Quốc Phương
BBC
News Tiếng Việt
07/08/2019
Sự
kiện ở Bãi Tư Chính trên Biển Đông không có gì mới, chỉ là tiếp diễn xu thế
chính sách của Trung Quốc từ năm 2005 hay sớm hơn, có thể đoán được là tình
hình căng thẳng sẽ tiếp tục trong nhiều năm đến khi Trung Quốc dần dần thiết lập
quyền kiểm soát trên phần lớn biển Đông, theo một nhà nghiên cứu chính trị học
và Đông Nam Á học từ Đại học Oregon, Hoa Kỳ.
Với áp lực từ cả ngoài lẫn trong, đã đến lúc ban
lãnh đạo Việt Nam cần xem xét thay đổi đối sách mà không chỉ là 'ba không' mà
phải gọi là 'bốn không' bao gồm không kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế, mà như
đã thể hiện và thi triển có hệ thống và ổn định lâu nay, vẫn theo ý kiến này.
Chủ trương quan hệ thân thiết và liên Đảng, hơn nữa,
đã tỏ ra "mâu thuẫn và làm giảm hiệu lực" của các biện pháp khác nhằm
cân bằng với Trung Quốc, nếu nhìn từ góc độ lợi ích lâu dài của quốc gia, nó
còn "cản trở" việc thực hiện những cải cách kinh tế - chính trị sâu rộng
để tạo sự phát triển bền vững cho Việt nam, ý kiến này nhấn mạnh.
Trả lời BBC News Tiếng Việt qua bút đàm, mà dưới đây
là nội dung, về sách lược và tính toán địa chính trị của Trung Quốc qua sự kiện
ở khu vực Bãi Tư Chính từ đầu tháng 7/2019, Giáo sư Vũ Tường, Giám đốc Trung
tâm Nghiên cứu ASEAN thuộc Đại học Oregon, trước hết nêu nhận định:
Sự kiện ở Bãi Tư Chính trên Biển Đông không có gì mới,
chỉ là tiếp diễn xu thế chính sách của Trung Quốc từ năm 2005 hay sớm hơn. Với
chính sách này, Trung Quốc ngày càng tăng cường các tuyên bố và biện pháp cưỡng
chế thể hiện chủ quyền của mình ở vùng biển Nam Trung Hoa hay biển Đông của Việt
nam. Xu hướng này thể hiện một Trung Quốc (cả lãnh đạo và dân chúng) tự tin vào
sức mạnh quốc gia về cả quân sự và kinh tế, cũng như nhu cầu ngày càng lớn của
Trung Quốc để trở thành một cường quốc hải quân sau khi đã là một cường quốc mậu
dịch và kinh tế.
Xu hướng này có thể dẫn đến căng thẳng với Mỹ nếu
Trung Quốc không khéo léo kiềm chế, nhưng có vẻ họ bất cần - vì tự hào dân tộc
quá lớn chăng? Họ cũng thực sự tin rằng chủ quyền của phần lớn khu vực biển
trên là thuộc về Trung Quốc. Họ cho rằng lãnh đạo Việt Nam ngày nay tráo trở lật
lọng vì chính Thủ tướng Phạm Văn Đồng và toàn thể ban lãnh đạo miền Bắc Việt
nam (Việt nam Dân chủ Cộng Hoà) vào năm 1958 đã công khai thừa nhận chủ quyền của
Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và thềm lục địa 12 hải lý của
Trung Quốc quanh các đảo này.
Thực ra là 'Bốn không'?
BBC: Việt Nam có nên điều chỉnh chính sách quốc phòng 'ba không' lâu
nay và liệu có khả năng xảy ra nguy cơ đối đầu xung đột ở mức cao
trên Biển Đông hay không?
Giáo
sư Vũ Tường: Chính sách của chính phủ Việt nam cho đến nay mà
thể hiện rõ ràng là phản ứng yếu ớt; "giữ gìn đại cục"; đàn áp dân
chúng biểu tình; nhận viện trợ và ưu đãi cho các công ty Trung Quốc đầu tư;
"ba không" - thực ra là bốn không, còn bao gồm không kiện Trung Quốc
ra toà án quốc tế, làm cho lãnh đạo Trung Quốc càng tin là họ có thể dùng tiền
để xoa dịu các phản đối nếu có từ phía Việt nam trước chính sách của họ.
Câu hỏi chính là liệu sẽ có chiến tranh Việt-Trung
và Mỹ-Trung? Từ lâu tôi vẫn tin là căng thẳng ở biển Đông sẽ không dẫn đến chiến
tranh Việt - Trung vì chính phủ Việt Nam có quá nhiều thứ để mất, đặc biệt là
quyền lực độc tôn của Đảng Cộng sản và quyền lợi kinh tế của các công ty nhà nước,
nếu để chiến tranh nổ ra.
Chiến tranh Mỹ-Trung cũng khó xảy ra phần vì Trung
Quốc có thể đạt được mục tiêu (bá chủ phần lớn khu vực biển) mà không chạm đến
lợi ích cốt lõi của Mỹ (tự do hàng hải).
BBC:Câu hỏi chính nào đang được đặt ra với giới nghiên cứu và những
ai quan tâm tới an ninh, chính trị và bang giao quốc tế ở khu vực, đặc biệt
liên quan đối sách của các nước được cho là nhỏ và yếu trong
vùng?
GS.
Vũ Tường: Giới nghiên cứu quan hệ quốc tế đã tranh luận nhiều
về sự trỗi dậy của Trung Quốc, khả năng trỗi dậy hoà bình cũng như nguy cơ chiến
tranh. Dĩ nhiên các nước lân bang của Trung Quốc sẽ chịu ảnh hưởng trước nhất và
nhiều nhất khi Trung Quốc trỗi dậy.
Trong tình hình này, các thể chế và tổ chức khu vực
như ASEAN hay APEC có thể sẽ thay đổi, thậm chí giải thể và bị thay thế bởi những
thể chế mới để phản ánh tương quan lực lượng mới. Ví dụ: khái niệm Ấn-Thái Bình
Dương là một khái niệm khá mới. Ý tưởng này có thành hiện thực dưới hình thức một
liên minh hay không còn phải chờ xem.
Trong trung và dài hạn, các nước tương đối yếu hơn ở
khu vực trong đó có Việt Nam sẽ phải tự điều chỉnh theo cách riêng của mình, dựa
trên sức mạnh kinh tế và quân sự, vị trí địa lý, khả năng điều hành của lãnh đạo,
v.v… Mỗi nước có những thách thức khác nhau và không có câu trả lời chung.
Lý thuyết quan hệ quốc tế cung cấp hai chọn lựa cơ bản
cho các nước nhỏ trong khu vực: hoặc chấp nhận sự lãnh đạo của Trung Quốc hoặc
dùng Mỹ và các cường quốc khác cân bằng Trung Quốc (luật pháp quốc tế cũng có
thể là một loại đồng minh cân bằng với Trung Quốc trong việc tranh chấp lãnh thổ).
Hai chọn lựa này không loại trừ việc phát triển khả
năng tự thân để tự vệ. Phát triển khả năng tự thân trước mắt là mua vũ khí và
tăng cường hải quân cũng như phát huy tinh thần dân tộc, nhưng trong trung hạn
phải có kế hoạch công nghiệp hoá gấp rút như Hàn Quốc đã làm trong 30 năm. Cân
bằng để tự vệ có thể thông qua liên minh quân sự, quan hệ mậu dịch, hay cải tổ
chính trị. Trong điều kiện Việt nam, dân chủ hoá sẽ tăng tính chính danh của chế
độ đối với trong nước và thế giới, giúp Việt nam thêm sức mạnh, bạn bè.
Viễn vọng và kịch bản?
BBC: Quan hệ liên đảng cộng sản giữa chính quyền Việt Nam với Trung
Quốc hiện nay có giúp giải quyết vấn đề, hay trở thành 'cái bẫy' lợi bất cập hại?
Viễn vọng và kịch bản nào (kể cả nguy cơ nếu có) đang chờ Việt
Nam, nếu không thay đổi đường lối?
GS.
Vũ Tường: Trong thời gian dài trước năm 2007, ban lãnh đạo Việt
nam không quan tâm lắm đến chủ quyền biển đảo. Từ năm đó, họ đã quan tâm hơn,
tìm cách tăng cường khả năng tự thân tự vệ bằng quân sự và phát triển quan hệ với
các đối thủ tiềm tàng của Trung Quốc như Mỹ, Nhật và Ấn Độ.
Mặt khác, họ từ chối dùng luật pháp quốc tế để kiện
Trung Quốc, nâng cấp quan hệ với Mỹ trong một chừng mực hạn chế, đàn áp những
biểu hiện của tinh thần dân tộc, và ngăn cản xã hội dân sự phát triển. Tại sa
Đó là vì đường
lối chính, nhưng không công khai, của Đảng Cộng sản Việt nam là giải quyết vấn
đề trên quan hệ song phương giữa hai Đảng cầm quyền mà cùng gắn nhãn "cộng
sản", hai nhà nước mà cùng mô hình độc tài toàn trị, hai quân đội mà cùng
gắn nhãn "nhân dân".
Chủ trương
này có cơ sở lịch sử, cái thời mà "Bác Hồ ta đó cũng là bác Mao" như
trong thơ Chế Lan Viên ghi lại và phản ánh, cơ sở viễn kiến chính trị vẫn được
biết tới là "đại cục" hay tương lai toàn thắng của chủ nghĩa xã hội,
và cơ sở vật chất với lợi ích kinh tế cho các công ty nhà nước hay "sân
sau" của quan chức.
Chủ trương này tốt nhất cho Đảng Cộng sản Việt nam
vì nó tương thích với mục tiêu và lợi ích của đảng này, nó còn dễ thực hiện vì
nó đi theo đường lối sẵn có, không phải cố gắng nhiều mà đem lại lợi ích lớn
trước mắt cho cán bộ đương chức đương quyền.
Chủ trương này, mặt khác, mâu thuẫn và làm giảm hiệu
lực của các biện pháp khác nhằm cân bằng với Trung Quốc. Nếu nhìn từ góc độ lợi
ích lâu dài của quốc gia, chủ trương này còn cản trở việc thực hiện những cải
cách kinh tế chính trị sâu rộng để tạo sự phát triển bền vững cho Việt nam.
Quan hệ kinh tế gần gũi với Trung Quốc không mang lại
công nghiệp tiên tiến mà có rủi ro lớn là nợ công, ô nhiễm môi trường, và tham
nhũng. Cơ sở lịch sử và chính trị của chủ trương này hoàn toàn sai lệch,
"viển vông" như từ ngữ của ông Nguyễn Tấn Dũng đã dùng.
Tương lai toàn thắng của chủ nghĩa xã hội chỉ là cái
bánh vẽ lãnh đạo Đảng Cộng sản còn níu kéo nhưng cả thế giới và có lẽ đại đa số
Đảng viên đã từ bỏ.
Lịch sử quan hệ hai Đảng Cộng sản Việt-Trung không
có gì đáng tự hào nếu không nói là thảm kịch kinh tởm của niềm tin và sự phản bội
lẫn nhau, dẫn đến chiến tranh và sự hy sinh vô ích của hàng vạn người dân và
chiến sĩ.
Rất có thể áp lực ngày càng tăng của Trung Quốc và của
dân chúng, kể cả những Đảng viên có tinh thần dân tộc, sẽ buộc Đảng của ông
Nguyễn Phú Trọng phải thay đổi chính sách.
Vấn đề là Đảng này hiện nay thiếu lãnh đạo có tinh
thần dân tộc, tầm nhìn xa, và khả năng tạo ra thay đổi bước ngoặt. Có thể đoán
được là tình hình căng thẳng sẽ tiếp tục trong nhiều năm đến khi Trung Quốc dần
dần thiết lập quyền kiểm soát trên phần lớn biển Đông.
*
Giáo sư Vũ Tường giảng dạy và nghiên cứu tại Khoa
Khoa học Chính trị, Đại học Oregon, Hoa Kỳ từ năm 2008. Ông từng thỉnh giảng tại
Đại học Princeton, Đại học Quốc gia Singapore, cũng như tại Naval Postgraduate
School ở Monterey, California. Nghiên cứu của ông về chính trị
so sánh, liên quan các chủ để về hình thành quốc gia, phát triển, chủ nghĩa dân
tộc và các cuộc cách mạng, đặc biệt tập trung vào Đông Á. Chính
sách quốc phòng "ba không" được Việt Nam thi triển bao
gồm: không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ
nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa
vào nước này để chống nước kia.
No comments:
Post a Comment