12:00:am
26/04/16
Ngồi buồn gãi háng, dái lăn tăn…
Trần
Văn Hương
Tác
giả câu thơ thượng dẫn là một chính khách rất tài tử, và vô cùng mờ nhạt.
Không mấy ai nhớ rằng ông đã từng giữ những chức vụ như Thủ Tướng, Phó Tổng Thống,
và Tổng Thống trong thời Đệ II Cộng Hoà – ở miền Nam Việt Nam.
Dân
chúng ở miền đất này thường chỉ nhớ đến Trần Văn Hương như một người lập dị. Ổng
hay đi làm bằng xe đạp, trong thời gian là Ðô Trưởng Sài Gòn, và thỉnh thoảng lại
sáng tác ra những câu thơ (hơi) kỳ cục:
Ngồi buồn
gãi háng, dái lăn tăn…
Ở miền
Bắc phần lớn quí vị chính khách đều hành nghề cách mạng một cách bền bỉ, liên lỉ
và chuyên nghiệp hơn nhiều. Họ cũng sính chuyện thơ văn hơn, và cách họ làm thơ
(hoặc viết văn) cũng gây lôi thôi phiền phức nhiều hơn – cho cả đống người!
Khi ngồi
buồn, họ không gãi háng. Lúc rảnh rỗi, họ cũng không chịu viết văn hay làm thơ
chỉ để đọc chơi thôi. Văn thơ của họ khiến cho cả nước phải bận lòng, và không
ít người phải bỏ mẹ, hay bỏ mạng! Xin đơn cử một thí dụ, một câu thơ nổi tiếng
hơn, của một chính khách tăm tiếng (và tai tiếng) hơn nhiều:
Bỗng
nghe vần thắng vút lên cao…
Nói
theo ngôn ngữ của binh pháp thì tác giả câu thơ vừa dẫn, ông Hồ Chí Minh, là một
người cư an tư nguy . Ông Trần Văn Hương thì ngược lại. Ổng cư nguy tư an. Nói
cách khác, và nói theo kiểu miền Nam, là thằng chả lè phè hết biết luôn!
Nghiêm
túc, khẩn trương, hiếu chiến và hiếu thắng…không phải là quan niệm sống
riêng của ông Hồ. Thi đua lập chiến công dâng Đảng, đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy
nhào, một người làm việc bằng hai, nghiêng đồng cho nước chẩy ra ngoài… là chỉ
thị của “trên” đưa xuống và nửa nước bắt buộc phải (triệt để) tuần hành.
Lè phè
cũng không phải là thái độ sống chỉ có nơi ông Trần Văn Hương. Ðó là cung cách
chung của hầu hết người dân miền Nam. Sự khác biệt giữa ông Trần Văn Hương và
dân chúng, có chăng, chỉ là mức độ.
Không mấy
người dân miền Nam, lúc buồn, chịu ngồi gãi háng (suông) như ông Tổng Thống.
Họ thường vừa gãi háng vừa nhậu lai rai (vài xị) cho vui – nếu là đàn ông. Họ
đánh tứ sắc, đi coi cải luơng, hoặc đi cầm đồ để mua sầu riêng ăn chơi cho đỡ
ghiền – nếu là đàn bà, ở đô thị. Và họ đi Hồng Kông hay Nhựt Bổn để mua đồ
lót và son phấn, nếu là bà lớn. Họ đi buôn lậu (không chừng) nếu là ông lớn.
Và cả đám đều hân hoan chơi tạt lon, thả diều, đá banh, đá bóng, đá dế,
đá cầu, đá kiện, đá cá lia thia hay lắc bầu cua cá cọp – nếu là con nít nhỏ, ở
thành phố.
Chuyện
đánh đấm là “chuyện riêng” của môt giới người, tụi lính. Hứng chịu bom đạn, tai
ương của chiến tranh là nỗi bất hạnh riêng của một số người khác nữa – đám nông
dân.
Những
chiến dịch hay phong trào hoàn thành kế hoạch nhỏ, nhi đồng cứu quốc, thay trời
làm mưa, quyết tâm thu hoạch vượt chỉ tiêu vụ này vụ nọ… nếu phát động ở miền
Nam (e) sẽ không có người tham gia, và tác giả của chúng – chắc chắn – sẽ bị
dân chúng cũng như báo chí chửi cho… tắt bếp!
Chuyện
Nam – Bắc đánh nhau kết thúc ra sao, vào ngày 30 tháng tư năm 1975, mọi người đều
rõ. Viết thêm nửa chữ cũng thừa.
Cuộc
chiến tàn. Theo sự hứa hẹn của quí vị lãnh tụ (của phe thắng trận) thì từ đây
ta sẽ xây dựng đất nước gấp muời lần hơn, ta cũng sẽ đi tắt đón đầu nhân loại,
và ta sẽ chuyển đổi từ ăn no mặc ấm qua ăn sang mặc đẹp…
Chuyện
dân Việt ăn mặc (sang trọng và đẹp đẽ) ra sao để từ từ rồi tính tới nhưng riêng
về cách họ dùng lon, thay gáo, uống nước thì ngó bộ quá tốn công và rất…cầu kỳ
– theo như ghi nhận của nhà văn Bùi Ngọc Tấn:
“Lần
về phép này Bá có thêm một thứ quà đặc biệt văn minh khác: Những vỏ đồ hộp nước
giải khát các loại. Các mầu xanh, đỏ, hồng, da cam, vàng, lon Heineken, lon
Coca Cola, Pepsi Cola, những lon Tiger, San-Miguel, những lon nước ngọt đã uống
cạn mà trong những lần xuống tầu đi nước ngoài anh lượm được cho vào túi ni
lông mang về…
Anh
Vận chọn ra những vỏ đẹp nhất, mỗi loại một chiếc, không móp, không méo, đem ra
giếng súc rửa sạch rồi bầy vào tủ. Và nhặt bốn vỏ lon khác, mỗi chiếc một mầu bảo
lũ trẻ con mài trên nền xi măng trong nhà. Mấy đứa trẻ lao vào mài theo đúng hướng
dẫn của anh. Tiếng sào sạo sạo sạo ghê người. Chẳng mấy chốc, cái nắp hộp rời
ra. Anh xếp bốn chiếc vỏ hộp lên bàn, nở nụ cười mãn nguyện:
–
Làm cốc uống nước…
Những
chiếc vỏ hộp trên bàn, trong tủ, những dấu vết ấy của văn minh làm nhà anh cứ
sáng trưng lên, khác hẳn mọi nhà chung quanh. Nhà anh đã có hơi hướm của một thế
giới khác, một thời đại khác khi các nhà chung quanh vẫn còn đang triền miên thời
làm nương, thời lúa nước.
Và đến
khi lũ trẻ được thoải mái chơi nghịch những vỏ lon còn lại mới thật tưng bừng.
Đúng là một ngày hội…”
(Bùi Ngọc Tấn. Biển Và Chim Bói Cá. Hội Nhà Văn. Hà Nội: 2008, 436 – 437).
Điều kiện
sống, cũng như niềm vui “tưng bừng” trong “ngày hội” của dân Việt, như vừa được
mô tả – dường như – có làm cho một số người cảm thấy bất an, hoặc không được
hài lòng cho lắm. Tác phẩm Biển
và chim bói cá (trong một buổi hội thảo, do công ty Nhã Nam tổ chức,
vào ngày 20 tháng 3 năm 2009) đã được “bình” và “phê” như sau:
“…
chi tiết rất quan trọng trong tiểu thuyết. Nhưng đưa quá nhiều chi tiết mà chưa
được tổ chức một cách chặt chẽ như Bùi Ngọc Tấn, theo anh không hẳn đã là một
thành công. Thanh Sơn cũng nhấn mạnh, sự ngồn ngộn của chi tiết khiến độc giả rất
khó đọc, rất mệt để đọc đến những dòng cuối cùng.”
Có lẽ,
người ta chỉ cảm thấy bớt mệt (và thở phào nhẹ nhõm) khi Hà Linh – người viết
bài tường thuật thượng dẫn – cho biết thêm rằng “Biển và chim bói cá lấy bối cảnh
thời bao cấp.” Thiệt là mừng hết lớn.
Đó là một
thời đã qua rồi!
Lịch sử
đã sang trang. Chuyện cầu cạnh, bon chen, cậy cục, vay muợn, chạy chọt cho có
cơ hội được bước xuống tầu viễn dương – làm một chuyến viễn du, hay nói một
cách lịch sự và lịch sử là Đông Du – đi đến những chân trời xa lạ (để
mang về những cái chai và lon.. rỗng) không còn phải là đặc quyền của riêng một
giới người nào nữa.
Hai
muơi năm sau, kể từ lúc “Đảng dũng cảm và quyết tâm đổi mới,” vào năm 2006, Thủ
Tướng Nguyễn Tấn Dũng còn lớn tiếng hô hào toàn dân “hãy bước ra biển lớn.” Mệnh
lệnh của ông đã khiến cho dư luận (hết sức) xôn xao và (vô cùng) phấn khích –
trong một thời gian rất dài – qua diễn đàn Vươn Ra Biển Lớn, trên Tuổi Trẻ
Online.
Nhiều
năm sau nữa, sau khi thuyền (đã) ra cửa biển, cuộc sống – xem chừng – cũng
không khác trước là bao. Hãy thử đọc một đoạn văn khác, của một ngòi viết khác,
về sinh hoạt của một vùng đất khác – ở Việt Nam – bây giờ:
“Cả
bản xôn xao khi thấy người lạ xuất hiện. Đám trẻ con hầu hết không quần áo, hoặc
trên mình chỉ mang một trong hai thứ, mặt mày chúng trông bẩn thỉu, lem luốc và
chi chít vết ruồi vàng bọ chó cắn.
Tôi
hỏi thăm đường đến nhà mấy giáo viên cắm bản, nhưng chẳng có ai biết nói tiếng
Kinh cả. Nhìn về phía cuối bản, tôi bỗng thấy một lá cờ đỏ bay phấp phới, đoán
rằng đấy chắc là khu vực lớp học, tôi lại nặng nề lê bước về phía đó. Mấy thầy
cô giáo thấy tôi xuất hiện, họ không khỏi ngỡ ngàng. Với họ, sự xuất hiện của
người Kinh ở bản biên giới này hình như hiếm lắm…
Có lẽ
cuộc sống người dân tộc La Hủ ở Pa Ủ cũng đơn giản như chính những ngôi nhà mái
tranh vách phên của họ. Đơn giản đến lo ngại như những liếp phên cứ rung lên bần
bật bởi gió rừng. Ở những túp lều bé nhỏ đến chật chội vì quá đông người đó, mỗi
nơi lại có một câu chuyện về hoàn cảnh và những số phận con người. Cuộc sống của
mỗi gia đình ngày hai bữa sáng, tối phải lót dạ một cách dè dặt với canh sắn,
ngô đồ, còn măng và rau sắn thì dường như ngự trị bữaăn…, để có một nồi cơm độn
sắn cũng hết sức khó khăn!(“Thương Lắm Những Búp Non Ở Trên Cành”) Mạnh Hà, phóng
viên TTXVN tại Lai Châu).
Ảnh:
Báo Lai Châu
Thôi chết
mẹ! Vậy là khi tầu hạ thủy – vì lu bu nhiều chuyện quá – Đảng và Nhà Nuớc đã
quên (hú) những người dân ở miền sâu, miền xa, miền rừng núi rồi. Đúng không?
– Thưa
không! Cả đống còn đang đứng (lóng ngóng) trên bờ, chớ đâu có riêng chi mấy đám
dân bản địa.
Trong một
cuộc chất vấn dành cho những đại biểu quốc hội, Bộ Trưởng Nông Nghiệp Cao Đức
Phát cho biết ở thôn quê “vẫn còn hàng trăm nghìn đồng bào chỉ được ăn cơm khi
ngày lễ, ngày tết, khi bị ốm!”
Như vậy
là đám nông dân, ở miền xuôi, cũng bị bỏ lại luôn sao?
– Chắc
bi họ đông quá nên mang theo (e) quá tải chăng?
– Thế
còn đám công nhân?
Xin
đọc qua đôi dòng tường thuật của ký
giả Nguyễn Bay:
Một ngọn đèn dầu, cái giỏ nhựa đựng đồ nghề đấm
bóp, giác hơi, chiếu cói, gối hoa trải sẵn hoặc chỉ là một tấm áo mưa. Thợ giác
hơi quanh KCN Tân Tạo đa số là nữ với các ‘chiếu’ trên vỉa hè, ven đường, thậm
chí chỉ một mô đất giữa ruộng; hoạt động từ 18g30 đến 3-4 giờ sáng…
Gần một năm nay, các “chiếu” giác hơi ngày một
dài thêm hàng cây số (đường đi Long An, An Sương). Lúp xúp trong bụi cây, bờ cỏ,
chúng tôi nhận ra nhiều thợ vốn là công nhân… Những khi tan ca, họ lẫn vào dòng
thợ ‘chào hàng’… Tiền công 10.000 – 15.000 đồng/lần, bằng nửa ngày công… làm thợ.
Dẫy chiếu “ngày một dài thêm” vì vật giá mỗi
lúc một tăng mà đồng lương thì không. Lương bổng công nhân Việt Nam không thể
nâng cao hơn vì những người lãnh đạo ở xứ sở này đã lựa chọn một … quốc sách thấp
– theo
lời ông Hồ Xuân Lâm, trưởng phòng quản lý lao động các khu chế xuất – khu
công nghiệp TP.HCM:
Chúng tôi đã có cuộc họp với Hiệp hội Doanh
nghiệp Đài Loan và tư vấn cho họ hãy trả lương cao hơn để tránh đình công. Họ
nói là rất muốn trả cao hơn nhưng không thể vì quy định lương của Chính phủ Việt
Nam quá thấp, các đối tác nước ngoài dựa vào đó kềm giá đơn hàng nên có muốn
cũng không thể tăng hơn được.
Nói tóm
lại – và vẫn nói theo kiểu miền Nam – là thuyền đã ra cửa biển … mình ên! Nhắc
đến miền Nam, tôi lại chợt nhớ đến những chuyến tầu (bay) vội vã rời khỏi Sài
Gòn – vào tháng Tư, bốn muơi năm trước – năm 1975. Trên một số những con tầu
này chỉ có qúi ông qúi bà tai to mặt lớn (cùng với của cải, thân nhân và gia
nhân của họ) mà thôi.
Bây giờ,
sau khi bước ra biển lớn, kiểm điểm lại cũng chỉ thấy duới thuyền không có ai
khác – ngoài những kẻ cầm quyền, cùng với hành lý, thân nhân và gia nhân của họ.
Thuyền đi càng xa, khoảng cách giàu nghèo (rõ ràng) càng rộng. Ông bạn Lê Diễn
Đức gọi đó là sự đểu cáng thời vươn ra biển lớn.
Phải đốt
cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục triệu mạng người
– thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để đổi lấy sự đểu cáng như thế thì (đ… mẹ)
không chửi thề sao được chớ.
© Đàn
Chim Việt
No comments:
Post a Comment