25.04.2016
Ai cũng
biết là cuộc nội chiến Quốc-Cộng tại Việt Nam kéo dài trên 20 năm (1954-1975)
và đã kết thúc tính đến 30 tháng tư năm nay là đúng 41 năm (1975-2016). Như vậy
là thấm thoắt thời gian hòa bình trên đất nước ta đã dài gấp đôi cuộc chiến.
Dân tộc
Việt Nam đã được gì, mất gì trong những thời gian chiến tranh và hòa bình ấy, hẳn
ai cũng có thể nhẩm tính được. Ðã có biết bao biến đổi thăng trầm trên đất nước
và dân tộc Việt Nam trong hòa bình. Chiều hướng biến đổi chung là các bên thù địch
tham chiến hôm qua, hôm nay đều như có nỗ lực đẩy lùi quá khứ, muốn mau chóng
quên đi chiến tranh, hận thù để cùng hướng đến một tương lai tươi sáng và tốt đẹp
cho dân tộc.
Các bên
cựu thù là người Việt Nam, từng được ngọai bang sử dụng như những công cụ chiến
lược một thời, nay đa số như đồng ý là cần “hòa giải và hòa hợp dân tộc” theo
đúng ý nghĩa của cụm từ này. Vấn đề bất đồng chỉ còn là phương thức thực hiện
“hòa giải và hòa hợp dân tộc” thế nào cho hợp tình hợp lý, để các bên có thể chấp
nhận được, hầu sớm đi đến thống nhất được tòan lực quốc gia để cùng kiến tạo một
tương lai tươi sáng cho dân tộc, tạo thế lực vững chắc bảo vệ được chủ quyền
lãnh thổ, lãnh hải trước tham vọng xâm lăng của ngoại bang Phương Bắc.
Các bên
cựu thù ngọai bang, thì nay dường như tỏ ra có thực tâm muốn tạo điều kiện thuận
lợi cho các bên cựu thù bản xứ xích lại gần nhau và sẵn sàng giúp Việt Nam xây
dựng dân chủ, phát triển đất nứơc, theo yêu cầu của một thế chiến lược quốc tế
mới và vì quyền lợi thiết thân của chính họ.
Thành
ra, càng ngày người ta có vẻ dễ dàng đồng ý được với nhau về ý nghĩa lịch sử của
chiến tranh Việt Nam và sự kết thúc của cuộc chiến này. mang một ý nghĩa trung
thực phù hợp với tính khách quan của lịch sử.
Thật vậy,
sau khi chiến tranh kết thúc, chế độ công cụ cộng sản quốc tế Hà Nội được đóng
vai trò thắng trận đã đưa ra ba “ý nghĩa lịch sử” của cuộc chiến tranh Việt Nam
và sự kết thúc của nó. Chúng ta hãy nhận định về ba “ý nghĩa lịch sử” này, để
thấy được sự chuyển biến nhận thức của các bên tham chiến theo thời gian, những
người Việt Nam cộng sản cũng như những người Việt Nam không cộng sản.
I/- Có
phải đó là “Cuộc Chiến Tranh Yêu Nước, Chiến Tranh Giải Phóng Dân Tộc và Bảo Vệ
Tổ Quốc Tiêu Biểu và Vĩ Ðại Nhất Ở NứơcTa” không?
Cần
phân định rạch ròi cuộc chiến đánh đuổi thực dân Pháp cho đến năm 1954, hòan
tòan khác với cuộc chiến tranh Quốc - Cộng do chế độ công cụ của cộng sản quốc
tế ở Miền Bắc phát động, tiến hành tại Miền Nam từ năm 1954 đến 1975 về mục
tiêu và ý nghĩa.
Mọi người
có thể đồng ý với những người Việt Nam cộng sản về ý nghĩa của cuộc chiến tranh
trước, đúng thực là “Cuộc Chiến Tranh Yêu Nước, Chiến Tranh Giải Phóng
Dân Tộc và Bảo Vệ Tổ Quốc Tiêu Biểu và Vĩ Ðại Nhất Ở NứơcTa”. Vì cuộc
chiến này đã kết thúc gần một trăm năm nô lệ thực dân Pháp, sau một quá
trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhiều thế hệ nhân dân Việt Nam. Còn cuộc
chiến tranh sau, đến lúc này thì ai cũng phải hiểu đó là “Cuộc chiến tranh lợi
dụng lòng yêu nước, khát vọng độc lập, tự do, dân chủ của nhân dân Việt Nam, xô
đẩy dân tộc vào vòng cương tỏa của chủ nghĩa thực dân mới”.
Nói
cách khác, một cuộc chiến mà các bên Bắc và Nam Việt Nam đã bị ngoại bang sử dụng
như những công cụ một thời, thực hiện chiến lược quốc tế trong vùng của các cường
quốc đế quốc cộng sản và tư bản. Nghĩa là một cuộc chiến tranh ý thức hệ do các
cường quốc đế quốc chủ mưu và thủ lợi, đã xử dụng hai công cụ bản xứ để thực hiện
cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn, biến đất nước ta thành bãi chiến trường,
nhân dân ta là đối tượng tiêu thụ vũ khí tồn đọng sau Thế Chiến II và thử nghiệm
thêm các phương tiện giết người hiện đại.
II/- Có
phải đó là “Bản Anh Hùng Ca Vĩ Ðại Nhất Trong Lịch Sử Hàng Ngàn Năm Dựng Nước
Và Giữ Nước của Dân Tộc” không?
Phải khẳng
định là không. Vì đây là hệ quả tất nhiên của ý nghĩa thứ nhất. Bởi một khi người
ta đã đồng ý được với nhau rằng cuộc chiến tranh vừa qua không phải là “Cuộc
Chiến Tranh Yêu Nước, Chiến Tranh Giải Phóng Dân Tộc. . .” thì tất nhiên việc
tiến hành và kết thúc cuộc hiến tranh ấy không thể là “Bản Anh Hùng Ca Vĩ Ðại
Nhất Trong Lịch Sử Hàng Ngàn Năm Dựng Nước Và Giữ Nước của Dân Tộc”. Vả
chăng chỉ có thể coi cuộc chiến tranh này, do công cụ cộng sản Hà Nội khởi động,
tiến hành và kết thúc “thắng lợi” như thế, là “Bản anh hùng ca vĩ đại nhất của
các cá nhân và tập đòan làm tay sai cho ngọai bang trong lịch sử hàng ngàn năm
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta”.
Vì rằng
quả thực cá nhân Ông Hồ và tập đòan cộng sản Việt Nam đã thực hiện xuất sắc các
ý đồ chiến lược của cộng sản quốc tế, vì lợi ích cho lịch sử bành trướng của
các tân Ðế Quốc Ðỏ Liên-Xô, Trung Quốc, hòan tòan xa lạ và đi ngược lại với lịch
sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vĩ đại nhất vì trong lịch
sử làm công cụ thực hiện ý đồ cho ngọai bang, không có cá nhân và tập đòan nào
thực hiện “Nghĩa vụ quốc tế cao cả” (!) xuất sắc hơn Ông Hồ và các lãnh tụ kế tục
đảng Cộng sản Việt Nam.
III/-
Cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc như thế có phải là “Thắng Lợi Của Phe Xã Hội
Chủ Nghĩa”đối với “Phe Tư Bản Chủ Nghĩa” hay không?
Lại vẫn
phải khẳng định là không. Trước đây có thể là hầu hết những người Việt Nam cộng
sản không đồng ý với sự khẳng định này. Nhưng chẳng bao lâu sau ngày 30-4-1975
và cho đến lúc này, dù muốn dù không, đa số người Việt Nam cộng sản cũng như
không cộng sản đã phải thừa nhận sự thật này: Vì nhu cầu thay đổi thế chiến lược
quốc tế,các cường quốc đế quốc mới chủ động đưa cuộc hiến tranh Việt Nam đi đến
kết thúc vào ngày 30-4-1975; và do đó, chiến tranh Việt Nam kết thúc như thế
không thể coi là thắng lợi của phe này (phe XHCH:Việt cộng) đối với phe kia (Phe
TBCN:Việt quốc).
Nhớ lại,
sau ngày 30-4-1975, những người Việt Nam cộng sản đã tỏ ra kiêu hãnh và tự hào
rằng cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc đã là một “đại thắng mùa xuân” cho họ,
vì đã làm được công việc “đẩy lùi trận địa của chủ nghĩa đế quốc, mở rộng
trận địa cho chủ nghĩa xã hội, đảo lộn được chiến lược tòan cầu của đế quốc Mỹ…”.Thế
nhưng đến nay, dù không nói ra, thực tế và các tài liệu giải mật sau này
của các phe tham chiến, đã “giác ngộ và phản tỉnh” những người Việt Nam Cộng sản,
giúp họ hiểu rằng, chính “đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế” đã tiêu
diệt được trận địa chủ nghĩa xã hội, chủ động dập tắt cuộc chiến tranh Việt Nam
nói riêng, chiến tranh Ðông Dương và các cuộc chiến tranh cục bộ khác
trên thế giới nói chung, là do yêu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế mới, là
nỗ lực chung của các cường quốc cực nhằm thiết lập “một nền trật tự kinh tế quốc
tế mới” hay là “Một hệ thống kinh tế thế giới mới”.
Vì sao
những người Việt Nam Cộng sản “Giác ngộ và phản tỉnh” được như vậy?- Chính là
do các sự kiện thực tế diễn ra sau ngày cuộc chiến chấm dứt.
Thật vậy,
khởi đầu quá trình thời gian, ngay khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc, đã
có một số người Việt nam cộng sản có trình độ nhận thức và viễn kiến, lưu ý đến
sự kết thúc chiến tranh không bình thường. Trong thâm tâm những người Việt Nam
Cộng sản này đã có những suy nghĩ cùng chiều với một số đông người Việt Nam
không cộng sản có tâm hồn lạc quan và tầm nhìn chiến lược. Suy nghĩ rằng: Nếu
việc kết thúc chiến tranh Việt Nam quả là một thắng lợi của “phe xã hội chủ
nghĩa” thì tình hình Việt Nam phải biến chuyển theo chiều hướng khác với thực tế
kể từ sau ngày 30-4-1975.
Thực tế
hợp luận lý (logic) phải là phe xã hội chủ nghĩa, cụ thể là các cường quốc cộng
sản hàng đầu như Liên Xô, Trung Quốc, phải tìm mọi cách và dồn mọi nỗ lực chi
viện tối đa cho chế độ cộng sản Việt Nam vượt qua những khó khăn hậu chiến, tạo
điều kiện cho Việt Nam phát triển đến cường thịnh. Ðể làm gì? – Ðể phát huy thắng
lợi Việt Nam nhằm lôi kéo, mời chào các nước nghèo đói, chậm tiến trong vùng
hãy noi gương Việt Nam, lao vào “một cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải
phóng dân tộc. . .” để đạt mục tiêu lật đổ các chính quyền tư sản, xóa bỏ “các
chế độ người bóc lột người” để thay thế bằng các chế độ “Xã hội chủ nghĩa”; hãy
theo gương Việt Nam, để trong “Chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng” sẽ
được trợ giúp tối đa về vũ khí, lương thực để đánh thắng các chính quyền
“phản động”; và sau chiến tranh cũng sẽ được Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã
hội chủ nghĩa anh em khác viện trợ ồ ạt, vô điều kiện trong “tinh thần quốc
tế vô sản”, để cùng nhau thực hiện cuộc cách mạng vô sản trên tòan thế giới,
xây dựng “một xã hội xã hội chủ nghĩa” tại mỗi nước, tiến tới xã hội viên mãn
tòan cầu: “Xã hội cộng sản” như một “Thiên đường Cộng sản” trong viễn tưởng!
Thế
nhưng thực tế trên đã không xẩy ra mà chỉ thấy các hiện tượng trái chiều. Người
ta thấy Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, dường như
chờ đợi một cái gì đó khác hơn. Tất cả như chỉ đứng nhìn và để mặc cho Cộng sản
Việt Nam loay hoay tự giải quyết các khó khăn mọi mặt, khó khăn cũ cũng như khó
khăn hậu chiến mới phát sinh.
Trong
những năm đầu, vào thời điểm mà mâu thuẫn Nga-Hoa đã đến thời kỳ quyết liệt, Việt
Nam bị đẩy vào thế phải chọn lựa dứt khóat: Theo Liên Xô hay theo Trung cộng.
Trong khi chờ đợi sự lựa chọn dứt khóat này, cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều
không có hành động chi viện tích cực nào như đã từng hào hiệp đưa vũ khí, lương
thực và các phương tiện giết người hiện đại cho cộng sản Bắc Việt làm “Chiến
tranh cách mạng, chiến tranh Giải phóng Miền Nam”. Ðến khi chẳng đặng đừng cộng
sản Việt Nam bó buộc phải chọn lựa “Matxcơva là tổ quốc xã hội chủ nghĩa” duy
nhất của mình, lập tức Trung Quốc gây khó khăn thêm nữa cho Cộng sản Việt Nam.
Hành động
cụ thể đầu tiên là Trung cộng đòi nợ khẩn cấp, rút hết chuyên gia về nước, bỏ dở
các công trình đang xây dựng. . . Ðể trả món nợ trong chiến tranh này, cộng sản
Việt Nam đã vơ vét luá gạo, vàng bạc quý kim, tài nguyên đất nước, cùng với
“chiến lợi phẩm” lấy được ở Miền Nam của “Mỹ-Ngụy”, đem trả nợ cho Trung Cộng.
Hậu quả
thấy được là nhân dân cả nước trong thời gian này đã phải ăn bo bo, bột mì, độn
ngô khoai sắn. . . Ðã vậy, như chưa hả giận và như để trừng phạt kẻ phản bội
“tham phú phụ bần”, Trung cộng đã sử dụng công cụ mới của mình ở Campuchia (chế
độ Pol Pot) tiến hành các họat động quấy phá quân sự (như đánh chiếm
vài đảo nhỏ gần bờ biển phía cực Nam của Việt Nam, tấn công Tây Ninh và một số
tỉnh biên giới phía Nam của Việt Nam). Các họat động quân sự này của Pol
Pot, sau đó người ta hiểu được ý đồ thực sự của Trung Cộng chỉ là gài thế cho cộng
sản Việt Nam ngã sấp mặt và sa lầy lâu dài tại Campuchia, là muốn gián tiếp kéo
Liên Xô vào cuộc và gây thêm gánh nặng khó khăn cho Liên Xô… Bằng sự quấy phá,
khiêu khích quân sự của Pot Pot, rõ ràng là Trung Quốc đã đẩy cộng sản Việt Nam
vào thế phải kéo quân vào đất Chùa Tháp tháng 1 năm 1979, và cuối cùng bị
sa lầy ở đó. Ðã vậy, Trung Quốc còn bồi thêm những đòn trừng phạt quân sự, tiến
quân vào các tỉnh phía Bắc, tàn phá nặng nề những cơ sở quân sự, kinh tế
(1979)… gọi là để “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Nay thì
thực tế ngày càng cho thêm dữ kiện đầy đủ để mọi người Việt Nam có thể đi đến
thống nhất nhận định, rằng cuộc chiến tranh Việt Nam thực chất chỉ là cuộc nội
chiến ý thức hệ do các cường quốc phát động và tiến hành trên đất nước Việt
Nam, thông qua các cá nhân, tập đòan bản xứ làm công cụ, xô đẩy nhân dân Việt
nam vào một cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn. Hậu quả bi thảm của cuộc chiến
tranh này đất nước và dân tộc Việt Nam phải gánh chịu, sau khi ý đồ chiến lược
trong vùng của các cường quốc đã đạt được thông qua cuộc chiến.
Và vì vậy,
cuộc chiến tranh Việt nam kết thúc như thế, không phải là thắng lợi của phe này
(Việt Cộng) đối với phe kia (Việt Quốc), mà chỉ là vì nhu cầu thay đổi thế chiến
lược quốc tế mới của các cường quốc mà thôi. Thiết tưởng đã 41 năm qua rồi, thời
gian đã quá đủ cho cả Việt Quốc và Việt Cộng chẳng nên tiếp tục tự hào về cuộc
chiến ấy nữa, khi trong cuộc nội chiên “Nồi da xáo thịt” này, các bên đều bị
ngoại bang sử dụng như những công cụ chiến lược một thời. Thực tế bây giờ là cả
Việt Quốc và Việt Cộng cần cố gắng đẩy lùi quá khứ, hướng đến tương lai, để biết
phải làm gì và cần làm gì hữu ích, có lợi nhất cho nhân dân và đất nước.
---------------------------
* Các
bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm
hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment