dimanche 20 avril 2014
Thuật ngữ « Etat de droit » trong tiếng
Pháp nguyên thủy bắt nguồn từ khái niệm « Rechtsstaat », xuất hiện
vào khoảng đầu thế kỷ 20 ở Đức, có ý nghĩa là một « hệ thống định chế (thiết
lập quốc gia) mà trong đó mọi quyền lực đều phải tuân theo pháp luật ». Ta
có một khái niệm tương đương (xuất hiện từ thế kỷ 17) « Rule of law »
trong xã hội Anh-Mỹ.
Việt Nam trước sau có đến hai cụm từ « pháp quyền »
và « pháp trị », là từ Hán-Việt, « nhà nước pháp quyền »
hay « nhà nước pháp trị », để dịch thuật ngữ này.
Tại miền Nam trước 1975, cả hai thuật ngữ
« pháp quyền » và « nhà nước pháp trị » đã được sử dụng với
hai ý nghĩa luật học rất khác nhau. Các sách Luật, do các giáo sư thuộc Đại học
Luật phiên dịch ra tiếng Việt, đều dịch « Etat de droit » là
« nhà nước pháp trị. Còn « juridiction » các tự điển Pháp-Việt dịch
« pháp quyền », tức quyền xét xử. (Các tự điển Pháp-Hoa trong cùng thời
kỳ cũng đều dịch như vậy : juridiction - pháp quyền).
(Trường Luật ở miền Nam trước 75 nguyên thủy là trường
« Cao đẳng Luật học » ở Hà Nội (do Pháp lập vào đầu thế kỷ 20). Trường
này phụ thuộc vào trường Luật Paris. Sau 1954, Việt Nam chia đôi đất nước, trường
« di cư » vào nam, độc lập với Paris, trở thành « Luật khoa đại
học đường » trực thuộc Viện Đại Học Sài Gòn, với ba phân khoa chính là tư
pháp, công pháp và kinh tế.)
Các tự điển Pháp Việt xuất bản sau này thì dịch
« juridiction » là « quyền tài phán ».
Điều ghi nhận : chữ « quyền » ở các
trường hợp trên là « droit, right », như « nhân quyền »,
« phụ nữ quyền »… chứ không phải là « quyền » của
« quyền lực » (pouvoir, power). Cũng không phải là « luật »
(loi, law) trong « hệ thống luật » (ở các định nghĩa về « pháp
quyền » của các tự điển Việt Nam sau năm 1992).
Thuật ngữ « pháp trị » đã trở thành quen
thuộc với giới luật gia và học giả miền Nam cho tới năm 1975. Một số tác giả hậu
duệ, (kế thừa), hay xuất thân từ VNCH cũ vẫn còn thói quen sử dụng từ
« nhà nước pháp trị » cho đến hôm nay.
Trong cùng thời gian, ở miền Bắc, phân khoa Luật bị
« khai tử » trong danh sách các phân khoa đại học. Trường « Cao
đẳng Luật học » đổi tên thành trường Chính trị xã hội. Nhưng một thời gian
sau thì trường này cũng bị xóa sổ.
Không có một tài liệu nào cho thấy miền Bắc sử dụng
từ « pháp quyền » hay một từ tương đương để dịch khái niệm về nhà nước
gọi là « Etat de droit » hay « Rule of law ». Khái niệm này
không hề có ở miền bắc Việt Nam. Điều này cũng đúng cho tất cả các nước thuộc
khối cộng sản cũ.
Chỉ đến thập niên 90 từ ngữ « nhà nước pháp quyền »
mới xuất hiện trong các bài viết chính trị. Nó chính thức được đưa vào bản Hiến
pháp (sữa đổi) năm 2001.
Câu hỏi đặt ra, dịch cách nào là đúng, nhà nước
« pháp trị » hay nhà nước « pháp quyền » ?
Nhắc lại một số trường hợp khác biệt về nhận thức và
diễn đạt của hai bên Nam và Bắc Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh : khi
miền Nam gọi là lính « thủy quân lục chiến » thì miền Bắc gọi là
« lính thủy đánh bộ », miền Nam gọi máy bay « trực thăng »
thì miền Bắc « máy bay lên thẳng », miền Nam viết « phản ảnh »
thì miền Bắc viết « phản ánh », miền Nam gọi là « nhà hộ
sinh » thì miền Bắc gọi là « xưởng đẻ » v.v…
Ta thấy cách nói nào cũng đúng.
Nhưng ở trường hợp « pháp quyền » và
« pháp trị » vấn đề hoàn toàn khác. Có hai lãnh vực cần xem xét.
1/ Vấn đề ngôn từ :
1.1
Cách dịch tương đương :
Nền văn minh Trung Hoa, (mà Việt Nam ảnh hưởng một
cách sâu sắc), không hề có khái niệm về quyền lực quốc gia như là « hệ thống
định chế mà trong đó mọi quyền lực quốc gia đều phải tuân theo pháp luật »,
theo như định nghĩa của « Rule of law – Etat de droit ». Các
dân tộc Trung Hoa và Việt Nam chưa từng có kinh nghiệm sống trong một xã hội
dân chủ tự do (démocratie libérale) mà chỉ trong thể chế chính trị này
« Etat de droit - Rule of law » mới có thể xây dựng.
Như vậy, ngôn ngữ Trung Hoa (Hán) và Việt không có từ
ngữ nào tương đương để dịch « Rule of law – Etat de droit ».
(Ta có trong ngôn ngữ Việt Nam những từ ngữ tương
đương để dịch một số từ đặc biệt tiếng Pháp. Thí dụ « L’Académie
française » thì dịch là « Pháp quốc Hàn lâm viện », còn gọi là
« viện Hàn lâm Pháp ». « Hàn lâm » nghĩa nguyên tiếng Hán
là « rừng bút », là tên một định chế học thuật VN thời xưa. Tương ứng
với một định chế học thuật Pháp, có tên là (khu vườn Akadêmos ).
« Académie » là một danh từ riêng, làm sao dịch nghĩa được ?
TQ dịch là « Pháp quốc Học thuật viện »).
1.2
Cách dịch theo ngữ nghĩa :
Về thuật ngữ « Rule of law - Etat de
droit », tự điển tiếng Hoa dịch là “pháp quy 法規” và “pháp trị法治”.
Việt Nam hiện nay dịch « Rule of law -
Etat de droit » là “pháp quyền”. Cả hai từ “pháp” và “quyền” đều có gốc
Hán.
Mạnh Tử có nói: “Nam nữ thụ thụ bất thân, lễ dã, tẩu
nịch viên chi dĩ thủ, quyền dã 男女授受不親, 禮也; 嫂溺援之以手,權也 ». Nam nữ trao và nhận không được trực tiếp gần gũi với nhau,
đó là lễ; chị dâu bị đắm chìm đưa tay ra vớt, đó là “quyền”.
Chữ “quyền” bắt nguồn từ “lễ” của Khổng giáo.
Chữ « quyền 權» trong tiếng Hán chỉ có một cách viết duy nhất, vừa
chỉ cho quyền (droit, right) trong quyền lợi, hay quyền (pouvoir, power) trong
quyền lực, hay luật (loi, law) trong « hệ thống luật ». Các chữ “quyền”
trong quyền lực, chính quyền, nhân quyền, tam quyền phân lập… đều có cùng một
cách viết.
Như thế dùng chữ “quyền”, với đặc tính “lễ” (nhân trị),
để dịch một thuật ngữ liên quan đến “pháp lý” (pháp trị), « Rule of
law - Etat de droit », là không chính xác.
Chủ trương của Khổng giáo là “nhân trị” và “đức trị”
chứ không là pháp trị.
Như thế, dịch chính xác theo ngữ nghĩa
thì « Rule of law - Etat de droit » phải dịch là nhà nước
“pháp trị” chứ không thể là nhà nước “pháp quyền”.
Cũng có giải thích cho rằng dùng từ “pháp quyền” vì
Trung Hoa thời thuợng cổ đã có quan niệm về “pháp trị”. Thật vậy, phái “Pháp
gia” phản biện chủ trương “nhân trị” của Khổng, đưa ra thuyết “pháp trị”, lấy
luật pháp để cai trị. Nhưng “pháp trị” ở đây là pháp luật để cho ông vua sử dụng
để cai trị người dân. Tức pháp luật là công cụ của người lãnh đạo. Người lãnh đạo
là luật, còn không thì ở trên luật. Đây là chế độ “dụng pháp trị” “rule by
law”. Trong khi đặc điểm của một nhà nước pháp trị là luật pháp phải độc lập với
chính quyền và tất cả mọi người, kể cả người lãnh đạo, đều ở dưới và chịu sự
chi phối của pháp luật.
2/ Vấn đề áp dụng
“pháp quyền” hay “pháp trị” trong nhà nước.
Nếu ta xét đến hiến pháp của các nước dân chủ tiêu
biểu như Mỹ, Pháp, Đức… ta không hề thấy qui định nhà nước phải theo một thể chế
chính trị nào cả mà chỉ ghi là phải tôn trọng ý nguyện của người dân. Cũng
không thấy ghi là “nhà nước pháp trị” hay “nhà nước pháp quyền”, mà chỉ qui định
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Các điều này không hề thấy ở các chế độ độc tài.
Như đã viết trên, các quốc gia xây dựng nhà nước
trên nền tảng lý thuyết Mác-Lê không hề có khái niệm về một nhà nước pháp trị.
Chỉ sau khi khối XHCN sụp đổ, các nước như Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu bàn về
một « Rule of law - Etat de droit ». Điều này cần thiết vì lãnh đạo tại
đây thấy cần thiết phải gia nhập “sân chơi” WTO để phát triển đất nước. Mà điều
kiện tiên quyết để gia nhập WTO là quốc gia phải có một hệ thống pháp lý minh bạch,
tức phải có một “nhà nước pháp trị”.
Đại hội đảng CSTQ năm 1997 quyết định xây dựng một
“nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa” do Giang Trạch Dân chủ xướng. Ông này chủ
trương “dĩ pháp trị quốc 以法治国 », “kiến thiết xã hội chủ nghĩa pháp trị quốc gia 建设社会主义法治国家 » (hiểu theo tiếng Việt là xây dựng nhà
nước pháp trị xã hội chủ nghĩa). Ta cũng thấy các thuật ngữ khác như
“pháp trị văn học”, “pháp trị hóa”… Đến thời Hồ Cẩm Đào, ông này chủ
trương “Xã hội hài hòa”, nhưng không đi ra ngoài tư tưởng “nhà nước pháp trị xã
hội chủ nghĩa” : “hài hòa xã hội tựu thị pháp trị xã hội 社会就是社会法治 », tức là “xã
hội hài hòa tức là xã hội pháp trị”.
Điều 5 Hiến pháp TQ (tháng 3-1999) qui định “nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa cố gắng lèo lái đất nước phù hợp với pháp luật đồng thời
xây dựng một nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa”.
Từ những hứa hẹn này Trung Quốc được chấp thuận gia
nhập vào WTO 11-12-2001.
Còn VN, từ lâu lãnh đạo CSVN nhất cử nhất động đều
“nhái” theo đàn anh TQ. Khi TQ ra khái niệm “kinh tế xã hội chủ nghĩa thị trường”
hoặc chủ trương “xã hội chủ nghĩa theo màu sắc TQ” thì VN cũng bắt chước y như
vậy. Có điều VN đổi chữ một chút để trở thành “kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN”. Vần đề là nội hàm hai khái niệm này giống nhau như đúc.
Vì thế, khi TQ đưa ra khái niệm “nhà nước pháp trị
xã hội chủ nghĩa“ thì VN không thể không nhái theo.
Thay đổi một chút, Việt Nam chính thức sử dụng cụm từ
“pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, theo điều 2 Hiến pháp (sửa chữa) 2001.
Dầu vậy việc này vẫn không giúp VN sớm gia nhập WTO.
Có lẽ là do “nhập nhằng” ngôn từ hơn là thực chất trọng pháp theo đòi hỏi của tổ
chức này. Bởi vì, thực chất, cái gọi là “nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa“ ở
TQ và “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa“ ở VN đều có chung một bản chất : dụng
pháp trị (rule by law). Tức là giai cấp lãnh đạo đứng trên, hay đứng ngoài pháp
luật, đồng thời pháp luật chỉ là công cụ để bảo vệ chế độ.
3/ Kết luận:
Thực ra dịch thế nào không quan hệ, cái bình nếu có
tròn hay méo thế nào thì đâu đáng quan tâm? Điều quan trọng là rượu đựng trong
đó ngon hay dở ? “Lính thủy đánh bộ” thì có khác gì “thủy quân lục chiến”
?
Cách dịch của các học giả XHCN về “nhà nước pháp quyền”
thay vì “nhà nước pháp trị” cũng chỉ là thói quen bắt chước, nhưng cố làm làm
cho khác người. Tiếc là việc “làm khác người” kỳ này không dễ dàng như cái “xưởng
đẻ”.
Các từ ngữ “xưởng đẻ”, “lính thủy đánh bộ” v.v… lần
hồi được thay thế bằng những từ hoa mỹ hơn. Thì mình cũng hy vọng nay mai “pháp
quyền” cũng sẽ đổi thành “pháp trị”. Vấn đề là các học giả VN có nhận thức được
hay không ?
Một vài thí dụ về để vấn đề rõ ràng hơn : Người ta
nói « nhà nước công an trị », « nhà nước độc tài đảng trị »,
« nhà nước độc tài gia đình trị »…. Chứ không ai gọi « nhà nước
công an quyền », « nhà nước độc tài đảng quyền », « nhà nước độc
tài gia đình quyền » … Vì vậy, khi một nhà nước xây dựng lên bằng một hệ
thống định chế pháp lý, mọi quyền lực trong quốc gia đều chịu kiểm soát của luật
pháp, thì nhà nước đó phải gọi là « nhà nước pháp trị » chứ không thể
gọi khác.
Ta cũng không thể đánh tráo khái niệm « quyền »
trong « pháp quyền » với các mô thức quyền lực đã được thành hình
trong lịch sử tổ chức xã hội của con người. Như « thần quyền » (quyền
lực thuộc về « đấng thần linh tối cao »), « thế quyền »
(quyền lực tập trung vào một người, hay một tập thể con người) hoặc phong kiến
đế quyền (quyền lực tập trung vào tay ông vua). Khi nói về « Etat de droit
– Rule of law » là ta nói trên căn bản một nền cộng hòa, quyền lực quốc
gia thuộc về người dân. (Dĩ nhiên, trường hợp ngoại lệ, Anh Quốc, với nền quân
chủ đại nghị). Ở đây quyền lực bị "pháp luật" giới hạn, kiểm soát, chứ
không phải (và không bao giờ) quyền lực tập trung vào "pháp luật",
như vào tay ông vua (đế quyền) hay vào đấng thần linh tối cao nào đó (thần quyền).
Trong khi chờ đợi một sự thống nhất về cách dùng từ,
thiển nghĩ nên thêm “dân chủ” ở phía trước “pháp trị”, thí dụ: “ở các nước dân
chủ pháp trị…” để tránh những ngộ nhận có thể.
Ghi
chú: Các từ Hán Việt trong bài được kiểm chứng, cũng như
chữ "quyền" thì lấy nguồn từ đây: http://hanviet.org/
Publié par Nhan
Tuan Truong à 22:26
------------------------------
.
Nguyễn
Sĩ Dũng - Tạp
chí Tia Sáng
10:17-21/04/2006
.
Ls
Trần Thanh Hiệp
thuyết trình tại Viện Việt Học, Little Saigon,
ngày 8-5-2011
No comments:
Post a Comment