Lê Tuấn Huy
27/04/2016
1.
Sự việc
quán Xin Chào, xét về pháp quyền, việc can thiệp của Bí thư Đinh La Thăng và Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc đều sai. Nhưng về pháp trị, hai ông đều đúng, vì đó là
cách duy nhất mới "trị" lại được cái "trị" bằng pháp của
phía công an.
Công an
Bình Chánh, khi khơi mào sự việc, đã dùng pháp trị chứ không phải pháp quyền.
Sáng 21/04/16, Công an thành phố lại dùng đến những lập luận kiểu pháp trị để hậu
thuẫn cho việc làm của cấp dưới. Nếu Thủ tướng Phúc không tức thời có ý kiến,
chắc chắn họ sẽ tiếp tục nhận được sự hậu thuẫn của viện kiểm sát và tòa án sở
tại, bằng việc đưa ra xét xử theo kết luận điều tra đã có.
Nói như
vậy không có nghĩa là ủng hộ việc làm của ông Thăng và ông Phúc, mà rằng, cái bế
tắc của tư pháp nói riêng và thể chế chính trị VN nói chung là ở chỗ: đã thay nền
pháp quyền bằng pháp trị.
2.
Trong
truyền thống học thuật và xã hội phương Tây, hầu như không cần thiết để phân biệt
giữa pháp quyền và pháp trị. Ở nơi mà chế độ phong kiến tập quyền không đè nặng
lên tiến trình lịch sử, dù không thể tránh khỏi những lúc thoái trào hay trúc
trắc, thì việc rời khỏi nền chuyên chế bằng nguyên tắc thượng tôn pháp luật,
nói chung, không gặp phải những “biến hình” tương phản.
Ở
phương Đông, tư tưởng trọng pháp đã đi vào hiện thực rất sớm. Thương Ưởng
(?-339 TCN) với “biến pháp” và “định pháp” đã góp phần lớn vào sự ổn định của
nhà Tần. Đến Hàn Phi Tử (280-233 TCN) thì Pháp trị trở thành một lý luận có hệ
thống. Dù không được quê hương của mình (nước Hàn) coi trọng, tư tưởng của ông
đã được nước Tần bên cạnh vận dụng[1].
Trải mấy
nghìn năm kể từ đấy, pháp trị kết hợp với đức trị, đã đi cùng với nền phong kiến
tập quyền, và tiếp tục được tận dụng dưới những chính thể chuyên chế hiện đại ở
Trung Hoa và phương Đông.
Tư duy
pháp trị theo kiểu Pháp gia đã đi vào tâm thức của các dân tộc chịu ảnh hưởng
văn hóa Trung Hoa. Đó là một trong những nguyên nhân khiến nhiều nước Đông Á tiến
đến dân chủ bằng thời kỳ quá độ của một nền độc tài trọng pháp.
Việt
Nam cũng nằm trong vùng ảnh hưởng đó. Và trong giới lý luận, với xu hướng quay
về “bản sắc dân tộc”, không ít người xem pháp trị kiểu Hàn Phi là liều thuốc thể
chế.
Học
thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử mang nhiều yếu tố thực tiễn và tích cực, có thể
chọn lọc và vận dụng vào ngày nay. Tuy nhiên, cùng với chủ trương chủ trương tập
quyền, trong vấn đề tương quan quyền lực, nó (đương nhiên) thiếu vắng những đặc
trưng đa thể, đa tương tác, đa chiều cạnh trong quan hệ giữa chủ thể quyền lực,
khách thể quyền lực và phương tiện quyền lực (xem Phụ lục). Trong học
thuyết Hàn Phi, đó là sự tương tác một chiều, từ chủ thể quyền lực hướng đến
khách thể quyền lực, thông qua pháp luật; là cai trị và trừng trị dân chúng và
quan lại bằng pháp luật, tạo sự ổn định xã hội, ngõ hầu giữ vững quyền lực
chuyên chế cho chính quyền trung ương. Chỉ có thế, mà không có sự kiểm soát ngược,
và (đương nhiên) cũng không có vấn đề nhân quyền hay dân quyền...
Cần xét đến một điểm yếu tương đối phổ
biến trong tư duy không ít người Việt, là thường hiểu vấn đề trên mặt chữ. Cho
nên, việc trùng lắp chữ “pháp trị” giữa pháp trị kiểu Hàn Phi với pháp trị kiểu
mới, là một nguy cơ cho cả lý luận lẫn thực tiễn.
Bởi thế,
cho dù “rule of law” đã được dịch là
“pháp trị” từ trước năm 1975 (ở miền Nam), đã ăn sâu vào cách dụng ngữ của
nhiều người, đã xứng hợp ngữ âm với những các từ như quân trị, dân trị, đức trị,
v.v, tôi thấy vẫn cần phân định giữa “pháp quyền” và “pháp trị”, với “pháp quyền”
(và “nhà nước pháp quyền”) gắn với nhà nước dân chủ hiện đại, còn “pháp trị” đi
với tinh thần dụng pháp theo kiểu Pháp gia.
Trong sự
vận động của ngôn ngữ, từ ngữ không phải định hình cố định một lần, mà sẽ thay
đổi theo sự thay đổi của nội hàm (và ngược lại), và theo sự thay đổi của sắc
thái, nội dung thời đại. Có nhiều ví dụ về việc này, cả trong từ ngữ chuyên môn
lẫn thông thường. (Chẳng hạn, Utilitarianism ban đầu được dịch là “thuyết Vị lợi”,
nhưng sau được điều chỉnh lại, đúng hơn, là “thuyết Công lợi”, dù rõ ràng trên
con chữ, tưởng chừng “vị lợi” sát nghĩa hơn vì không thấy chữ “công” nào ở từ nguyên
cả. Hay như chữ Minister là “bộ trưởng”, nhưng nếu đem từ đó dịch cho chức vụ
này ở thời gian trước các nền cộng hòa sau các cuộc cách mạng ở châu Âu, là
không thể chấp nhận được, dù khi ấy đã được gọi là “minister”).
Cũng cần
nói thêm, khái niệm “rule of law” hay “pháp trị” phương Tây (theo cách dịch cũ)
sinh ra trong bối cảnh mà quan hệ chính trị hầu như chỉ xoay quanh cái “rule”
đó, tức vấn đề cai trị và bị trị, cai trị như thế nào và bị trị ra sao: chữ “trị”
trở thành “từ khóa”. Ngày nay, lõi vẫn thế, nhưng sự vận động của chính trị đã
đi rất xa từ tâm điểm ban đầu ấy. Tiếp cận đến triết học chính trị (và chính trị
học) hiện đại, với những vấn đề như công bằng, quyền tự do và các quyền khác, tự
trị cá thể, phẩm hạnh công dân, các nhóm thiểu số..., ta sẽ thấy tương quan của
chữ “trị” (cai trị – bị trị) đã chuyển hóa sang chữ “quyền” (quyền trong
“power” và cả trong “ringts”). “Rule of law” không hề mất đi cả trên con chữ lẫn
nội dung, nhưng đã chuyển biến về nội hàm và ngữ nghĩa.
3.
Thực tế,
ngoài sự bảo thủ ý thức hệ, một trong những nguyên nhân khiến tiến trình cải
cách chính trị Việt Nam chệch choạng, chính là hiểu nhà nước pháp quyền theo kiểu
pháp trị. Và hơn thế, là một kiểu pháp trị gần như cực đoan: chủ thể quyền lực,
ở những tầng nấc khác nhau, có thể thao túng hoàn toàn luật pháp:
- Dùng
hiến pháp và luật pháp bảo đảm cho sự tập trung quyền lực chuyên chính, trên mọi
mặt xã hội.
- Lấy
cái “vô pháp” để vô hiệu cái “hữu pháp”: dùng luật pháp để “tái điều chỉnh” hiến
pháp (trong các vấn đề về quyền chính trị và các quyền tự do khác).
- “Biến
pháp” vô định: dùng hệ thống pháp quy nhiều tầng để “tái điều chỉnh” pháp luật.
- “Định
pháp” vô lường: chú trọng “trị (dân) chúng” hơn “trị (quan) lại”.
- v.v.
Một thời
gian không hề ngắn ngủi vừa qua đã cho thấy, việc dụng pháp trên tinh thần
chuyên chế đang từng bước đẩy xã hội đến bờ vực tan rã. Nguy cơ của một nền
pháp trị khoác áo pháp quyền đã hiển hiện chứ không còn là lo âu hay dự báo nữa.
4.
Những ý
kiến không đồng tình việc Thủ tướng Phúc yêu cầu dừng vụ án quán Xin Chào, có
lý lẽ rất hợp lý, đại ý: phải tôn trọng tính độc lập của luật pháp và ba nhánh
quyền lực, không thể để cảm giác bênh vực người yếu thế che mờ pháp luật, nên một
khi đã có lịch xét xử, phải để tiến trình pháp lý được tiếp tục...
Ý kiến
kiểu này không sai, nhưng chỉ là lặp lại kiến thức suông, một cách máy móc, mà
không biết đến bối cảnh cụ thể, không gắn với cuộc sống.
Luật
pháp là do con người định ra và thi hành, nhằm phục vụ cho con người. Khi
"con người" chỉ được hiểu như một nhóm, một thành phần, hoặc được hiểu
là ưu tiên cho chủ thể quyền lực, thì luật pháp đó chỉ phục vụ cho nhu cầu pháp
trị, không phải pháp quyền.
Trong
khi người dân bị áp chế bằng pháp trị, tức bị công quyền trị bằng cái pháp tùy
tiện, thì lại đòi hỏi phục tùng nó tuyệt đối bằng tinh thần pháp quyền. Khi vẫn
chưa có được nền tư pháp độc lập, sự chi phối theo hàng dọc và hàng ngang là điều
bình thường của hệ thống tòa án, thì chủ quán Xin Chào chắc rằng không khỏi
thoát cảnh “án tại hồ sơ”. Biết như thế, mà vẫn cho rằng ông Nguyễn Văn Tấn cần
phải hầu tòa để bảo đảm vị thế của pháp luật, thì thực chất chỉ là xem con người
như công cụ, như một viên gạch lát trên con đường đi đến một xã hội thượng tôn
luật pháp, mà không xuất phát từ cái gốc nhân bản của pháp luật.
Phong
cách đó, là hướng đến pháp quyền bằng tư duy pháp trị.
Cũng có
ý kiến cho rằng không đồng tình với việc làm của Thủ tướng Phúc là xuất phát từ
cái nhìn hướng đến tương lai, vì sự can thiệp ấy có thể đem lại tác hại đối với
nhiều vụ việc khác về sau.
Ý kiến
đó hoàn toàn đúng, nếu xét trong bối cảnh pháp quyền. Tuy nhiên, như đã nói,
chúng ta đang tồn tại trong môi trường pháp trị, không phải pháp quyền.
Ngoài
ra, nếu suy nghĩ mang nhiều tính pháp quyền hơn, ta sẽ thấy rằng, tại sao cứ phải
cho rằng ông Tấn cần tiếp tục chịu chế tài tư pháp để bảo đảm tính độc lập của
luật pháp, mà không thấy rằng phía công an phải chịu sự chế ước của xã hội để
tăng cường tính minh bạch và công chính, và cũng bởi chính họ mới là lực lượng
phải biết thượng tôn luật pháp và tinh thần công minh trước tiên?
Thêm nữa,
liệu hy sinh ông Tấn để bảo đảm tiến trình pháp lý, sẽ không có tác hại đối với
nhiều vụ việc về sau, mà chúng ta đã thấy, là nguy cơ chế độ công an trị?
Trên
bình diện chính trị, những người quan tâm đến thời cuộc hẳn đã thấy quá rõ nguy
cơ công an trị trên cơ sở tuân thủ vô điều kiện "quy trình pháp lý" của
cơ quan này. Những cái chết do “tự treo cổ” trong tư thế ngồi hay quỳ trong đồn
công an, đều có kết luận đúng “quy luật khoa học” và “biểu hiện y khoa”, mà
không có sự can thiệp nào của cơ quan hành pháp đủ thẩm quyền, há không phải là
đã khuyến khích quyền “trị chúng” vô tội vạ của họ? Liên tục, ông Nguyễn Văn Tấn,
Nguyễn Văn Bỉ, rồi bà Nguyễn
Thị Ánh Ngọc bị chế tài pháp lý một cách phi pháp (và đây nữa, cập nhật
thêm vụ mới nhất: doanh
nghiệp đóng tàu PPC kêu cứu), nếu không được can thiệp, há không phải đã củng
cố sự thao túng pháp luật đến độ cùng cực từ phía công an?
Còn
trên bình diện kinh tế, ông Lê Mạnh Hà, Phó chủ nhiệm VPCP cũng nói
về nguy cơ đó, dù không dùng từ “công an trị”.
5.
Từ sau
Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam, việc ông Đinh La Thăng và bí thư tỉnh ủy những
nơi khác trực tiếp chỉ đạo nhiều sự vụ thuộc thẩm quyền của chính quyền, là bước
lùi tai hại của cải cách chính trị, mà phương châm đã được xác định qua nhiều kỳ
đại hội, là: Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chủ trương, đường lối, chứ không trực
tiếp can thiệp hay làm thay công việc của chính quyền.
Dường
như ban lãnh đạo Đảng hiện nay (và những nhà lý luận xoay quanh họ) đang muốn
“xét lại” luận điểm này và xây dựng một quan niệm “mới” về quyền lực. Có lẽ –
theo cách nhìn của họ – phải làm điều này vì sự thao túng của các nhóm lợi ích
đối với chính quyền trong thời gian dài vừa qua, là nguyên nhân của sự thoái
hóa trong Đảng và nhà nước, đẩy xã hội đến bờ vực.
Không
thể ủng hộ việc can thiệp của đảng phái vào chính quyền, cũng như của nhánh quyền
lực này vào việc của nhánh quyền lực khác, nhưng không thể không thừa nhận rằng,
cuộc sống đang cấp bách đòi hỏi sự xuất hiện của những con người đủ bản lĩnh,
quyết đoán, và đủ quyền lực, để tức thời có quyết định theo hướng ích nước, lợi
dân.
Song,
đó là sự khác biệt về phạm vi, giữa dài hạn và ngắn hạn.
Trước mắt,
Đảng Cộng sản Việt Nam có thể thu được những kết quả nhất định bằng chủ trương
can thiệp trực tiếp, nhưng về lâu dài, chính điều này sẽ hủy hoại cải cách,
bung xung thể chế, và phá hoại cả nội bộ đảng.
Giải
pháp triệt để và đúng đắn nhất chỉ có thể là xây dựng một nền chính trị phân
quyền và đặt mọi đảng phái vào đúng vị trí của nó, trong môi trường chính trị
có cạnh tranh.
Tuy
nhiên, xây dựng nền pháp quyền chân thật là việc còn dài, giúp người, phản đối
nền công an trị là việc trước mắt. Và không nên nhầm lẫn giữa hai “thời hiệu” ấy.
Do vậy, ý kiến gì, nếu xuất phát từ cái tâm đổi mới thật sự, nếu không đi xa đến
mức đặt vấn đề về thể chế, thì không nên lấy phận người làm công cụ, do có sự lẫn
lộn nào đó.
22 –
25/04/16
L.T.H
*
Phụ
lục
Các
đặc trưng của nhà nước pháp quyền nhìn từ cấu trúc của hệ thống quyền lực
Phụ
lục này tương đối chuyên sâu. Người không quan tâm đến chuyên môn, không nhất
thiết đọc đến.
Để nhận
biết sự khác nhau giữa pháp quyền và pháp trị, cần nhận diện những khác biệt đặc
trưng của cấu trúc ba thành tố của quyền lực dưới nhà nước pháp quyền, khi so với
nhà nước không pháp quyền trong xã hội cổ đại hay dưới nhà nước phong kiến,
cũng như ở các hình thức nhà nước chuyên quyền hiện đại.
Ba
thành tố đó là chủ thể quyền lực, khách thể quyền lực, và phương tiện quyền lực.
1. Chủ thể quyền lực dưới nhà nước pháp quyền
Trong
nhà nước không pháp quyền, chủ thể quyền lực, dưới hình thức duy nhất của nó –
người cai trị hoặc thành phần cai trị – là thực thể độc tôn có quyền lực chính
trị và quyền ra quyết định chính trị, thể hiện ý chí của chính họ. Quyết định
được đưa ra trực tiếp từ con người nắm giữ quyền lực, dưới hình thức chiếu chỉ,
sắc dụ, sắc lệnh, quyết định thành văn hay quyết định phát ngôn. Đó là những mệnh
lệnh tuyệt đối, không có sự phản hồi, đánh giá, nhận xét ngược, hoặc có nhưng
không có hiệu quả, từ phía khách thể quyền lực.
Do có sự
độc quyền quyền lực cũng như việc quyền lực thể hiện dưới hình thức ban bố trực
tiếp nhất, dưới những nhà nước loại này, quyền lực chính trị gần như đồng nhất
với quyền lực nhà nước.
Còn dưới
nhà nước pháp quyền, quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân.
Bản chất
cuối cùng của mọi quyền lực nhà nước vẫn thuộc về bản chất của một giai cấp hay
một thành phần xã hội giữ vai trò thống trị trong một thời đại lịch sử, hay của
thành phần hoặc nhóm xã hội mà do những diễn tiến, tình thế lịch sử-xã hội cụ
thể mà trở thành chủ thể nắm giữ quyền lực; nhưng trong nhà nước pháp quyền,
nhà nước không chỉ được nhận thức là công cụ cai trị và thành phần cai trị, mà
còn được nhận thức và tự nhận thức, là bộ máy phục vụ liên quan đến quảng
đại công chúng. Do vậy, trong nhà nước pháp quyền, nhà nước không chỉ là nhà nước
giai cấp, mà còn là nhà nước cộng đồng, nhà nước nhân dân. Đó chính là xuất
phát điểm của một nhà nước của dân, do dân, và vì dân. Quyền lực nhà nước với
tư cách quyền lực của một tổ chức xã hội đặc biệt vẫn tồn tại, nhưng nhân dân
được thừa nhận và pháp lý hóa như là quyền lực gốc cuối cùng của quyền lực
nhà nước.
Tuy
nhiên, một mặt, “nhân dân” ở đây có tính ước định lịch sử. Vào giai đoạn hình
thành nhà nước pháp quyền tư sản, nhân dân được hiểu như toàn bộ các thành phần
xã hội nằm ngoài giai cấp phong kiến, để rồi cùng với việc củng cố địa vị giai
cấp trong một nhà nước mới, “nhân dân” dần dần thu hẹp lại đến mức quyền lực của
nó nằm trong tay thiểu số xã hội. Mặt khác, cũng cần phân biệt giữa một nhà nước
thật sự của dân, do dân, vì dân, với một bên là tính hình thức của
ngôn từ.
Nhà nước
của dân, do dân và vì dân đối lập với các nhà nước không pháp quyền (nhà nước
vương quyền, giáo quyền, chuyên quyền, nhà nước hoạt đầu, độc tài…) vốn được chủ
thể quyền lực của nó tự phong là nhà nước thiêng liêng, nhà nước thần thánh,
nhà nước siêu việt nào đó của thiên mệnh, của thượng đế, hay của một thành phần
tinh hoa, ưu tú (quý tộc, tướng lĩnh, giai cấp…).
Dưới những
nhà nước không pháp quyền, sự chuyển giao quyền lực giữa các thế hệ chủ thể là
cơ chế nối-truyền (gia đình, dòng tộc, nội bộ bộ phận nắm quyền…). Công chúng
hoàn toàn không tham gia vào tiến trình này, hoặc “tham gia” một cách hình thức.
Nhà nước
pháp quyền là một bộ máy quyền lực được nhân dân bầu chọn, và quyền lực có được
là quyền lực uỷ thác mà không phải là một nhà nước truyền nối và quyền lực
tự phong.
Quyền lực
trực tiếp cá nhân trong nhà nước không pháp quyền trở thành quyền lực của
pháp luật thông qua vận dụng của con người dưới nhà nước pháp quyền. Nhà nước,
quyền lực nhà nước, chủ thể quyền lực nhà nước nay phải chịu sự ràng buộc của
pháp luật. Bên cạnh đó, quyền lực nhân dân được xác định và thực thi hiệu quả
không chỉ từ sự gián tiếp mà cả bằng những định chế chính trị, xã hội trực tiếp.
Ở những
nhà nước chuyên quyền, dưới những hình thức, mức độ, giai đoạn lịch sử khác
nhau, quyền lực tập trung về một cá nhân (vua, nhà độc tài…), một nhóm đầu sỏ
(hội đồng quân sự…). Những loại định chế này tự định đoạt mọi vấn đề của đất
nước, từ chính trị, quân sự, đến tôn giáo, văn hóa…, trên mọi phạm vi quyền
lực (pháp quy, hành xử, phán xử). Và theo đơn vị hành chánh mà mức độ, phạm
vi và biểu hiện của sự chuyên quyền được phân phong về các địa hạt. Quyền lực tối
cao ở địa phương cũng được sử dụng theo ý chí, sở thích, “ngẫu hứng” của chủ thể.
Đối lập
với sự chuyên quyền, nhà nước pháp quyền không để cho một cá nhân, một nhóm đầu
sỏ, một định chế tồn tại như một quyền lực tối cao, thâu tóm và quyết định mọi
vấn đề. Từ đây, có sự phân biệt trong phạm vi nắm giữ và thực hiện quyền lực là
một trong những đặc trưng bản chất nhất của nhà nước pháp quyền, dù theo mức độ
và diễn đạt từ ngữ, điều này có thể được gọi là phân quyền hay phân
công quyền lực nhà nước.
Một đặc
trưng khác trong phạm vi chủ thể quyền lực dưới nhà nước pháp quyền, là có sự phân
công quyền lực xã hội theo những địa hạt khác nhau của đời sống xã hội (đời
sống chính trị, văn hóa, đời sống tâm lý, tâm linh, đời sống cá nhân, đời sống
khoa học…).
Biểu hiện
dễ nhận ra nhất của điều này là có sự tách rời giữa nhà nước với nhà thờ. Giáo
hội không can thiệp vào công việc nhà nước và luật pháp dân sự; ngược lại, nhà
nước không can thiệp vào công việc tôn giáo và các giáo luật không vi phạm luật
công dân. Nhà nước thế tục và sự tự do tôn giáo là hệ quả của điều này.
Cũng có
sự tách rời, dù không tuyệt đối, giữa địa hạt chính trị với các địa hạt kinh tế,
đạo đức, văn hóa, khoa học…, giữa tôn giáo với khoa học, giữa cộng đồng và cá
nhân. Hệ quả là nhà nước pháp quyền không hàm chứa sự kế hoạch hóa tuyệt đối nền
kinh tế, mà thay bằng sự tự chủ kinh tế; nhà nước pháp quyền không phải là nhà
nước lễ trị hay đức trị mà là pháp trị; nhà nước pháp quyền không phải là nhà
nước toàn trị, mà là nhà nước của sự sáng tạo văn hóa, năng động khoa học; nhà
nước pháp quyền không phải là một khối thần dân thuần nhất mà là một liên hiệp
các cá nhân công dân có bản sắc riêng.
Như vậy,
dưới nhà nước pháp quyền, bên cạnh quyền lực nhân dân đóng vai trò như chủ thể
gốc cuối cùng, là một nhà nước có sự phân công quyền lực, và đồng thời với sự
phân công trong chính mình, nhà nước cũng chịu sự phân công trên bình diện toàn
xã hội, tách rời tương đối địa hạt chính trị của nhà nước với các địa hạt khác.
Vì thế, nhà nước pháp quyền là một nhà nước có giới hạn chứ không phải một
thực thể tối cao. Đồng thời, nhân dân cũng không thể triển khai quyền lực gốc một
cách vô chính phủ, mà chịu sự ước định của thỏa ước công dân ở dạng hiến pháp.
Và, thành phần của chủ thể quyền lực đó cũng không phải chỉ là nhà nước
và nhân dân, mà từ nhân dân với tư cách cộng đồng các cá thể, cá nhân
công dân theo đó cũng đã tồn tại một phần trong hệ thống quyền lực.
Có thể
nói, dưới nhà nước pháp quyền, xét về thành phần của chủ thể, ta có một thành
phần đa chủ thể. Ngoài nhà nước với tư cách là chủ thể đặc trưng và chủ
yếu nhất của hệ thống quyền lực, còn có những chủ thể phi nhà nước. Xét về phạm
vi quyền lực của chủ thể, ta có những thực thể quyền lực hữu hạn dưới
các tác nhân ước chế khác nhau.
Dưới
nhà nước không pháp quyền, tương phản hoàn toàn với chủ thể, khách thể quyền lực
– tức khối đông quần chúng hay những thành phần còn lại ngoài chủ thể quyền lực
– không có quyền ra quyết định chính trị mà chỉ phục tùng tuyệt đối ý chí, tuân
thủ vô điều kiện những quyết định chính trị thành văn hay bất thành văn. Họ không
có quyền lực chính thức nào được thừa nhận, hay thừa nhận nhưng không thực chất.
Cho dù “quyền lực gốc”, ở đâu và thời đại nào, cuối cùng cũng nằm ở quần chúng
nhân dân, nhưng dưới nhà nước không pháp quyền thì quyền lực đó không được
chính thức hóa, pháp lý hóa, hiện thực hóa, mà là loại quyền lực vô tổ chức,
không hệ thống, tự phát, thậm chí là loại “quyền lực” nằm ngoài vòng pháp luật.
Khách
thể mang quyền lực chính trị là đặc trưng đầu tiên của khách thể quyền lực
dưới nhà nước pháp quyền, ở cấp độ của tổng thể quần chúng nhân dân, tổ chức xã
hội, cũng như các cá nhân.
Quyền lực
chính trị của chủ thể dưới nhà nước pháp quyền thể hiện dưới hình thức quyền lực
nhà nước. Nó chủ yếu sử dụng các công cụ nhà nước và công cụ xã hội có liên
quan, như bộ máy cưỡng bức, đường lối, chính sách, luật pháp…, nhằm điều tiết
các quan hệ giữa nhà nước với công dân, công dân với công dân, giữa các đơn vị
nhà nước với nhau, và giữa các nhà nước. Trong khi đó, khách thể mang quyền lực
chính trị dưới hình thức quyền lực phi nhà nước. Quyền lực đó cho phép
khách thể ước chế, điều chỉnh lại chính nhà nước, từ bộ máy, nhân sự, cho đến
những chính sách của nó, bằng sự phản hồi công dân dưới nhiều hình thức, từ việc
phát ngôn quan điểm cho đến sự lựa chọn chính quyền, và cả sự bất tuân dân sự...
Dưới nhà nước pháp quyền, khách thể quyền lực có được tiếng nói cuối cùng trong
việc quyết định sự tồn tại của một chính quyền hay truất phế nó để thay bằng một
chính quyền khác.
Nhà nước
thực thi quyền lực của mình thông qua việc sử dụng những công cụ của bộ máy quyền
lực “hữu hình”. Quyền lực này là bộ phận chủ yếu nhất của quyền lực chính trị
nhưng lại không đồng nhất hoàn toàn vào đó, đặc biệt là dưới nhà nước pháp quyền.
Xét toàn thể quyền lực chính trị thì việc thực thi quyền lực không chỉ là ở các
công cụ của bộ máy, mà còn là những phương tiện tương tác giữa nhà nước với xã
hội, giữa quyền lực “vô hình” của quần chúng với quyền lực “hữu hình” của nhà
nước, trên phạm vi của toàn bộ đời sống chính trị-xã hội, mà trong đó quyền lực
nhà nước là một cấu thành. Trong khi quyền lực nhà nước thể hiện quyền lực
chính trị của chính nó, thì quyền lực chính trị bao hàm một phạm vi rộng hơn.
Ngoài quyền lực nhà nước, nó còn là quyền lực của hệ thống chính trị-xã hội
cũng như của từng cấu thành trong hệ thống đó, và cũng không thể thiếu là quyền
lực của quần chúng nhân dân.
Nhưng để
là khách thể mang quyền lực chính trị, đó trước hết phải là khách thể mang
quyền, gồm các quyền con người và quyền công dân.
Quyền
con người là những quyền tự nhiên mà mỗi cá thể xã hội đương nhiên có. Nhưng sự
đương nhiên này phải được hiến định, trở thành các quyền pháp định và tồn tại
hiện thực trong thực tế. Các quyền con người không phải là một hệ thống cố định
một lần mà là nâng cao và mở rộng theo sự phát triển của xã hội và thời đại.
Nhóm
quyền chính trị là quan trọng hàng đầu trong số các quyền công dân. Đó là các
quyền bầu cử, ứng cử, quyền lập hội, hội họp, biểu tình, quyền tham gia đảng
phái… Các quyền tự do về thân thể, tự do tinh thần và tư tưởng cũng không thể
thiếu trong nhà nước pháp quyền.
Song
hành với hệ thống các quyền là hệ thống các nghĩa vụ mà người công dân phải
tuân thủ. Và cũng như quyền con người, chúng tồn tại dưới dạng pháp định như bước
đầu tiên phải có để trở thành các quyền và nghĩa vụ hiện thực.
Khi
khách thể quyền lực là những cá thể mang quyền và quyền lực chính trị, họ không
thể tránh khỏi là những khách thể tự do.
Nhà nước
pháp quyền trong một xã hội pháp quyền đồng thời cũng là nhà nước pháp quyền
trong xã hội công dân. Trong xã hội đó, khách thể quyền lực không tồn tại
với tư cách thần dân hay giáo dân trong nhà nước chuyên quyền hay nhà nước giáo
quyền, với sự thuần phục tuyệt đối trước những tín điều – dù là tín điều thế tục
hay tín điều tôn giáo – như một định mệnh lịch sử “bẩm sinh hóa” vào các thế hệ
người nối tiếp nhau. Thay vào đó, họ là những khách thể ý thức về sự tồn tại
chính mình như một thực thể độc lập trong tổng thể xã hội. Họ không là những
người phủ phục thụ động trước chủ thể quyền lực được cho là gắn liền với sự “uỷ
mệnh” của thiên mệnh, vận mệnh. Thay vào đó, họ độc lập trước những lực lượng
quyền lực tối thượng tự phong vốn luôn viện dẫn đến những thế lực bên ngoài hay
lực lượng định mệnh lịch sử.
Với tư
cách khách thể tự do, họ là những cá thể vừa mang tính cộng đồng, vừa có bản sắc
riêng. Thực tế thì cá thể dưới mọi thời đại, mọi nhà nước đều là những cá thể
không lặp lại, nhưng chỉ dưới nhà nước pháp quyền, trong xã hội pháp quyền, bản
sắc cá thể – với quan niệm “chủ quyền cá nhân”, “tự trị cá thể” – mới được ý thức
bởi chính mỗi cá nhân, được tôn trọng bởi nhà nước, và được bảo đảm bởi luật
pháp. Bản sắc cá thể thể hiện cả ở đời sống cá nhân và đời sống cộng đồng. Họ
có thể cùng lúc hiện diện trong những loại cộng đồng khác nhau (cộng đồng tôn
giáo, chính trị, thế hệ…), nhưng vẫn không mất đi, không bị cưỡng bức công khai
hay không công khai phải bỏ đi bản tính cá thể độc lập của mình. Các quyền hiến
định và pháp định cho phép họ không bị tuyệt đối chi phối từ những quy định
không phù hợp với các tiêu chuẩn pháp quyền từ các cộng đồng đặc thù.
Khách
thể quyền lực trong nhà nước pháp quyền có thể gia nhập vào bất cứ lĩnh vực xã
hội nào, kể cả chính trị, trên cơ sở khả năng của mỗi cá thể, mà không bằng sự
truyền nối hay “kế hoạch”, “phân công” chủ quan từ nội bộ vốn không vượt ra
ngoài phạm vi của chủ thể quyền lực như dưới những nhà nước không pháp quyền. Từ
đây, công chúng – như những cá thể tự do mang quyền và quyền lực chính trị –
không còn là những đối tượng thụ động, mà trở thành những chủ thể năng động
trong hệ thống quyền lực xã hội và chủ động dự phần vào đời sống chính trị.
Như vậy,
khách thể quyền lực dưới nhà nước pháp quyền, tuy vẫn giữ đặc trưng là đối tượng
tác động của chủ thể quyền lực, nhưng tác động này nay đã chuyển thành một tương
tác mà không còn là tác động một chiều. Là những khách thể mang quyền lực
chính trị, họ như những thành phần vừa chính thức vừa không chính thức trong hệ
thống quyền lực nhà nước. Với tư cách tổng thể quần chúng nhân dân, họ nắm giữ
quyền lực gốc của quyền lực nhà nước. Với tư cách các cá thể hay những nhóm các
thể mang quyền, họ như những tế bào, cơ phận của hệ thống quyền lực so với những
tế bào “thần kinh trung ương”, cơ phận trung tâm là chủ thể quyền lực nhà nước.
Như những công dân không phủ phục dưới sự nhào nặn của chủ thể quyền lực mà
tham gia vào chính hoạt động của chủ thể, họ trở thành một loại bán chủ thể quyền
lực, hay một chủ thể quyền lực không thường trực, không định hình cố định. Đó
là những điều được thừa nhận về mặt xã hội và pháp lý.
Từ “quyền
lực tối cao” của vua chúa, nhóm đầu sỏ, hay lãnh tụ thần thánh hóa trong nhà nước
không pháp quyền, nay được “phân bổ” lại theo những phạm vi khác nhau trong nhà
nước pháp quyền. Nó trở thành “chủ quyền quốc gia”, “chủ quyền nhà nước” trong
tương quan liên quốc gia. Nó trở thành “chủ quyền nhân dân”, “quyền lực tối cao
của nhân dân” trong quan hệ nhà nước – nhân dân. Nó là sự “tự trị” cá thể, bản
sắc cá nhân trong quan hệ nhà nước – cá nhân – cộng đồng.
Một khi
đã mang quyền, quyền lực chính trị, và là những thực thể tự do, khách thể quyền
lực trong nhà nước pháp quyền cũng có các phương tiện, công cụ để thực thi và bảo
vệ những điều này. Chúng nằm trong tổng thể chung của phương tiện quyền lực
trong nhà nước pháp quyền.
Dưới
nhà nước không pháp quyền, phương tiện quyền lực thuần túy và tuyệt đối phục vụ
chủ thể quyền lực, và cũng chỉ thực hiện tương tác một chiều, từ chủ thể đến
khách thể. Đồng thời chúng cũng không cố định, đầy đủ, toàn diện và đồng bộ về
mặt hình thức, hoặc có đó nhưng không thực chất.
Các
hình thức và công cụ phổ biến của quyền lực nhà nước là lực lượng cưỡng bức,
thuế vụ, chính sách, luật pháp…, dù có những biến thể theo hình thức nhà nước
và đặc trưng khác nhau ở mỗi thời đại nhưng đều cùng có ở các hình thức nhà nước,
dù chuyên quyền, cực quyền, hay pháp quyền. Nhưng chính từ thực chất công cụ và
tương tác quyền lực mà, cùng với chủ thể và khách thể quyền lực trong nhà nước
pháp quyền, hình thức nhà nước này khác với các nhà nước không pháp quyền.
Dưới
nhà nước pháp quyền, hình thức của hệ thống phương tiện quyền lực cũng không
khác biệt, nhưng pháp luật lại là cái nổi lên như phương tiện hàng đầu trong
các tương tác quyền lực cũng như tương tác xã hội.
Pháp
luật trở thành phương tiện của cả chủ thể và khách thể quyền lực. Nó không còn là
công cụ độc quyền của chủ thể dùng để hợp lý hóa nền cai trị chuyên quyền. Về
phía nhà nước – chủ thể vật chất của quyền lực chính trị, nó là công cụ thể chế
hóa, cụ thể hóa nền chính trị phục vụ. Về phía bên kia, để quyền lực nhân dân,
quyền con người và quyền công dân không chỉ được thừa nhận mà còn là hiện thực,
được bảo đảm và triển khai, khách thể cần đến sự ước định lại chính chủ thể, tức
nhà nước, bằng việc sử dụng sức mạnh của các chế định pháp luật, như định chế
quyền lực (bầu và ứng cử, trưng cầu dân ý…), các định chế tổ chức xã hội (các hội
đoàn), và các định chế công luận (thông tấn, ngôn luận tự do…).
Tương
tác hai chiều thể hiện ở việc chủ thể thì “quản trị”, phục vụ, điều tiết, kiểm
soát khách thể; khách thể thì giám sát, ước định, phản hồi, hậu thuẫn hay phế
truất một quyền lực chủ thể. Không dừng lại, đó còn là sự tương tác nhiều
chiều giữa khách thể với luật pháp, giữa luật pháp với chủ thể. Một khi việc
thực hiện quyền lực nhà nước đồng thời cũng là triển khai quyền lực của khách
thể và quyền lực xã hội, thì sẽ làm cho luật pháp và các thể chế cụ thể có sự
thay đổi, phát triển và trưởng thành theo chính tương tác giữa chủ thể và khách
thể, vốn đang dần trưởng thành và pháp quyền hơn.
Để bảo
đảm được tương tác hai chiều và đa chiều đó, luật pháp đang được nói đến không
phải loại luật pháp chung chung. Trong khi nhà nước có trong tay hàng loạt công
cụ, chế định cưỡng bức có hiệu lực và hiệu quả tức thời lên khách thể, thì
khách thể lại không có công cụ vật chất và tức thời tác động lên nhà nước. Công
cụ duy nhất họ có là luật pháp. Do đó, để nhà nước là nhà nước pháp quyền, trước
tiên, luật pháp phải là luật pháp dân chủ. Điều đó sẽ có thể giúp tránh
được sự lạm quyền của nhà nước lên công dân, nhà nước không tự do thao túng luật
pháp, không sử dụng luật pháp như công cụ khép kín trong thành phần của chủ thể
quyền lực.
Luật
pháp dân chủ còn làm cho nhà nước pháp quyền không phải là nhà nước đóng, mà là
một nhà nước mở về nhân sự, như sự dự phần về mặt tổ chức của khách thể quyền lực
vào định chế của chủ thể quyền lực. Luật pháp dân chủ đem lại sự chế định hiện
thực của công dân lên nhà nước và hiện thực hóa các quyền của khách thể.
Luật
pháp dân chủ không phải là cái quy định cho nhà nước quyền ban cho hay không
ban cho, hoặc buộc khách thể phải cầu xin những gì đương nhiên được hưởng (xin
- cho kinh doanh, xin - cho cư trú, di chuyển…), mà theo đó, nhà nước đơn giản
là chứng nhân, làm công việc xác nhận về mặt nhà nước – tức sự nhìn nhận công vốn
được uỷ thác từ chính nhân dân – cho hành động tự nguyện, hợp pháp và hợp lý của
công dân.
Chính bởi
sự “yếu thế” về công cụ của khách thể so với chủ thể quyền lực, và tránh sự lạm
dụng, thao túng hệ thống công cụ nhà nước, mà nguyên tắc người dân có thể
làm tất cả những gì luật không cấm, nhà nước chỉ làm những gì luật cho phép
được thừa nhận rộng rãi trong nhà nước pháp quyền và luật pháp dân chủ.
Luật
pháp dân chủ đòi hỏi quyền lực phải đi đôi với trách nhiệm, và tạo tiền đề cho
sự năng động của các cấp chính quyền và cá nhân quyền lực.
Luật
pháp dân chủ chi phối mọi mặt xã hội, là quy phạm cao nhất so với các quy phạm
đời sống, truyền thống, tôn giáo… Tuy rằng luật pháp không hoàn toàn thoát ly
khỏi truyền thống hay đời sống đạo đức xã hội, nhưng khi có sự xung đột giữa
các loại quy phạm thì chuẩn mực pháp lý là cái sau cùng có tính quyết định được
quy chiếu vào, với tiêu chí cao nhất là (và khi) nó bảo đảm quyền con người và
quyền công dân.
Dưới
nhà nước pháp quyền, công dân và nhà nước đều bình đẳng trước pháp luật. Điều
đó đòi hỏi một nền tư pháp độc lập, công chính và dân chủ. Đó là một đặc
trưng cơ bản khác của phương tiện quyền lực dưới nhà nước pháp quyền.
Một
trong những quyền hạn cơ bản nhất của chủ thể quyền lực lên khách thể là việc xử
lý, điều giải những hành vi xâm phạm các quyền lợi pháp lý công hay tư. Cùng
lúc, một trong những quyền tự nhiên cơ bản nhất của khách thể và được pháp định
trong nhà nước pháp quyền, là quyền an ninh – mà Montesquieu từng xem là vấn đề
của tự do chính trị – tức sự an toàn trước những xâm hại hay cáo buộc sai trái
từ phía nhà nước hay cá nhân, an toàn và được bảo vệ quyền lợi chính đáng trong
các tranh chấp của đời sống xã hội… Tất cả những điều này đều được tiếp nhận,
điều chỉnh, giải quyết bằng định chế tư pháp.
Công lý
là một tiêu chuẩn, một giá trị dưới nhà nước pháp quyền và xã hội dân chủ. Công
lý không thể có được trong một xã hội mà cơ quan tư pháp phục tùng sự chuyên
quyền, lạm quyền của bộ máy quyền lực nhà nước, và thuần túy là công cụ trong
tay chủ thể quyền lực khi chính chủ thể đó không là đối tượng của cơ quan tư
pháp.
Đối với
một cơ quan tư pháp độc lập thì mọi thực thể xã hội có yếu tố con người vật chất
đều là đối tượng điều chỉnh của nó. Đó là cá thể công dân và các quan hệ của họ,
là các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…, và là bản thân nhà nước với
các cơ quan cũng như con người cụ thể trong bộ máy này. Cơ quan tư pháp xét xử
độc lập trước sự chi phối và can thiệp của nhà nước theo hàng dọc hay hàng
ngang, độc lập giữa các cấp tư pháp với nhau, và trước các áp lực xã hội ngoài
pháp lý (tôn giáo, đạo đức…), cũng như trước các đối tượng khác có hay không có
liên quan đến sự việc.
Cái tối
thượng mà cơ quan tư pháp phải chấp nhận phục tùng là hiến pháp dân chủ – bản
văn hiện thực hóa khế ước xã hội trên lãnh thổ một quốc gia, được soạn thảo từ
chính các đại biểu thật sự của nhân dân, từ nhân dân, có trưng cầu ý kiến nhân
dân. Do vậy, tòa hành chính, tòa tư pháp, tòa hiến pháp là những định chế tư
pháp thực hiện quyền phán xét, phán xử đến tất cả các cấp nhà nước tương ứng, về
tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản và hành động pháp lý.
Thực hiện
được chức năng, vai trò của nền tư pháp độc lập, nó phải là một hệ thống với đầy
đủ các định chế tư pháp (tòa án tư pháp, cơ quan công tố, luật sư, chuyên viên
chứng lý…), có đủ sức mạnh đảm đương vị trí độc lập ngay trước cả quyền lực nhà
nước. Cũng cần có những trách nhiệm, quyền hạn đầy đủ, hợp lý, dân chủ cho các
định chế này để có thể triển khai được trong thực tế tính độc lập, dân chủ, mà
không phải là hình thức.
Từ ba đặc
trưng chủ yếu nhất của pháp luật dưới nhà nước pháp quyền, cho thấy pháp quyền
có độ khác biệt so với “pháp trị”.
Pháp trị
được hiểu là sự cai trị bằng pháp luật, là tư tưởng đã có rất sớm. Các nền pháp
trị trong lịch sử (và cả hiện tại) thực chất chỉ là sự tương tác một chiều
từ chủ thể quyền lực hướng đến khách thể. Luật pháp dưới những xã hội không
pháp quyền cũng có một khung luật định, nhưng nó chỉ là hành lang mà trong đó
người cai trị tùy nghi “vận dụng” trên khách thể. Pháp trị dưới những xã hội
này cũng chỉ là tăng cường quyền lực nhà nước đến tối cao mà thôi.
Không
có ba đặc trưng pháp luật như trên thì việc lĩnh hội, nhận thức về nhà nước
pháp quyền có thể sẽ dẫn đến tình trạng đánh đồng với pháp trị, đi đến ngụy
trang trong thực tiễn và ngụy biện trong lý luận. Khi đó, bất kỳ một xã hội
nào, cho dù là chuyên quyền, cực quyền thì vẫn sử dụng luật pháp, có một hệ thống
pháp luật và “thượng tôn” nó, và như vậy đều có thể tự xưng là “nhà nước pháp
quyền”.
Cũng thế,
không phải có hiến pháp, luật pháp, hệ thống pháp lý, có phân công theo lập
pháp, hành pháp, tư pháp là đương nhiên tồn tại nhà nước pháp quyền. Đó chỉ là
mặt hình thức, nó có thể là bước đầu dần đem lại nội dung cho nhà nước pháp quyền,
mà cũng có thể chỉ là lớp vỏ bọc có chủ đích hay không chủ đích.
Pháp trị,
hiểu là sự quản trị xã hội theo luật định của nhà nước, như một phần nội dung của
nhà nước pháp quyền, thì hợp lý; nhưng hiểu như một “hệ xã hội” đồng đẳng hay
như “dị bản” của nhà nước pháp quyền thì không đúng với thực chất của cả hai.
Từ những
khác biệt như thế, cả trên khái niệm lẫn hiện thực, nhà nước pháp quyền, như một
cấu trúc quyền lực, là hệ thống quyền lực xã hội, quyền lực nhà nước khác biệt
về chất so với các nhà nước trước và không pháp quyền. Sự khác biệt đó thể hiện
trên cả ba thành phần chung của toàn bộ hệ thống quyền lực, đồng thời cũng khác
biệt ở những thành tố cấu thành nên nhà nước pháp quyền.
Để tạo
nên nhà nước pháp quyền, quyền lực nhân dân phải tồn tại như một chế định vật
chất hữu hình, lẫn như một định chế gốc không định hình vật chất thường trực.
Nó phải là một nhà nước phi tập quyền chuyên chế, và là một cộng đồng công dân
mang quyền trong một xã hội công dân. Trong xã hội đó cũng tồn tại các định chế
xã hội phi nhà nước, độc lập trước nhà nước. Nó có một hệ thống luật pháp và tư
pháp đáp ứng sự tương tác hữu hiệu nhiều chiều trong toàn bộ các chiều cạnh, phạm
vi xã hội. Nhà nước pháp quyền là một hệ thống mở về quyền lực, về quyền,
về kinh tế, xã hội, tư tưởng; trong đó mọi cá thể và định chế xã hội đều có thể
tham gia, có tiếng nói tác động đến hệ thống quyền lực; trong đó mọi định chế
chính trị-xã hội, từ cá nhân cho đến nhà nước và thể chế chính trị, đều là đối
tượng ước chế của lẫn nhau, thông qua luật pháp dân chủ và nền tư pháp độc lập,
đều là đối tượng bình đẳng trước hệ thống pháp luật và nền tư pháp đó.
Nhà nước
pháp quyền được quan niệm như vậy và tồn tại trong hiện thực, là nhà nước pháp
quyền dân chủ, của một xã hội dân chủ.
Mọi tiếp
cận đến nhà nước pháp quyền đồng thời cũng phải là tiếp cận đến dân chủ và xã hội
công dân, để có được quan niệm thực chất về nó, mà không phải là tiếp cận theo
câu chữ thuần túy, với chỉ là “luật pháp” và “thượng tôn pháp luật”. Bản thân
việc tiếp cận luật pháp như một bộ phận của nhà nước pháp quyền cũng cần được
hiểu là một luật pháp dân chủ, mà không phải là luật pháp bất kỳ thiếu định
tính.
(Trích
có chỉnh lý, từ: Lê Tuấn Huy, Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nxb Tổng hợp TP. HCM, 2006, tr. 146-158.)
Tác giả
gửi BVN
[1] Dù đề tài này đã được
các nhà nghiên cứu đi trước đào sâu, tôi cũng có vài ý kiến riêng của mình, ở
bài “Giá trị tư tưởng và lịch sử của Trường phái Pháp gia”, Triết học, số
9 (136), 09/2002.
Được
đăng bởi bauxitevn vào lúc 07:53
No comments:
Post a Comment