Việt
Hùng/Người Việt
Monday,
April 25, 2016 3:47:02 PM
Bài
liên quan
- Thăm bà quả phụ 'Người anh hùng Mũ Đỏ tên Đương'
- Con trai ‘người anh hùng tên Ðương’ chạy xe ôm ở Sài Gòn
- Thị Trưởng Trí Tạ gây quỹ giúp bà quả phụ ‘Anh Hùng Tên Đương’
- Hưởng ứng gây quỹ giúp bà quả phụ ‘Anh Hùng Tên Ðương’
- Bà quả phụ ‘Mũ Đỏ Tên Đương’ cảm ơn cộng đồng hải ngoại
Ước mơ
45 năm
QUẢNG
TRỊ (NV) -
Sau khi được cộng đồng người Việt ở hải ngoại giúp đỡ, trưa 12 Tháng Tư,
2016, bà quả phụ cố Ðại Úy Nguyễn Văn Ðương, tức Trần Thị Mai, và người con
trai út Nguyễn Viết Xa đã có chuyến đi từ Sài Gòn đến đồi 31, Hạ Lào, nơi “Người
Anh Hùng Mũ Ðỏ Tên Ðương” hy sinh.
Bà quả phụ Nguyễn Văn Ðương và con trai Nguyễn Viết
Xa khấn vái vong linh của chồng và cha trên đỉnh đồi 31, Hạ Lào. (Hình: Việt
Hùng/Người Việt)
Buổi
trưa hôm ấy, anh Nguyễn Viết Xa cũng chay xe ôm, nhưng khác hẳn mọi hôm, hôm
nay anh chở vị khách đặc biệt, là mẹ của mình, thẳng tiến phi trường Tân Sơn Nhất,
bắt đầu cuộc hành trình đầy khó khăn để sang vùng đất nơi thân phụ mình nằm lại.
Máy bay
vừa cất cánh, bà Mai quay sang chúng tôi nở nụ cười: “Ðây là lần đầu cô đi máy
bay, nên cảm giác hơi run. Nhưng cứ nghĩ sắp được đến Hạ Lào là vui lắm.”
Ngồi
bên cạnh bà Mai, anh Nguyễn Viết Xa cũng vậy. Khuôn mặt hiền lành, nhìn cái gì
trên máy bay cũng đều lạ lẫm. Có lẽ suốt hàng chục năm qua, ước mơ một lần được
ngồi máy bay của vợ con người anh hùng Mũ Ðỏ tên Ðương mới thành hiện thực.
Tỉnh Quảng
Trị có ranh giới với Hạ Lào, không có phi trường, chúng tôi mua vé bay ra phi
trường Phú Bài của Huế, rồi từ đó bắt xe đi Quảng Trị, men theo đường tỉnh lộ 9
sang biên giới nước Lào qua cửa khẩu Lao Bảo.
Ðón
chúng tôi ở phi trường Phú Bài là hai người quen mà phóng viên Người Việt đã
liên lạc từ trước. Họ đều là người Việt Nam đang sinh sống và làm ăn ở Lào và
nói được tiếng Lào sành sỏi. Khi nghe tin báo Người Việt đề cập đến việc đưa bà
Mai sang vùng Hạ Lào, họ vui vẻ bỏ công việc và bắt xe để giúp đỡ cuộc hành
trình mà chúng tôi đang hướng đến.
Xem
Video: Bà quả phụ Nguyễn Văn Đương đến Hạ Lào
Ðường
đến Hạ Lào
Từ Phú Bài, Huế, đến cửa khẩu Lao Bảo khoảng 200km, chiếc xe chúng tôi bắt đầu lăn bánh trên quốc lộ 1A, đi tới địa phận tỉnh Quảng Trị, qua con sông lịch sử Thạch Hãn khoảng 20km là có con đường số 9, bên tay trái. Rẽ vào đó và thẳng tiến khoảng 90km là đến cửa khẩu Lao Bảo.
Bà quả
phụ Nguyễn Văn Ðương và con trai Nguyễn Viết Xa lần đầu tiên trong đời đi máy
bay. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)
Trên đoạn
đường số 9 này, đoàn chúng tôi ghé lại khu vực Khe Sanh, nơi chiến trường khốc
liệt trong chiến dịch hành quân Lam Sơn 719, thắp nén nhang tưởng niệm các tử
sĩ VNCH, cũng như các quân nhân Hoa Kỳ hy sinh ở khu vực đồi núi này.
Con đường
9 ngoằn ngoèo, băng qua những vùng đồi núi trập trùng đầy cây xanh. Ðến cửa khẩu
Lao Bảo đã 5 giờ chiều, làm thủ tục xuất và nhập cảnh xong là trời tối đen như
mực. Hạ Lào đón chúng tôi bằng một cơn mưa tầm tã.
Hạ Lào
là một vùng quê miền núi nghèo khó, nguồn thu nhập của người dân ở đây chủ yếu
từ cây chuối. Tìm một khách sạn đầy đủ tiện nghị ở đây còn khó hơn lên trời.
Chúng tôi tìm mãi mới ra được một khách sạn, hay nói đúng hơn là một nhà nghỉ
ven đường, vì phòng chỉ có một chiếc quạt gọi là& tiện nghi. Ngoài ra không
có vật dụng gì khác.
Thời tiết
ở đây khắc nghiệt, ban đêm trời lạnh và ẩm ướt bởi sương mù. Nhưng ban ngày rất
nóng bởi ánh nắng mặt trời và nguồn gió Lào khô khan.
Ðêm đó,
nói chuyện với chủ khách sạn, chúng tôi biết được 2 ngày nữa là ngày Tết chính
thức của người Lào. Người dân đang chuẩn bị đón tết, nên chợ búa, hàng quán
không buôn bán gì. Bởi vậy việc tìm khách sạn đã khó, mà việc tìm thức ăn còn
khó hơn.
Cuối
cùng mọi người ăn món “xôi hấp thịt gà nướng,” món đặc trưng của người dân nơi
đây. Bà Mai lại là người ăn chay trường, bởi vậy chỉ có thể ăn một ít xôi với
phần lương khô chay, mà bà đã chuẩn bị sẵn mang theo.
Gian
khó là vậy, nhưng khi được hỏi “cô có mệt không?” Bà trả lời: “Có gì đâu mà mệt,
cứ nghĩ sáng mai được đến đồi 31 là hết mệt. Cảm xúc của cô bây giờ cứ vui buồn
lẫn lộn. Vui vì sắp được chứng kiến nơi anh Ðương đã hy sinh. Nhưng buồn vì có
lẽ khó mà tìm được xương cốt của ảnh.”
Hai
mẹ con khi vừa bước qua cửa khẩu biên giới Việt-Lào. (Hình: Việt Hùng/Người
Việt)
|
Rồi bà
tiếp tục cầm tràng hạt, miệng lẩm nhẩm tụng kinh. Tôi nhìn bà, nét khắc khổ hiền
hòa của người phụ nữ miền Nam. Trong thời chiến, họ hy sinh ở nhà chăm sóc con
cái cho chồng ra chiến trận. Thời bình, họ đứng trước cảnh mất chồng, các con
thơ còn quá nhỏ. Thế nhưng họ không bỏ cuộc, tiếp tục cuộc mưu sinh, nuôi dạy
con khôn lớn.
Ðồi 31, nơi người lính không về!
Sáng 13 Tháng Tư, đúng vào 30 Tết của người Lào, cả khu thị trấn Tchepone-Hạ Lào vắng hoe. Chúng tôi ghé một quán cà phê cóc ven đường, tình cờ gặp anh Kha, một người Việt đang làm ăn sinh sống ở đây.
Khi được
hỏi về đồi 31 Hạ Lào, anh Kha cho biết: “Người dân ở đây gọi vùng đất này là
Nam Lào, tôi chỉ biết là có một ngọn đồi, trước 1975 là nơi đóng quân của lính
VNCH và lính Mỹ. Hiện nay họ đã làm một viện bảo tàng. Nhưng không biết đây là
đồi 30 hay 31.”
Rồi anh
chỉ đường cho chúng tôi. Ðó là một ngọn đồi rộng khoảng 10 hecta. Bên ngoài cổng
có tấm biển ghi bằng tiếng Lào và tiếng Anh, tạm dịch sang tiếng Việt là “Bảo
tàng di sản chiến tích chiến tranh Việt Nam-Lào trên đường 9.”
Khung cảnh
hoang vắng, không một bóng người. Nơi đây vẫn còn lưu giữ những chiếc trực
thăng của Mỹ, Xe chở quân đội VNCH, súng ống đại bác... Tại đây chúng tôi gặp
được anh Xê Phảnh, người Lào, là người bảo vệ ở khu vực này.
Khi được
hỏi về đồi 31, anh cho biết: “Ở đây là khu vực đồi 30, khu vực của quân đội Mỹ
và VNCH đóng quân trước đây, thuộc huyện Sepone, tỉnh Savannakhet. Còn đồi 31
cách đây khoảng 7km, cũng sát bên đường 9, nó thuộc bản Skiphine.”
Ngôi
miếu thờ trên đỉnh đồi 31. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)
“Hiện
nay bên đồi 31 chỉ có một cái miếu thờ, người ta đã xây hàng rào bao xung
quanh, phải có chìa khóa mới vào bên trong được.” Anh Xê Phảnh vừa nói, vừa chỉ
tay sang khu vực vùng đồi 31.
Sau khi
nghe chúng tôi trình bày về mục đích đi đến đây, anh Xê Phảnh ngạc nhiên: “Tôi
làm việc ở đây đã hơn 15 năm, nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy một phái đoàn
thuộc lính VNCH ngày xưa sang đây thắp hương.”
“Các cựu
chiến binh miền Bắc Việt Nam hàng năm vẫn đến đây viếng thăm, nhưng phía VNCH
thì không thấy ai? Có lẽ quí vị là người đầu tiên thuộc lính VNCH tìm đến đây để
viếng?”
Anh Xê
Phảnh cho biết thêm: “Ðồi 31 chủ yếu là lính miền Bắc Việt Nam, chết rất nhiều.
Vì Mỹ cho B52 rải thảm ở khu vực đó. Bởi vậy bên đó người ta xây đền thờ lính
miền Bắc với dòng chữ ‘Tổ quốc ghi công’. Còn lính miền Nam cũng có chết ở đó,
nhưng rất ít.”
Khi
chúng tôi đề cập đến việc dẫn phái đoàn qua thăm đồi 31, anh Xê Phảnh tỏ ra lo
ngại: “Thật tình mà nói, nếu sếp tôi có ở đây thì các bạn khó mà tự do đến đó
(chính quyền đang quản lý khu đồi 31 hiện nay là Ðảng nhân dân cách mạng Lào, rất
thân với Ðảng CSVN). Nhưng nay là dịp Tết của người Lào, nên ông ta đã về Viêng
Chăn ăn tết cùng gia đình.”
Nghe
xong, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm vì nếu đi qua Lào vào ngày khác, có lẽ khó mà
vào được đồi 31.
Bà
Mai đã lấy nắm đất trên đồi 31, nơi Ðại Úy Ðương hy sinh để mang về Việt Nam.
(Hình: Việt Hùng/Người Việt)
'Mong
anh hãy theo mẹ con em về Việt Nam'
Ðúng 11 giờ trưa, chúng tôi đến khu vực đồi 31. Ngọn đồi hoang vu giá lạnh. Ðất đai khô cằn, nền đất đỏ với nhiều hạt đá nhỏ trộn lẫn vào nhau. Chỉ có giống cỏ voi là còn mọc được nơi đây, ngoài ra không thấy cây cối nào khác.
Cầm tấm
hình cố Ðại Úy Ðương trên tay, bà Trần Thị Mai bước xuống xe như ứa nước mắt,
nhìn xa xăm và nói: “Cô cảm thấy lạnh quá cháu à. Cô cảm nhận được anh Ðương
đang ở rất gần đây.” Rồi cô ôm bó nhang, cùng bịch trái cây đã chuẩn bị sẵn
mang theo bên mình, đi đến khu vực có miếu thờ.
Chưa đi
tới cổng vào, tự nhiên một trái táo trong món đồ cúng mang theo rơi xuống đất.
Bà Mai giật mình đứng lại, hai tay chắp lại, quì xuống vái lạy và miệng lẩm nhẩm:
“Anh Ðương ơi, có phải anh muốn báo nơi anh mất chính là ở đây?” Rồi bà òa khóc
nức nở.
Thấy thế,
anh Nguyễn Viết Xa cũng chạy đến bên mẹ, và hỏi: “Hay là mình cúng ở đây đi mẹ
à.” “Ừ, đúng rồi, mình làm lễ thắp hương ở đây đi con. Mẹ cảm nhận cha con đã
hi sinh ở nơi này.” Bà Mai trả lời.
Rồi bà
thắp nhang, bày vật dụng đã mang sẵn theo ra để làm nghi thức cúng viếng. Trong
tiếng gió rít trên đồi, tiếng bà thì thầm với người chồng nằm lại mảnh đất này:
“Anh Ðương ơi, hôm nay em dẫn con trai của anh đến đây thắp nhang và rước vong
hồn của anh về lại Việt Nam. Ðây là lần đầu tiên em đến được nơi này.”
“Nếu
anh có linh thiêng thì hãy theo mẹ con em về Việt Nam, chứ ở đây lạnh lẽo lắm
anh à. Em sẽ thỉnh một nắm đất nơi đây, đem về Việt Nam để nơi Chùa, mong hương
hồn anh hãy theo em về, để mẹ con em còn được thắp hương cúng thờ cho anh.”
Bà Mai
vừa nói, vừa bốc nắm đất bỏ vào cái khăn vải đỏ gói lại để mang về Việt Nam.
Bàn
thờ tạm trong ngôi miếu trên đồi 31, nơi bà Mai cúng vái vong linh của chồng
cùng các tử sĩ của cả 2 bên.
Còn anh
Nguyễn Viết Xa nói với cha: “Ba ơi, 45 năm rồi từ ngày ba ra đi đến hôm nay con
và mẹ mới được đến nơi đây. Ngọn đồi 31 này con cũng nghe nhiều, nhưng hôm nay
mới được chứng kiến. Con và mẹ đã rất muốn đến đây sớm hơn, nhưng điều kiện
không cho phép. May mà có quí vị ân nhân ở hải ngoại giúp đỡ, nay mẹ và con mới
đến được nơi này.”
“Khi ba
mất con còn quá nhỏ. Bởi vậy con không nhớ gì về thời gian ba còn sống bên con.
Chỉ nghe mẹ nói trong 4 anh chị em, ba thương con nhất. Con mong ba hãy an nghỉ,
bởi còn có rất nhiều người quí mến ba. Họ đã giúp đỡ con và mẹ rất nhiều trong
thời gian qua.”
Trong
khi ấy, bà Mai sụt sịt khóc: “Mong anh hãy tha lỗi cho em, vì em chưa làm tròn
bổn phận của người vợ. Tâm nguyện của anh, em cũng không hoàn thành. Vì đời sống
quá khó khăn, bốn đứa con không đứa nào được ăn học đàng hoàng. Hai đứa cũng đã
mất rồi anh à...”
Rồi bà
cầm xấp giấy tiền hàng mã, rải đều trên đất. Mảnh đồi hoang vu, cùng với cơn
gió Lào thổi mạnh, khiến cho từng tờ giấy bay xa. Khuôn mặt bà nhìn xa xăm theo
làn gió theo những tờ vàng mã bay xa. Một mắt bà đã mù hẳn, con mắt còn lại
cũng yếu mờ, nhưng bà vẫn cố nhìn ra xa, xa mãi nơi ngọn đồi 31 huyền thoại,
nơi rất nhiều người lính vẫn nằm lại nơi đây không trở về.
Sau
nghi thức cúng vái, bà Mai đi thắp nhang khắp nơi, xung quanh ngọn đồi 31. Bà
đi mà không biết mệt giữa cái nắng chói chang và từng cơn gió Lào nóng khô khốc,
hất vào mặt, từng cơn, từng cơn...
“Cô phải
thắp càng nhiều càng tốt, không những cho anh Ðương mà còn các đồng đội của anh
nữa con à. Họ cũng lạnh lẽo lắm, bao năm qua không ai nhang khói hết!”
Sau đó,
bà cầm di ảnh và “nắm đất” của cố Ðại Úy Ðương, tiến thẳng vào ngôi miếu thờ. Tại
đây bà bày mâm cơm để cúng các vong linh đã bỏ mình nơi đây, trong đó có cả
lính bộ đội Bắc Việt.
Bà Mai
thắp hương, vái lạy, miệng cầu: “Xin chào các người lính đã hy sinh nơi đây,
hôm nay tôi đến đây để thắp nén nhang kính viếng đến các anh. Tôi là vợ của người
lính VNCH, nhưng tôi cũng cầu chúc cho các vong linh của người lính Bắc Việt.
Chiến tranh đã đi qua, mong các anh hãy tha thứ cho nhau.”
Hai mẹ
con bà Mai thắp nhang khắp khu đồi 31. (Hình: Việt Hùng/Người Việt)
“Tuy
khác chiến tuyến, nhưng các anh đều đã hy sinh ở cùng một nơi này. Âu cũng là số
phận. Bởi vậy ở thế giới bên kia, mong các anh hãy là những người bạn tốt của
nhau, chứ đừng cầm súng mà chĩa vào nhau nữa. Tất cả chúng ta đều là người Việt
Nam cơ mà.” Bà Mai gửi lời đến các vong linh.
Mong vợ chồng được ở mãi bên nhau
Sau nghi thức cúng viếng ở đồi 31, mọi người bắt đầu ra về. Bà Mai vui hẳn: “Cô vui vì cô tin là anh Ðương sẽ theo cô về Việt Nam.”
Khi được
hỏi, lúc còn sống kỷ niệm nào về Ðại Úy Ðương khiến bà nhớ nhất, bà cho hay:
“Tính anh Ðương hay ‘nổ’ (nói dóc) lắm con à. Cô nhớ trước khi đi chiến dịch
Lam Sơn, anh Ðương có nói là đợt này đi xong chiến dịch là anh sẽ lên lon thiếu
tá.”
“Hồi đó
cô nghe chỉ cho vui, cứ nghĩ ổng lại ‘nổ’ nữa rồi. Ai ngờ ổng lên thiếu tá thật.
Nhưng có điều sau khi mất mới được vinh thăng. Có lẽ đây là lời ‘nổ’ chính xác
nhất của anh Ðương.”
Những mẩu
chuyện vừa vui vừa buồn theo suốt chiều dài cuộc hành trình từ Hạ Lào về lại Huế.
Chúng tôi lưu trú lại thành phố Huế một đêm.
Ðêm duy
nhất ở Cố Ðô, chúng tôi lại có một kỷ niệm đẹp khi mọi người cùng đi ăn tối.
Chúng tôi bất ngờ được anh Lê Quýnh, một người gốc Huế, nhận ra bà Mai và chủ động
tới bắt chuyện.
“Tôi biết
được câu chuyện của cô khi vô tình đọc được bài viết trên báo Người Việt
Online. Không ngờ được gặp cô nơi đây. Bản thân tôi rất yêu thích bản nhạc ‘Anh
Không Chết Ðâu Anh’ và quí mến, nể trọng Ðại Úy Nguyễn Văn Ðương.” Rồi anh lấy
Guitar, tự đàn hát ca khúc “Anh Không Chết Ðâu Anh” để tặng mọi người.
Sáng
hôm sau, chúng tôi trở về lại Sài Gòn và đi thẳng đến một ngôi Chùa mà bà Mai
đã đặt trước am thờ và nhờ thầy tụng kinh niệm Phật.
“Sau
này cô mất, cô mong muốn được thiêu và mang tro cốt đặt bên cạnh Ðại Úy Ðương
nơi đây. Ðể con cháu có thể dễ dàng đến thắp nhang cúng viếng. Và cũng để vợ chồng
cô mãi mãi được bên nhau,” bà Mai tâm sự.
No comments:
Post a Comment