các cuộc đấu tranh chống tham
nhũng thật ra chủ yếu là để thanh trừng các thành phần có khả năng đe dọa quyền
lực của họ, dù nằm trong hay nằm ngoài Đảng.
Đọc xong bài này, những ai còn lờ mờ hay ngây thơ với
chủ nghĩa cộng sản/xã hội, hay từng đọc tác phẩm “Chia
tay ý thức hệ” của Hà Sĩ Phu nhưng thắc mắc tại sao cho đến nay các
chế độ cộng sản vẫn chưa chịu chia tay ý thức hệ này, hy vọng hiểu ra được các
nguyên do cốt lõi này.
Những ai đọc xong bài này vẫn còn muốn tìm hiểu thêm
về trường hợp Việt Nam thì xin mời đọc ba tác phẩm giá trị của chính người Việt
Nam. Hai tác phẩm đầu: “Văn học Việt Nam dưới chế độ cộng sản” của nhà phê bình
văn học Nguyễn Hưng Quốc, tức tiến sĩ Nguyễn Ngọc Tuấn, là cuốn sách cực kỳ giá
trị nếu chưa đọc. Nó đã làm cho chế độ cay cú với ông, hạch hỏi ông nhiều lần
khi về Việt Nam, và rồi cấm
ông nhập cảnh nhiều lần. Luận án
tiến sĩ của ông “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn
học Việt Nam…” trình bày chi tiết quan hệ về văn học và chính trị mà chính tác
giả Garnaut đã trình bày dưới dây.
Ngoài ra, sau khi đọc xong bài viết dưới đây của
Garnaut, những nhận định của Garnaut một cách tổng quát có thể khá tương đồng với
một chiến lược gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 20: Tùng Phong Ngô Đình
Nhu. Cách đây 6 thập niên, tác phẩm “Chính đề Việt Nam”
cho thấy ông Ngô Đình Nhu cũng nhìn ra được rất rõ và rất sớm Stalin của Nga
cũng như Mao của Trung Quốc chỉ dùng chủ nghĩa cộng sản cho mục tiêu phát triển
quyền lực quốc gia hơn là một thế giới đại đồng không tưởng, xem việc chống lại
chủ nghĩa tư bản/cấp tiến của phương Tây là lý do không thể tách rời cho cuộc đấu
tranh không ngừng của họ. Rất tiếc hàng triệu sinh linh Việt Nam đã nằm xuống
cho những mưu toan chính trị của một phường vô hại có văn hóa thấp.
Mời quý vị đọc nguyên tác này,
nếu có thể thì đọc bằng tiếng Anh. Vì giá trị của bài này nên tôi có nhờ bạn
Nguyệt Hà giúp dịch toàn bài này sang tiếng Việt để mọi người có cơ hội tìm hiểu.
Xin lưu ý rằng về mặt dịch thuật, vì sự bất tương đồng của ngôn ngữ gốc và ngôn
ngữ dịch, nên có những đoạn, câu hoặc chữ dịch nguyên văn có thể làm tối nghĩa.
Do đó có những đoạn, câu hoặc chữ được dịch để chuyển tải tư duy/ý nghĩa mà tác
giả muốn truyền đạt nhưng theo cách hành văn/ngôn ngữ Việt Nam một cách tốt nhất
có thể nghĩ đến. Tất nhiên là có thể chưa hoàn hảo. Nếu quý bạn đọc thấy có chỗ
nào có thể cải tiến thì xin cho chúng tôi hay để biên tập cho hoàn chỉnh hơn.
Những đoạn trong ngoặc kép [] là chủ yếu làm rõ ý nghĩa, không phải nguyên văn
tác giả.
Phạm
Khú Khải
Úc Châu, 18/08/2019
*****
Những nhà thiết kế tâm
hồn: Những gì nước Úc cần biết về ý thức hệ Trung Quốc thời
Tập Cận Bình
(John
Garnaut trình bày trong buổi hội luận đặc biệt với giới tinh hoa Úc vào tháng
Tám năm 2017)
Như một vài bạn đã biết, suốt 8 tháng vừa
qua, tôi ở cương vị một người công chức, và cố gắng thực hiện tốt các hành
vi được coi là mẫu mực như chờ thời cơ, che giấu ý kiến riêng và tuân
trọng cái trật tự hành chánh một cách nghiêm ngặt.
Bây giờ thì tôi không còn những ràng buộc như thế
nữa.
Tuy nhiên trước khi làm điều này, tôi muốn cảm
ơn các bạn rất nhiều vì đã có mặt ngày hôm nay, đặc biệt cảm ơn
Paul và Sam đã mang đến cho tôi cơ hội này. Thật là vinh dự được có
mặt tại đây, ở phần mở đầu của một chuỗi hội thảo hứa hẹn sẽ có ý nghĩa
quan trọng lớn.
Chuỗi hội thảo này, bản thân nó, lại là một
hành vi mang tính định hướng và nhào nặn xã hội (social engineering) táo bạo.
Ý tưởng ở đây là bằng việc để cho các nhà kinh tế học và các chiến
lược gia an ninh hợp tác cùng nhau, chúng ta có thể thúc đẩy đối
thoại và kể cả hòa bình giữa các nhóm/cộng đồng khác nhau tại Canbera -
với mục tiêu lâu dài là hoạch định ra các chính sách mang tính đồng bộ.
Chúng ta sẽ xem kết quả của việc đó như thế nào.
Nhưng trong lúc này, tôi ở đây với tư cách một
người xuất thân từ giới kinh tế học nhưng bị buộc phải dần dần nhường
chỗ cho phía an ninh. Sự thoái lui này diễn ra từng bước trong suốt một
thập kỉ, vì tôi đã phải chấp nhận rằng sự cởi mở về kinh tế không đảm
bảo sẽ dẫn đến cởi mở về chính trị. Nhất là khi bạn có một chế độ
chính trị vừa có khả năng lại vừa quyết tâm đảm bảo cho điều đó [tức cởi
mở chính trị] không xảy ra.
Vẫn biết chính trị không phải là tất cả, nhưng
không có quốc gia nào khác (ngoại trừ Bắc Triều Tiên) trên trái đất mà sự
hiện diện của nó lại có ở khắp mọi nơi, mọi lĩnh vực như vậy. Và không có thể
chế chính trị nào mà lại ràng buộc chặt chẽ với ý thức hệ đến như thế.
Trong phạm vi công việc mà tôi đang làm chính ở tòa
nhà này, tôi đã rất nỗ lực để loại bỏ vấn đề ý thức hệ khỏi những phân tích của
mình về cách mà Trung Quốc đang tác động đến Úc và cả khu vực. Ý thức hệ là
thứ rất xa lạ và khó hiểu. Vì vậy để làm cho nó dễ hiểu hơn đối
với những nhà lãnh đạo bận rộn, tôi tìm cách “bình thường hóa” các
sự kiện, hành động và khái niệm bằng cách đặt chúng vào khuôn khổ của những
thuật ngữ quen thuộc hơn.
Cách tiếp cận "Bình thường hóa" đối với
Trung Quốc cũng có tác dụng bỏ qua những tranh luận mang tính quy phạm,
chuẩn tắc vốn rất căng thẳng về thế nào là Trung Quốc, Trung Quốc đang
ở đâu, cũng như nó muốn gì. Đây là một cách để tránh những cuộc
vãi vã về việc ai là người thân hay là chống Trung Quốc. Việc tách
rời nhân tố "Đảng Cộng Sản" ra khỏi Trung Quốc là một cách để
tránh gây ra phản ứng mang tính tự vệ của những người khác, giúp cho cuộc đối
thoại không mất đi ý nghĩa và hiệu quả.
Phương pháp thực dụng kiểu này, cho đến nay, đã
phát huy hiệu quả khá tốt. Chúng ta đã đưa những thảo luận về Trung
Quốc lên một tầm cao mới, tinh tế hơn, trong khoảng một năm vừa rồi.
Tuy nhiên, khi loại bỏ ý thức hệ khỏi những
cuộc thảo luận, chúng ta đồng thời cũng đang từ bỏ việc xây dựng một
khuôn khổ có giá trị cho việc giải thích và dự đoán.
Ở mức độ nào đó, xét về tầm ảnh hưởng mà Trung
Quốc đã vươn được vào nước Úc, chúng ta sẽ phải rất nỗ lực để đọc vị cái
bản đồ ý thức hệ mà đã định hình ra thứ ngôn ngữ, các quan niệm và quyết
định của giới lãnh đạo Trung Quốc. Nếu muốn lập ra bản đồ gen của
Đảng Cộng Sản, chúng ta cần phải đọc được DNA ý thực hệ của họ.
Vì vậy, hôm nay tôi mạn phép bước vào lãnh
địa nhiều tranh cãi này.
Tôi
muốn đưa ra một số điểm bao quát dưới đây về nền tảng lịch sử của hệ tư
tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ngoài việc là nó rất quan trọng:
1. Chủ nghĩa Cộng sản đã không được du nhập vào Trung một cách nguyên vẹn
như phiên bản gốc. Thay vào đó, nó được lai ghép vào một hệ thống tư tưởng đã
tồn tại sẵn - hệ thống triều đại phong kiến cổ điển Trung Quốc.
2. Trung Quốc có một sự tôn kính ở mức bất thường đối với
sách vở và chấp nhận giá trị giáo huấn của nó.
3. Chủ nghĩa Mác-Lê nin đã được diễn giải cho Mao và những nhà
cách mạng Trung Quốc khác bởi một trung gian quan trọng: Joseph
Stalin.
4. Chủ nghĩa Cộng sản- được diễn giải bởi Lê-nin, Stalin và Mao là một
ý thức hệ tổng thể. Nói một cách không phải đạo về chính trị lắm
thì ý thức hệ đó mang tính toàn trị.
5. Tập Cận Bình đã khôi phục ý thức hệ này đến một mức độ chưa từng
thấy kể từ thời Cách mạng Văn hóa.
Tạm thời, tôi sẽ chưa bàn đến những hàm nghĩa thực tế
hiện tại của tất cả điều này, cho đến khi chúng ta đi tới phần thảo luận tiếp
theo.
Một vũ trụ học mang tính triều đại
Thông qua công việc làm báo và viết lách của
mình, tôi nhận thấy ý thức hệ chính thống của nước Trung Quốc Mới
(Trung Quốc Mới - là cách nói mà Đảng ưa dùng), là chủ nghĩa cộng sản,
đang cùng tồn tại với một ý thức hệ không chính thức của Trung Quốc Cũ.
Những người sáng lập ra Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã lên nắm quyền
với lời hứa sẽ lật đổ và phá hủy mọi thứ thuộc về quá khứ quân chủ tập
quyền đen tối, nhưng họ đã không bao giờ thay đổi tâm thức chung của dân
tộc.
Mao và các đồng chí của ông ta đã lớn lên
với những câu chuyện, những giai thoại về nước Trung Quốc phong kiến. Họ
đã không bao giờ ngừng đọc những thứ này. Những tiểu thuyết kinh điển
của Trung Quốc như Hồng Lâu Mộng và Tam Quốc Diễn Nghĩa đều nói về sự trỗi
dậy và suy tàn của các triều đại. Đây là cái “truyện thuyết lớn, bao quát”
trong văn học và nghệ thuật chép sử của Trung Quốc, thậm chí cho đến tận
ngày nay.
Mao thì còn đặc biệt bị ám ảnh bởi những câu chuyện
đó. Thư kí một thời của Mao từng giải thích với tôi rằng: "Ông ta
chỉ ngủ trên một phần ba chiếc giường, còn lại hai phần ba gường chất
đầy những cuốn sách có chủ đề về Trung Quốc, sách cổ Trung Quốc.
Ông ta nghiên cứu về chiến lược cai trị đất nước của các vị hoàng
đế. Đó là điều mà Mao quan tâm bậc nhất".
Những nhà cách mạng tiên phong khác đều đã
truyền lại những câu chuyện kiểu này cho con cháu mình. Con gái của cán bộ
tuyên giáo hàng đầu của Mao, Hồ Kiều Mộc (Hu Qiaomu), nói với tôi
rằng cha cô chỉ to tiếng một lần duy nhất với cô khi cô thú nhận đã
không đọc hết cuốn tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng (cuốn sách dài cả
triệu chữ). Hồ Kiều Mộc đã rất giận dữ. Ông nói rằng Mao Chủ tịch
đã đọc cuốn sách đó tới 25 lần.
Vì vậy đây là quan sát đầu tiên của tôi về ý
thức hệ theo nghĩa rộng nhất, như một hệ tư tưởng xuyên suốt của ý
kiến và lý tưởng: các gia đình sáng lập ra Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
đều chìm đắm trong hệ thống đế chế. [tức tư tưởng Quân chủ tập quyền]
Phải thừa nhận rằng, chủ nghĩa cộng sản và
tư tưởng phong kiến tập quyền không dễ dàng kết hợp được với nhau. Nhưng
chúng không phải là không thể dung hòa. Trần Vân (Chen Yun) là người đã
hoàn thiện công thức chủ nghĩa Cộng sản phong kiến: con cháu của họ
phải thừa hưởng quyền lực không phải vì đặc quyền mà là vì chúng có
thể được tin cậy về sự trung thành với sự nghiệp cách mạng. Hoặc chính
ông đã từng nói: "con cháu chúng ta ít nhất cũng sẽ không đào mồ
mả của chúng ta lên".
Tập Cận Bình đã thực hiện một yêu sách bất thành
văn mang tính quý tộc đối với quyền lực, bắt nguồn từ sự gần gũi của cha ông đối
với Mao Chủ Tịch - người sáng lập ra Đế Chế Đỏ. Tập là đại diện mang tính
thỏa hiệp giữa tất cả các gia tộc lớn sáng lập ra chế độ. Đây chính là
điểm khởi đầu để tìm hiểu về thế giới quan của Tập và đội ngũ các
thái tử đỏ của ông ta.
Trong quan điểm của các thái tử đỏ của Trung
Quốc- hay còn gọi là những Người kế vị cách mạng (cách mà họ muốn
được biết đến), Trung Quốc vẫn đang mắc kẹt trong vòng quay từng tạo
ra và hủy diệt mọi triều đại đã tồn tại trước đó. Trong truyền thống
này, một khi bạn đánh mất quyền lực chính trị, bạn không chỉ là mất
đi công việc theo kiểu như xã hội phương Tây, mà bạn còn mất tài sản, tự
do, có khi là mạng sống, và thậm chí là cả sự an toàn cho gia tộc
mình. Lịch sử sẽ xóa tên bạn. Được làm vua, thua làm giặc.
Với những vấn đề như thế, thành ngữ trong tiếng
Anh là “life-and-death-struggle” (cuộc đấu tranh sinh tử) không thể diễn tả
được hết tình cảnh khốc liệt này. Công thức của Trung Quốc là: “Ngươi
chết – Ta sống”. Ta phải đánh phủ đầu trước để giữ được mạng. Tập và
những đồng chí của ông ta trong triều đại đỏ tin rằng họ sẽ có kết
cục giống nhà Mãn Thanh và nhà Minh khi họ bị ném vào sọt rác của lịch
sử.
Sự tôn kính của Trung Quốc với sách vở
Điểm thứ hai liên quan đến điểm thứ nhất đã
nói ở trên, đó là Trung Quốc có một sự tôn kính đặc biệt đối với
sách vở. Các câu chuyện, lịch sử và người thầy có thẩm quyền đạo
đức rất lớn. Sự sùng bái này lớn hơn bất cứ điều gì ở bất cứ đâu
mà tôi có thể nghĩ đến, ngoại trừ nước Nga thời Sa Hoàng. Điều này có
thể đã khiến Trung Quốc và Nga, về mặt văn hóa, rất dễ tiếp thu và bị
chinh phục bởi các thủ đoạn tuyên truyền và với ý thức hệ được tuyên
truyền. Có một điều chắc chắn hơn là
Trung Quốc đặc biệt dễ tiếp thu ý thức hệ của Liên Xô vì các nhà trí thức
Trung Quốc đã tìm thấy ý nghĩa trong văn học và sách vở của Nga sớm hơn và dễ
dàng hơn so với các nguồn khác của phương Tây. Nhà văn Lỗ Tấn
từng nói: "Văn học Nga là người dẫn đường và người bạn của
chúng tôi".
Trong thuật trị quốc cổ đại của Trung Quốc,
có hai phương tiện dùng để giành và giữ quyền kiểm soát “giang sơn”: thứ
nhất là Võ (vũ khí, bạo lực), thứ nhì là Văn (ngôn ngữ, văn hóa).
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn tin rằng
quyền lực bắt nguồn từ việc kiểm soát cả phạm trù đất đai lẫn văn hóa.
Bạn không thể giữ được quyền lực thể chất (physical power) mà không có
sức mạnh và sự thuyết phục về quyền lực diễn ngôn. Văn và võ phải
đi song hành cùng nhau.
Mấu chốt để hiểu được sức hấp dẫn của Quốc tế Cộng sản
Sô Viết tại Thượng Hải và Quảng Châu trong những năm 1920 là việc các đặc vụ Liên
Xô (phải thừa nhận là rất xuất sắc) đã kể được một câu chuyện vô cùng hấp dẫn.
Họ đến Trung Quốc với tiền bạc, súng đạn và kỹ thuật tổ chức nhưng
sức hấp dẫn lớn nhất của họ nằm ở câu chuyện hứa hẹn về một lối
thoát dứt khoát, theo đường thẳng, từ vòng quay của các triều đại (phong
kiến).
(Thực ra, theo cách biện giải của Liên Xô đối với
chủ nghĩa Mác, thì tiến trình lịch sử không hoàn toàn là theo một đường thẳng.
Thay vào đó, lịch sử được cho là di chuyển theo quỹ đạo xoắn ốc – được định
hình bởi các vòng tròn “biện chứng” của đấu tranh, hủy diệt và tái tạo).
Lợi thế nổi bật về mặt diễn ngôn của Mao so với
những lãnh đạo khác chính là chủ nghĩa Mác- Lênin. Theo chủ nghĩa này,
ngôn ngữ không chỉ là công cụ để phán xét đạo đức. Nó còn là phương
tiện để định hình các hành vi được chấp nhận và là vũ khí để phân
biệt giữa bạn và thù. Đây là ẩn ý của bài thơ Thấm Viên Xuân-Tuyết (bài
thơ nổi tiếng nhất của Mao). Ý thức hệ Cộng sản cho phép Mao sử dụng
văn hóa như một loại vũ khí bằng cách mà những đế vương tiền nhiệm
chưa bao giờ làm được.
Ngoài ra, cũng nên nhớ ai đã là lãnh tụ của thế
giới Cộng Sản trong suốt một phần tư thế kỉ lúc Mao vươn lên nắm quyền
lực tuyệt đối.
Đồng chí "thiên tài vĩ đại" Stalin.
Mao biết rằng giáo điều của chủ nghĩa Mác-Lê Nin
là tuyệt đối quan trọng cho đế chế của ông ta, nhưng cá nhân ông ta lại
không đủ kiên nhẫn để tìm hiểu nó đến nơi đến chốn. Ông ta tìm thấy một lối
tắt để đi đến sự hiểu biết thành thạo về ý thức hệ thông qua cuốn sách
Khóa Học ngắn về Lịch sử của những người Bôn-sê-vích (Short Course on the
History of the Bolsheviks) do Joseph Stalin chấp bút, xuất bản vào năm
1938, tức là cuối thời kỳ Đại Thanh Trừng. Lý Nhuệ (Li Rui) kể lại trong một
cuộc phỏng vấn với sử gia Lý Hoa Ngọc (Li Huayu) rằng Mao nghĩ ông ta đã tìm thấy
một "cuốn bách khoa toàn thư về chủ nghĩa Mác" và "ông ta tỏ
ra như thể là đã phát hiện ra một kho báu".
Khi Stalin qua đời vào tháng 3 năm 1953, cuốn
sách Khóa học ngắn về Lịch sử của những người Bôn-sê-vích là cuốn
sách được in nhiều thứ ba trong lịch sử nhân loại. Sau khi mất, Stalin
được ca tụng là "bậc thiên tài" trong lời điếu văn trên trang
nhất của tờ Nhân Dân Nhật Báo - các nhà máy in Trung Quốc được lệnh
phải làm việc gấp đôi gấp ba. Cuốn sách này của Stalin đã trở nên gần như
là một loại kinh sách tôn giáo ở Trung Quốc.
Mặc dù cuốn Khóa Học ngắn này khó đọc, nhưng lại
mang đến cho chúng ta một lối tắt để hiểu về ý thức hệ Cộng sản, cũng như
nó đã từng mang lại cho Mao.
Vấn đề của Stalin khác với Lenin. Lenin phải
giành chiến thắng trong một cuộc cách mạng, còn Stalin thì phải duy trì
nó [thành quả].
Thách thức lớn mang tính ý thức hệ của Stalin
là phải giải thích được rằng họ đã chiến thắng trong cuộc cách
mạng, nhưng cái mơ ước cháy bỏng từ lâu về sự bình đẳng hoàn hảo, mang
tính không tưởng, thì lại phải bị trì hoãn. Ông ta phải hợp lý hóa chuyện
trì hoãn vô thời hạn cái đích đến không tưởng về bình đẳng đó, và đặt cái mục
tiêu ngày một xa đó xuống bên dưới mệnh lệnh của các cuộc đấu đá, sát phạt
trong nội bộ đảng.
Cuốn sách của Stalin là cuốn cẩm nang cho
cuộc đấu tranh không ngừng nhằm chống lại một danh sách những kẻ thù
tưởng tượng đang hợp tác với gián điệp phương Tây nhằm khôi phục chủ
nghĩa tư bản - cấp tiến của giai cấp tư sản. Nó được viết dưới dạng một
cuốn biên niên sử về những chiến thắng của Lenin và sau đó là “đường lối
đúng đắn” của Stalin nhằm tiêu diệt một danh sách vô tận các kẻ thù giai cấp.
Có lẽ cũng cần nhắc lại rằng một bộ phận lớn trong số những kẻ thù “thâm độc”
nhất trong nội bộ đã che giấu ý định lật đổ chế độ bằng vỏ bọc
"cải tổ".
Lợi ích thực tiễn của cuốn sách là ở chỗ nó
kê ra một loại thuốc giải độc cho tình trạng trở nên xơ cứng và mục ruỗng
– thứ mà sẽ ăn mòn và làm suy vong mọi chế độ độc tài.
Thông điệp độc đáo trong cuốn sách của Stalin
là: con đường đi lên chủ nghĩa xã hội sẽ luôn bị cản trở bởi những kẻ thù muốn
khôi phục chủ nghĩa tư bản từ bên trong đảng. Những kẻ thù
này ngày càng liều lĩnh và nguy hiểm khi chúng ngày một bị đe dọa - và
khi chúng hợp tác với bọn gián điệp và tay sai của chủ nghĩa cấp tiến
phương Tây.
Những dòng quan trọng nhất của cuốn sách là:
·
"Khi cuộc cách mạng càng lún sâu, thì đấu
tranh giai cấp sẽ ngày càng quyết liệt."
·
"Đảng trở nên mạnh mẽ hơn thông qua thanh
trừng nội bộ."
Không khó để tưởng tượng ra rằng một một lãnh
đạo Trung Hoa tàn nhẫn như Mao - người được sinh ra trong thế giới
"Ngươi chết, ta sống" - thế giới mà hoặc là bị giết hoặc phải
chủ động ra tay - và đã trở nên lão luyện với nguyên tắc đó, và cũng là người
bị ám ảnh bởi việc ngăn chặn sự suy tàn vốn đã phá hủy mọi triều
đại trước đây - đã cảm thấy được mặc khải, được soi sáng đến mức độ nào bởi
thứ công thức này của Stalin.
Thứ mà Stalin đã đưa cho Mao không chỉ mà một
cuốn cẩm nang hướng dẫn để thanh trừng các đồng chí của ông ta mà
còn là lời giải thích tại sao việc đó lại cần thiết. Thanh trừng địch
thủ là cách duy nhất mà một đảng tiên phong có thể thanh tẩy chính
bản thân mình và vẫn duy trì bản chất cách mạng và ngăn chặn sự
phục hồi của chủ nghĩa tư bản.
Thanh trừng là cơ chế để Đảng Cộng sản Trung Quốc đạt
được "sự thống nhất" ngày càng lớn đối với "chân lý" cách mạng,
như cách diễn giải của Mao. Đó là cơ chế để ngăn chặn sự mục ruỗng và
thoái hóa vốn dĩ chắc chắc sẽ xảy ra sau khi các nhà lãnh đạo sáng
lập rời khỏi chính trường.
Một cách quan trọng, Mao đã chia tay với Kruschev
(Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô từ năm 1953 đến 1964) chính là bởi vì
Kruchev đã chia ta với Stalin và với mọi thứ mà ông ta từng ủng hộ. Sự
chia rẽ Trung-Xô là sự chia rẽ về ý thức hệ - trong đó Mao đòi quyền lãnh đạo
về mặt ý thức hệ đối với thế giới cộng sản. Mác, Lê-nin, Stalin, Mao. Đó
chính là việc Mao đòi được coi là người kế nghiệp chân chính của Stalin.
Chúng ta thường được nghe nhiều về việc Tập Cận
Bình và về các đồng chí của ông ta đổ lỗi cho Gorbachev về sự sụp
đổ của Liên Xô, nhưng thực ra sự bất bình của họ còn đi xa hơn thế.
Họ đổ lỗi Kruschev. Họ cho rằng rằng Kruschev đã rời xa chủ nghĩa
Stalin. Và họ đã thề rằng họ sẽ không bao giờ đối xử với Mao như những
gì Kruschev đã làm với Stalin.
Hôm nay, 60 năm đã đi qua, chúng ta đang chứng
kiến Tập đòi làm “người kế vị cách mạng đích thực” của Mao.
Ngôn ngữ của Tập là “sự thuần khiết của đảng”,
“phê bình và tự phê bình”, “con đường quần chúng”; ông ta ám ảnh với
"tính nhất thống "; ông ta tấn công các yếu tố của "chủ
nghĩa cấp tiến phương Tây thù nghịch”, “chủ nghĩa lập hiến” và các
biến thể khác của “sự lật đổ” ý thức hệ. Đây đều là chủ nghĩa
Mác-Lê Nin được diễn giải bởi Stalin cũng như bởi Mao.
Đây là ngôn ngữ mà các thái tử Đảng nói
chuyện khi họ gặp mặt và thỉnh thoảng khi tôi phỏng vấn họ lúc chuẩn
bị diễn ra Đại hội Đảng lần thứ 18.
Và đây là cách mà Tập nói sau Đại hội Đảng
lần thứ 18:
"Bác bỏ lịch sử của Liên Xô và Đảng Cộng sản Liên Xô, loại
bỏ Lenin và Stalin, và gạt bỏ mọi thứ khác chính là rơi vào chủ nghĩa hư vô
lịch sử; điều này làm rối loạn tư tưởng của chúng ta và làm suy yếu tổ chức đảng
các cấp."
Ngày nay, cái đích đến không tưởng (của chủ nghĩa
Cộng sản) phải được duy trì, bất kể nó có vô lý ra sao đi nữa, để biện minh
cho việc sử dụng các phương tiện tàn bạo trên con đường đi đến đó. Tập đã
chèn thêm vào một vài mục tiêu mang tính nhất thời - cho những người thiếu kiên
nhẫn cách mạng - nhưng logic nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin-Stalin-Mao vẫn
còn nguyên.
Việc thanh trừng ngày một khốc liệt của Tập đối với
các đồng chí đang cản đường ông ta chính là nằm trong cái logic đó.
Đó là cuộc thanh trừ đối thủ chính trị đầy
thách thức – cũng là một thái tử Đảng - Bạc Hy Lai (Bo Xilai), bộ trưởng
Bộ Công An Chu Vĩnh Khang (Zhou Yongkang), hai phó chủ tịch quân ủy TW
Từ Tài Hậu (Xu Caihou) và Quách Bá Hùng (Guo Boxiong); cố vấn của Đoàn
thanh niên Cộng sản - Lệnh Kế Hoạch (Ling Jihua) và người kế vị tiềm
năng Tôn Chính Tài (Sun Zhengcai) chỉ hai tuần trước.
Không một ai trong những người trên bị thanh
trừng là do tư thù cá nhân. Việc thanh trừng này có tính biện chứng.
Và không thể tránh khỏi.
Nó cũng thúc đẩy và làm tăng tốc hành trình của
Trung Quốc tiến lên theo quỹ đạo lịch sử tất yếu hình xoắn ốc.
"Lịch sử cần phải được thúc đẩy theo tiến
trình biện chứng của nó”, Tập Cận Bình phát biểu đánh dấu sinh nhật lần thứ 95
của Đảng vào năm 2015. Lịch sử luôn tiến về phía trước và không bao giờ
chờ đợi những kẻ chần chừ."
Đây là logic được áp dụng trong cũng như ngoài
Đảng.
Ông phát biểu trên nhật báo Quang Minh: "Cần
phải chống lại thứ văn hóa suy đồi của giai cấp tư sản và của xã hội phong kiến".
Cốt lõi của chủ nghĩa Mao và chủ nghĩa Stalin là đấu
tranh không ngừng. Đây là thuốc giải độc cho sự vôi hóa và thoái hóa đã phá hủy
mọi triều đại, mọi chế độ độc tài và đế quốc trước đây. Đây là lý do tại sao
Tập và các Thái tử Đảng khác đều tin rằng chủ nghĩa Mao và chủ nghĩa Stalin vẫn
còn có sự liên quan cao độ với thời đại ngày nay. Không chỉ là liên quan, mà
còn mang ý nghĩa sống còn.
Tập đã khởi động một chiến dịch thanh lọc - một
cuộc chiến chống lại các thế lực phản cách mạng - không có điểm kết thúc bởi vì
càng đi thì cái đích đến không tưởng về mặt ý niệm của chủ nghĩa cộng sản hoàn
hảo lại càng bị đẩy ra xa hơn một chút.
Không có mục tiêu chính sách theo nghĩa mà một nhân
viên ngân hàng Wall Street hoặc công chức ở Canberra có thể hiểu được, theo
kiểu tính hiệu quả của thị trường năng lượng ở đây, hoặc đè nén hệ số Gini ở
kia. Thay vào đó, đây là cách để khôi phục sinh lực và sức sống của triều
đại. Chính trị là cứu cánh.
Đây là những gì Mao và Stalin hiểu rõ hơn bất kỳ đồng
chí nào của họ. Đây cũng là toàn bộ ý nghĩa của công trình Phục Hưng Đỏ
của Tập Cận Bình. Và nó giải thích vì sao tiến trình chính trị mang màu
sắc cực đoan này sẽ không dừng lại ở Đại Hội 19.
Điều đó đưa chúng ta đến tiêu đề của hội thảo này.
Những nhà thiết kế tâm hồn
Trong buổi gặp mặt đầu tiên của nhóm làm
việc trong tòa nhà này, tôi hỏi lãnh đạo nào trên thế giới đã ví von
nghệ sĩ và nhà văn là "nhà thiết kế tâm hồn."
Hình ảnh ngôn từ này có phải là sự sáng tạo của
Stalin, Mao hay là một ai khác?
Nếu bạn nghĩ đó là Stalin, bạn đã đúng.
"Việc tạo ra tâm hồn quan trọng hơn sản
xuất xe tăng... Và do đó, tôi nâng ly chúc mừng các nhà văn, những nhà thiết
kế tâm hồn ".
Đối với tôi, đây quả là một trong những phép ẩn dụ
vĩ đại của chủ nghĩa toàn trị: một cỗ máy được thiết kế để tạo nên sự thống nhất
hoàn toàn giữa nhà nước, xã hội và cá nhân.
Cỗ máy toàn trị hoạt động theo một lộ trình
đã định sẵn. Nó phủ nhận sự tồn tại của ý chí tự do và bác bỏ các giá trị
"trừu tượng" như "sự thật", tình yêu và sự đồng cảm. Nó
không chấp nhận sự tồn tại của Thượng Đế, không chịu quy phục bất cứ luật lệ
nào và không hướng tới mục tiêu nào thấp hơn là nhào nặn lại tâm hồn con người.
Câu trên được trích dẫn từ bài phát biểu nổi tiếng
của Stalin tại tư gia của đại văn hào Maxim Gorky để chuẩn bị cho Đại hội đầu
tiên của Hội nhà văn Liên
Xô vào tháng 10 năm 1932. Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc của
cuộc Cách mạng Văn hóa và nạn đói lớn dưới thời Stalin - chính là nguyên mẫu
cho cuộc Cách mạng Văn hóa và nạn đói lớn dưới thời Mao - trong lúc chuẩn bị
xảy ra cuộc Đại Thanh Trừng dưới thời Stalin.
Đối với Stalin, Lenin và những người theo tư tưởng
tiền Leninist của Nga hồi thế kỷ 19, giá trị của văn học và nghệ thuật hoàn
toàn là công cụ. Không có thứ gì gọi là "nghệ thuật vị nghệ
thuật". Trong hệ tư tưởng của họ, thơ ca không có giá trị nội tại ngoài mục
đích truyền bá cho quần chúng và thúc đẩy sự nghiệp cách mạng.
Hoặc theo ngôn ngữ kỹ thuật của Người đàn ông
thép - Joseph Stalin - văn học và nghệ thuật không gì khác hơn là những chiếc
bánh răng trong cỗ máy cách mạng.
Nhưng nếu câu trả lời của bạn là Mao Chủ Tịch,
bạn cũng vẫn đúng. Mao đã mở rộng phép ẩn dụ của Stalin một thập kỷ sau đó
trong bài phát biểu nổi tiếng tại Diễn đàn Văn học và Nghệ thuật Diên An
vào tháng 10 năm 1942 và được xuất bản (dưới dạng tài liệu được
chỉnh sửa rất nhiều) một năm sau đó.
“Mục đích của chúng ta là đảm bảo rằng văn học và
nghệ thuật phải phù hợp với toàn bộ cỗ máy cách mạng trong vai trò một bộ
phận cấu thành, chúng vận hành như những vũ khí mạnh mẽ để đoàn kết và giáo
dục nhân dân và tấn công và tiêu diệt kẻ thù cũng như giúp mọi người chiến đấu
với kẻ thù bằng cả trái tim lẫn khối óc.”
Đây là khi Mao nói trắng ra rằng không có thứ gọi là
chân lý, tình yêu hay giá trị nghệ thuật trừ phi những khái
niệm trừu tượng này có thể được đưa vào sự phục vụ thực tiễn của chính trị.
Một cách quan trọng, với ý nghĩa đương đại, những diễn
văn của Mao về văn học và nghệ thuật cũng là cách ông khởi đầu cho đợt Chỉnh
Phong Diên An - cuộc thanh trừng có hệ thống lớn đầu tiên của Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Đây là một dự án tạo áp lực đồng đẳng và tra tấn được thiết kế trước
tiên để thanh trừng những người đồng chí của Mao, và sau đó khắc sâu hệ tư
tưởng cộng sản vào tâm trí của hàng trăm ngàn sinh viên và trí thức có lý tưởng
đã đổ xô đến Diên An trong cuộc kháng chiến chống Nhật.
Quan trọng là Đảng Cộng Sản chưa bao giờ tìm
cách "thuyết phục", mà chủ yếu là dùng biện pháp "điều kiện".
Bằng cách tạo ra một hệ thống hoàn toàn khép kín, kiểm soát tất cả những động lực
thúc đẩy hoặc những yếu tố gây thoái chí, và “phá vỡ” các cá nhân về mặt vật
lý, xã hội và tâm lý, Đảng đã phát hiện ra rằng họ có thể điều khiển tâm trí
con người giống như cách Pavlov đã huấn luyện, tạo ra những phản xạ có điều
kiện đối với các con chó trong phòng thí nghiệm ở Mát-x-cơ-va vài năm
trước.
Đó là lần đầu tiên mà người của Mao đặt ra
thuật ngữ "tẩy não". Bản thân Mao thích dùng phép ẩn dụ
luyện kim của Stalin. Ông ta gọi nó là "tôi luyện":
“Nếu muốn hòa mình vào quần chúng, thì phải quyết tâm trải qua
một quá trình tôi luyện dài, thậm chí là rất đau đớn.”
Bài nói chuyện của Mao ở Diên An về văn học
và nghệ thuật đã biến mất và sau đó hồi sinh và tái bản khắp mọi
nơi khi bắt đầu Cách mạng Văn Hóa - đây là hành động táo bạo và
thành công nhất của biện pháp "định hướng và nhào nặn xã hội" mà
thế giới từng chứng kiến.
Còn nếu câu trả lời của bạn là Tập Cận
Bình, một nhân vật gần gũi nhất với chúng ta ngày nay, bạn cũng vẫn
đúng.
Chủ tịch Tập Cận Bình đã có một bài phát biểu
tại Diễn Đàn Văn Học và Nghệ thuật Bắc Kinh diễn ra vào tháng 10 năm
2014. Diễn đàn này được tổ chức nhân dịp kỷ niệm 72 năm Diễn đàn về
văn học và nghệ thuật tại Diên An thời Mao.
Tập Cận Bình cho rằng cần phải đưa trở lại những
nguyên tắc của chủ nghĩa Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông, trong đó văn
học và nghệ thuật chỉ nên tồn tại để phục vụ chính trị. Khái niệm
“chính trị” ở đây không phải là nói về việc thực thi một cách thẳng thắn
quyền lực tổ chức và ra quyết định mà chúng ta biết, mà nói về một
dự án toàn trị nhằm tạo ra sự thống nhất về ngôn ngữ, tri thức, suy
nghĩ và hành vi để theo đuổi đến một cái đích không tưởng.
"Nghệ thuật và văn chương là công trình kỹ thuật để nhào nặn ra
tâm hồn con người, những người lao động nghệ thuật và văn chương chính là những
nhà thiết kế tâm hồn."
Giống như phiên bản Mao, bài phát biểu của Tập trên
diễn đàn văn học và nghệ thuật chỉ được xuất bản một năm sau đó.
Và cũng giống như bài phát biểu của Mao, phiên bản
được xuất bản không thừa nhận rằng nhiều phần của bài phát biểu đã
được thêm, bị xóa và sửa đổi - để phản ánh các mệnh lệnh chính trị của thời đại.
Giống như Stalin và Mao, bài phát biểu của Tập đánh
dấu một chiến dịch chỉnh lý của Đảng Cộng sản, bao gồm một nỗ lực toàn diện nhằm
nâng cao vị thế của các nhà lãnh đạo đến mức độ sùng bái. Không có
bước nào trong vũ đạo của Đảng Cộng Sản diễn ra một cách tình cờ.
Cần lưu ý ở đây rằng khi Mao tập hợp lực lượng vào
năm 1942, ông ta đã sử dụng khẩu hiệu của chủ nghĩa yêu nước, bởi vì lý tưởng
cộng sản khi đó hoàn toàn chưa có sức mạnh lôi kéo.
Ngày nay cũng không có gì khác biệt. Tập Cận Bình
phát biểu:
"Trong những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội với đặc tính Trung
Quốc, giá trị sâu sắc nhất, cơ bản nhất và lâu dài nhất là chủ nghĩa yêu nước.
Nghệ thuật và văn học hiện đại của chúng ta cần lấy chủ nghĩa yêu nước làm niềm
cảm hứng, hướng dẫn người dân thiết lập và tuân thủ các quan điểm đúng đắn về lịch
sử, dân tộc, đất nước và văn hóa."
Và những lời cảnh báo cũ chống lại chủ nghĩa cấp tiến
phương Tây cũng không hề thay đổi.
Đối với Lê-nin, Stalin, Mao và Tập, từ ngữ
không phải là phương tiện của lý lẽ hay để thuyết phục. Chúng là
những viên đạn. Từ ngữ là vũ khí để xác định, cô lập và tiêu diệt
đối thủ. Và nhiệm vụ tiêu diệt kẻ thù ấy là không có hồi kết. (Thật
xứng đáng để có buổi thảo luận riêng về chiến lược của Mặt trận Thống nhất –
nhưng tôi xin dành lại vào một ngày khác)
Không có điểm kết thúc trong cuộc tìm kiếm sự thống
nhất và bảo vệ chế độ đối với Tập, cũng như với Stalin và Mao.
Tập Cận Bình sử dụng cùng một khuôn mẫu ý thức hệ để
mô tả vai trò của các "nhân viên truyền thông", giáo viên, và các học
giả ở đại học. Họ đều là những người kỹ sư phục tùng trong khuôn khổ ý
thức hệ và là bánh răng trong bộ máy cách mạng.
Trong số nhiều việc mà các nhà lãnh đạo hiện đại của
Trung Quốc đã làm - bao gồm quản lý sự bùng nổ lớn nhất về cấp tiến hóa thị
trường và thành tựu xóa đói giảm nghèo lớn nhất mà thế giới từng chứng
kiến, những kẻ chiến thắng trong các cuộc đấu đá nội bộ đã duy trì khát vọng
toàn trị trong việc thiết kế tâm hồn con người để hướng họ tới điểm đến không
tưởng luôn luôn thay đổi và ngày càng xa vời.
Điều này không có nghĩa là Trung Quốc đã không thể
trở nên khác đi. Nền chính trị tinh hoa từ sau cái chết của Mao cho đến
thảm sát Thiên An Môn đã là một cuộc cạnh tranh thực sự giữa các ý
tưởng.
Nhưng ý thức hệ đã chiến thắng trong cuộc cạnh tranh
đó.
Ngày nay, Đảng Cộng sản Trung Quốc là đảng cộng
sản cầm quyền duy nhất trên thế giới mà chưa bao giờ đoạn tuyệt với tư tưởng
Stalin, ngoại trừ phần nào Bắc Hàn. Bức chân dung cao sáu mét của Stalin đã
đứng cạnh Marx, Engels và Lenin tại Quảng trường Thiên An Môn mãi cho đến tận đầu
thập niên 1980, khi mà các bức chân dung đó được di chuyển vào trong nhà.
Trong một thời gian dài, tất cả chúng ta đều yên
thân nghĩ rằng khát vọng ý thức hệ này chỉ tồn tại trên giấy, là lời nói nơi
đầu môi chót lưỡi, trong khi mà 1,4 tỷ công dân Trung Quốc đã bắt tay vào công
việc xây dựng gia đình, cộng đồng và tìm kiếm tri thức và thịnh vượng.
Tuy vậy, nó không chỉ là lời nói suông, mà nhiều
hơn thế. Từ năm 1989, Đảng CS đã xây dựng lại chính nó xoay quanh những gì mà dự
thảo Luật An ninh Quốc gia gọi là “an ninh ý thức hệ”, bao gồm cả việc tự bảo vệ
mình trước “sự xâm nhập của văn hóa tiêu cực”.
Bộ máy tuyên truyền và an ninh - như văn và võ,
sách và kiếm, cây bút và khẩu súng - một lần nữa lại không thể tách
rời. Trong Hội nghị công tác truyên truyền quốc gia vào ngày 9 tháng 8
năm 2013, cũng là lần đầu tiên Tập Cận Bình chủ trì hội nghị này, ông ta phát
biểu rằng: Các nhà lãnh đạo Đảng phải “dám rút gươm ra” để đảm bảo
rằng “các chính trị gia nắm vai trò điều hành các tờ báo”.
Giờ đây, Tập đã đẩy ý thức hệ lên hàng đầu vì nó
cung cấp một khuôn mẫu cho việc thanh lọc và lấy lại quyền kiểm soát đối với đảng
tiên phong, và qua đó là đối với cả đất nước.
Theo quan niệm của Tập, cái giá của việc đi lạc
quá xa khỏi con đường của chủ nghĩa Mao và Stalin là sự suy tàn của triều đại
và sụp đổ tất yếu. Điều này được nhiều người trong đội ngũ thái tử đỏ đồng
tình.
Tất cả mọi thứ Tập Cận Bình nói với tư cách lãnh
đạo, và tất cả mọi thứ tôi có thể xâu chuỗi lại từ lý lịch của ông ta cho
thấy ông ta cực kỳ nghiêm túc về dự án tổng thể này.
Khi nhìn lại, chúng ta lẽ ra đã có thể dự
đoán được điều này thông qua các đoạn quy chiếu về chủ nghĩa Mao và
Stalin mà Tập đưa ra trong lời phát biểu khai mạc khi trở thành Chủ
tịch nước vào tháng 11 năm 2012.
Điều này được làm rõ hơn trong chuyến công du
đầu tiên với tư cách là Tổng bí thư Đảng tới miền Nam vào tháng 12
năm 2012, khi Tập Cận Bình tới đặt vòng hoa tại đền thờ của Đặng
Tiểu Bình tại Thâm Quyến nhưng lại đảo ngược thông điệp của Đặng. Ông
ta quy kết sự sụp đổ của Liên Xô là do đã không ai "đủ mạnh mẽ" đứng
lên chống lại Gorbachev và điều này là do các đảng viên đã bỏ bê ý thức hệ. Đây
là lúc ông đưa ra lời cảnh báo rằng chúng ta không được quên Mao, Lenin hay
Stalin.
Vào tháng 4 năm 2013, Văn phòng Trung ương Đảng, được
điều hành bởi cánh tay phải của Tập, Lật Chiến Thư, đã gửi đi một chỉ thị
khét tiếng cho tất cả các tổ chức đảng cấp cao.
Văn
kiện số 9 này có tên là "Thông cáo về tình trạng
hiện tại trong lĩnh vực tư tưởng" đặt ý tưởng “lan truyền tư tưởng trên mặt
trận văn hóa là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất”. Tài liệu này đòi hỏi
cán bộ phải khơi dậy “nhiệt huyết của quần chúng” và tiếp tục “đấu
tranh quyết liệt” chống lại các “xu hướng sau trái” sau đây:
1. Nền dân chủ lập hiến phương Tây - là "một nỗ lực nhằm làm suy yếu giới
lãnh đạo hiện tại";
2. Các giá trị phổ quát về quyền con người - một nỗ lực làm suy yếu nền tảng
lý thuyết của sự lãnh đạo của đảng.
3. Xã hội dân sự - một "công cụ chính trị" của các lực lượng
phương Tây chống Trung Quốc, phá hủy nền tảng xã hội của đảng cầm quyền.
4. Chủ nghĩa Tân cấp tiến - Những nỗ lực do Hoa Kỳ lãnh đạo để “thay đổi hệ
thống kinh tế cơ bản của Trung Quốc”.
5. Tư tưởng về báo chí của phương Tây - tấn công vào quan điểm Marxist về
tin tức, cố gắng để “tạo ra một khe hở để thâm nhập vào hệ tư tưởng của chúng
ta”.
6. Chủ nghĩa hư vô lịch sử - cố gắng làm xói mòn lịch sử đảng, “phủ nhận
tính tất yếu” của chủ nghĩa xã hội Trung Quốc.
7. Đòi hỏi cải cách và mở cửa - không được tiếp tục tranh cãi về việc cải
cách có cần phải đi xa hơn không.
Không có sự mơ hồ nào trong tài liệu này. Âm mưu của
phương Tây trong việc xâm nhập, phá hủy và lật đổ Đảng Cộng Sản (đảng của
nhân dân) không phụ thuộc vào những gì mà bất kỳ quốc gia phương Tây nào nghĩ
hay làm. Đó là một phương trình, một bản sắc toán học: Đảng Cộng sản Trung
Quốc tồn tại và do đó bị tấn công. Sự dàn xếp và trấn an không bao giờ là đủ
- nó chỉ có thể là một chiến thuật và mưu mẹo.
Không có âm mưu của chủ nghĩa cấp tiến phương Tây,
Đảng sẽ mất đi lý do tồn tại. Khi đó sẽ không cần phải duy trì một chính đảng
tiên phong. Tập Cận Bình cũng có thể để cho đảng của mình chuyển hóa
một cách hòa bình.
Chúng tôi biết văn kiện này là xác thực bởi vì nhà
báo Trung Quốc đã công khai nó trên internet, Cao Du (Gao Yu), đã bị bắt và con
của cô bị đe dọa với những điều không thể tưởng tượng được. Sự đe dọa đối với
con trai của cô đã khiến cô phải lên truyền hình đọc lời thú tội theo phong
cách của thời Cách mạng Văn hóa.
Vào tháng 11 năm 2013, Tập Cận Bình tự bổ nhiệm
mình làm người đứng đầu Ủy ban An ninh Quốc gia Trung ương - một cơ quan mới được
thành lập để chống lại “các thế lực cực đoan và những thách thức về ý thức hệ đối
với nền văn hóa đến từ phương Tây”.
Tuy nhiên, ngày nay, Internet mới là chiến trường
chủ đạo. Chủ quyền trên không gian mạng là tất cả.
Kết luận
Điểm mấu chốt về hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản - sợi
chỉ xuyên suốt từ Lê-nin qua đến Tập Cận Bình, chính là Đảng đã và luôn tự
xác định là họ ở trong tình thế đấu tranh không ngừng với các thế lực “thù
địch” của chủ nghĩa cấp tiến phương Tây.
Tập Cận Bình đang rất nghiêm túc trong phát ngôn
và hành động quyết đoán trong việc tiến hành một dự án kiểm soát
hoàn toàn về ý thức hệ ở bất cứ nơi nào có thể. Tập đã nói với “quần
chúng thanh niên” trong bài phát biểu vào ngày Quốc Tế lao động,
tháng 5 năm 2015 về một tầm nhìn đòi hỏi tất cả người dân Trung Quốc phải
"thống nhất ý chí như một bức tường thành vững chãi". Họ cần phải
“tôi luyện bản thân”, Tập sử dụng một phép ẩn dụ được cả Stalin và Mao ưa
thích.
Không có sự mơ hồ nào trong kế hoạch của Tập.
Chúng ta thấy điều đó trong mọi thứ ông ta làm - kể cả là trong một thể chế vốn
không minh bạch và rất lươn lẹo - chúng ta có thể thấy trong lời nói của ông
ta.
Tập không phải là người phát minh ra dự án ý thức
hệ này nhưng ông đã hồi sinh nó. Lần đầu tiên kể từ Mao, chúng ta có một nhà
lãnh đạo nói và hành động đúng như niềm tin và ý định của mình.
Ông ta đang thúc đẩy hệ tư tưởng cộng sản vào thời
điểm mà ý tưởng về chủ nghĩa cộng sản này không còn hấp dẫn như bất kỳ thời
điểm nào trong suốt 100 năm qua. Tất cả những gì còn lại là một thứ ý
thức hệ của quyền lực, được tô vẽ bằng chủ nghĩa yêu nước nhưng điều đó
không có nghĩa là nó không thể hoạt động.
Tập đã cho thấy rằng sự hứa hẹn về khả năng lật
đổ toàn trị của Internet có thể bị đảo ngược rồi. Trong khoảng thời gian
5 năm, với sự hỗ trợ của
khoa học dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo, Tập đã biến
Internet từ một công cụ dân chủ hóa thành một công
cụ kiểm soát toàn diện, mọi lúc mọi nơi. Cuộc hành trình đến cái
đích không tưởng (Utopia) vẫn tiếp tục nhưng trước tiên chúng ta phải vượt
qua không
gian mạng đầy rẫy phức tạp để đánh bại các thế lực phản cách
mạng.
Sự táo bạo của dự án này là rất đáng kinh ngạc. Những
hàm ý của nó cũng thật ngoài sức tưởng tượng.
Thách thức đối với chúng ta là dự án kiểm soát ý thức
hệ không dừng lại ở biên giới Trung Quốc. Nó được đóng gói để theo sát các sinh
viên, khách du lịch, người di cư và đặc biệt là tiền của Trung Quốc. Nó chảy
qua các kênh của mạng Internet Hoa ngữ, thâm nhập vào tất cả các không gian
văn hóa và truyền thông lớn trên thế giới và nói chung là bắt kịp và thậm chí
còn đi trước cả những lợi ích toàn cầu đang ngày một gia tăng của Trung Quố
Theo suy nghĩ của tôi, nếu bạn là người trong lĩnh vực
tình báo, quốc phòng hay quan hệ quốc tế; hoặc thương mại, chính sách kinh tế
hoặc điều tiết thị trường; hoặc nghệ thuật, giáo dục đại học hoặc bảo tồn hệ
thống dân chủ - nói cách khác là nếu bạn có liên quan tới bất cứ vấn đề có tầm
vóc nào về mặt chính sách - thì bạn sẽ cần kiến thức ứng dụng về chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông. Và có lẽ, sau Đại hội lần thứ 19 của
ĐCSTQ, bạn sẽ cần biết về cả "tư tưởng Tập Cận Bình".
--------------------
Tư liệu/Reading:
Li Huayu, STALIN'S
"SHORT COURSE" AND MAO'S SOCIALIST ECONOMIC TRANSFORMATION OF CHINA
IN THE EARLY 1950s
Matt Johnson, Securitizing Culture in
Post-Deng China: An Evolving National Strategic Paradigm, 1994–2014
John Fitzgerald: Human dignity
and its enemies
No comments:
Post a Comment