Posted on Apr 7, 2014
Người ta hình dung Dân Chủ, đặc biệt là dân chủ nghị
trường, như sự kết thúc của lịch sử, như chân trời không thể vượt qua của trí
tuệ, như một cái gì đương nhiên (…) Chúng ta thử suy nghĩ xem bên ngoài
chân trời ấy, có còn một bầu trời nào khác nữa không?
Không gì nguy hiểm cho
người trí thức bằng tự giam mình trong những định kiến của một giai đoạn lịch
sử. Vì đó chính là giết chết vai trò trí thức trong bản thân mình, bóp nghẹt
mọi suy tư vượt trên những khuôn khổ thời thượng. Trên bình diện xã hội, thái
độ ấy đưa đến khóa cửa chối từ những luồng gió mới, kềm hãm bánh xe lịch sử,
ngăn cấm sự tiến hóa của xã hội một cách hài hòa trên con đường trí tuệ . Để
rồi, sẽ chỉ còn những con đường đột biến, đầy khủng hoảng và tang thương …
Chúng ta đang sống trong
một giai đoạn trong đó người ta hình dung Dân Chủ, đặc biệt là dân chủ nghị
trường, như sự kết thúc của lịch sử (1), như chân trời không thể vượt qua của trí tuệ, như một cái gì đương
nhiên. Như thể xã hội mang tính nhị nguyên. Hễ ra khỏi độc tài thì là dân chủ.
Không còn gì khác ! Thực tế là xã hội con người không nhị nguyên. Mọi tương lai
đều khả hữu. Marx (2), Popper (3), và ngay cả Sartre (4) trên những quan điểm khác nhau, đều đã nhìn ra điều ấy. Chúng ta cũng
nhận thấy sự thật này một cách cụ thể từ năm 1989, lúc người ta tuyên dương sự
chiến thắng vĩnh cửu của chính thể dân chủ đại diện và kinh tế thị trường (1). Từ thời điểm ấy, những xã hội thoát khỏi thế giới lưỡng cực đã dấn
bước lên nhiều con đường khác nhau, trong đó dân chủ không phải bao giờ cũng là
mối quan tâm chính yếu.
Thật ra, điều quan trọng
nhất của suy nghĩ chính trị hiện nay không ngoài việc hướng đến giải đáp cho ba
vấn nạn quan trọng nhất của thời đại chúng ta : nguy cơ khánh tận tài nguyên,
nguy cơ chìm trong ô nhiễm, và hố sâu chênh lệch giàu nghèo (2). Nếu thật sự dân chủ nghị trường là điểm đến của mọi suy tư, thì nó có
khả năng giải quyết những nguy cơ sống còn ấy hay không ? Lý thuyết dân chủ cần
những thay đổi, những cập nhật nào ? Và bên ngoài chân trời ấy, có còn một bầu
trời nào khác không ?
Trong bài này chúng ta sẽ
tự hạn chế trong việc duyệt qua một số nghịch lý của dân chủ. Không phải để bài
bác, nhưng từ sự nhận thức các mâu thuẫn, chắc chắn bạn đọc sẽ có được những
cái nhìn mới. Rất có thể những quan niệm mới này sẽ vẫn ở trong phạm vi dân
chủ, nhưng ở một trình độ khác hơn. Dù sao, cần giữ cho cánh cửa suy tư luôn
rộng mở …
Hai mâu thuẫn nền tảng giữa bầu cử và dân chủ
Nếu dân chủ là « người
dân làm chủ », thì bầu cử chính là tước đoạt quyền làm chủ của người dân. Bầu
cử mâu thuẫn với dân chủ. Trong phòng phiếu, khi để cho lá phiếu rơi khỏi tay,
thì người dân mặc nhiên từ bỏ quyền làm chủ đất nước của mình, để đặt nó vào
tay một người mà có khi mình chỉ được biết sơ sài qua vài màn trình diễn hay
vài thông tin phiến diện được gạn lọc bởi những cơ sở truyền thông. Kết quả là
quyền hành được chuyển nhượng cho một nhóm chính trị gia chuyên nghiệp, phân
chia thành đảng phái để thay phiên nhau cai trị xã hội. Bầu cử, trong sự vận
hành tốt đẹp nhất của nó, chỉ đưa đến một chính thể « thượng chủ »
(oligarchie), với quyền hành luân chuyển trong tay một giới thượng lưu. Có lẽ
vì thế mà Sartre đã cho rằng bầu cử là cạm bẫy dành cho bọn đần độn : «
élection, piège à cons ! » (5) …
Mâu thuẫn nền tảng thứ
hai giữa bầu cử và dân chủ đến từ một ngộ nhận phổ quát. Người ta nghĩ rằng khi
mỗi cử tri phát biểu qua lá phiếu của mình thì đó là quyết định của « nhân dân
», của dân tộc, của toàn xã hội, và cho đó là dân chủ. Điều này hoàn toàn là
một ngộ nhận, vì lá phiếu chỉ phản ảnh sự chọn lựa của một cá nhân, và tổng hợp
các lá phiếu chỉ cho biết quyết định của một tập hợp cá nhân. Một tập hợp cá
nhân không phải là một dân tộc, không đồng nghĩa với « nhân dân », với xã hội.
Xã hội, nhân dân, dân tộc, mang cá thể riêng biệt, khác hẳn với những cá nhân
cộng lại. Chỉ cần nghĩ rằng : sự kín đáo của phòng phiếu chính là nơi mỗi cá
nhân được dịp phản bội tập thể của mình …
Mâu thuẫn giữa dân chủ và tiến bộ
Như thế, mô hình dân chủ
nghị trường, đặt căn bản trên bầu cử, tức trên bài toán cộng của những chọn lựa
cá nhân, rốt cuộc chỉ đưa đến một chế độ « thượng chủ », với quyền hành nằm
trong tay một giai cấp thượng lưu luôn cố bám lấy quyền lợi của mình bằng cách
duy trì xã hội trong nguyên trạng của nó. Chữ « State » hay « Etat », thường
được dịch là « Quốc Gia », thật ra có nghĩa gốc là « nguyên trạng ». Giai cấp
nắm quyền tự cho mình cái bổn phận phải duy trì « Quốc Gia », tức « nguyên
trạng », nói cách khác, là kềm giữ xã hội trong một trạng thái nhất định, được
gọi là « ổn định ». Điều này đương nhiên là mâu thuẫn với nhu cầu tiến hóa của
xã hội. Vì thế, những tiến bộ quan trọng của xã hội thường phải vận dụng đến
những hình thức dân chủ khác với dân chủ nghị trường, tức những cao trào quần
chúng đấu tranh quy mô.
Cần biết là những người
dân mong muốn xã hội tiến hóa một cách tha thiết nhất chính là tầng lớp nghèo
khổ. Quyền bầu phiếu không là gì cả khi bụng đói, khi rách rưới, khi nhà cửa
dột nát hay không có nhà cửa … Xã hội tư sản không dành cho những người này một
định chế hữu hiệu nào để bảo vệ quyền lợi của họ. Thật vậy, không có nghiệp
đoàn người thất nghiệp. Thống kê cũng cho biết những người thực sự nghèo khổ,
với công ăn việc làm bấp bênh, thường không tham gia công đoàn (và ít tham gia
bầu cử). Các nghiệp đoàn đều là nghiệp đoàn của những người có công việc. Những
người thực sự nghèo khổ chỉ có một phương tiện duy nhất để ngoi lên, đó là :
đấu tranh tập thể ! Dân chủ đối với họ, cũng như những tầng lớp thiếu thốn nói
chung, buộc phải thông qua việc tổ chức thành công cao trào tập thể đấu tranh.
Đó là những lóe sáng của dân chủ thực sự, trong những xã hội « thượng chủ » bị
gò ép trong tay một giai cấp chính trị gia chuyên nghiệp.
Quyền từ ̣ do ngôn luân và dân chủ hình thức
Người ta thường nói đến
tự do ngôn luận như một trong những thành tố quan trọng nhất của xã hội dân
chủ. Thật ra, điều quan trọng là : quyền quyết định nằm trong tay ai ? Chứ
không phải quyền nói năng, phát biểu ! Churchill từng nói (đùa) rằng : “chúng
ta sống trong một xã hội dân chủ, nên quý vị có toàn quyền phát biểu trước khi
phục tùng quyết định của tôi ». Khi quyền hành được tầng lớp ưu thắng nắm chắc
trong tay, thì tự do ngôn luận không còn một giá trị quyết định nào. Người ta
có thể có tự do, đồng thời vẫn bị lệ thuộc.
Trên một bình diện quy mô
hơn, trong các xã hội Tây Phương, ngôn luận được tập trung trong tay các nhà kỹ
nghệ. Tại Pháp, một tổ hợp xây cất, cùng với hai tổ hợp sản xuất vũ khí thân
cận với chính quyền, hiện nắm giữ những phương tiện truyền thông đại chúng quan
trọng nhất, bao gồm những đài truyền hình đại chúng, đài phát thanh, báo giấy,
báo mạng, nhà xuất bản sách v.v… Patrick Le Lay Giám đốc đài truyền hình TF1,
được nhiều người xem nhất tại Pháp, thuộc tổ hợp Bouyghes, gốc là một công ty
xây cất, từng tuyên bố : « điều mà chúng ta bán cho Coca Cola – hay bất cứ
thương hiệu nào khác – là thời gian trí não của khán giả, để họ sẵn sàng đón
nhận các thông điệp quảng cáo » (6). Truyền thông trở nên lệ thuộc vào thế lực tiền bạc và gắn bó chặt chẽ
với quyền lực chính trị. Khán giả các phương tiện truyền thông đại chúng, tức
đại đa số dân chúng, bị điều kiện hóa để không còn biết tự mình suy nghĩ. Họ
trở thành một bầy cừu với những thái độ và phản ứng đồng loạt được « quy trình
» sẵn (7). Ý kiến cá nhân, vốn là cột trụ quan trọng nhất của dân chủ, từng được
các triết gia như Aristote đề cao từ thời cổ Hy Lạp, bị đặt trước nguy cơ tàn
lụi, bởi sự tập trung phương tiện ngôn luận dưới sự cai trị của thị trường.
Vấn đề nhân quyền
Nhân quyền vốn vẫn được
coi như sự biện minh của dân chủ. Người ta hình dung nhân quyền như một cái gì
đương nhiên, không cần bàn cãi. Thật ra khái niệm nhân quyền rất mong manh. Nó
lệ thuộc vào sự hiện hữu của ba yếu tố: một bản chất con người cách biệt với
thiên nhiên một cách rõ rệt, một giá trị hiển nhiên của con người vượt hẳn mọi
giá trị khác, và sự cảm thông rộng rãi giữa mọi con người với nhau. Các yếu tố
này sẽ được phân tích trong một bài viết sắp phổ biến. Tạm thời, chúng ta có
thể nhận xét là trong xã hội tân tiến hiện tại, cả ba yếu tố kể trên đều rất
lung lay, chao đảo.
- Bản chất con người cách
biệt với thiên nhiên ? Không gì mơ hồ hơn, khi những chứng minh về liên hệ chặt
chẽ giữa con người và thiên nhiên trên tiến trình tiến hóa càng ngày càng rõ
nét, trên mặt vật lý cũng như tâm lý. Thậm chí văn hóa của con người cũng phải
tuân theo những quy luật cấu trúc khách quan (8). Quan niệm chỗ đứng của con người như một chủ thể độc lập, tự do, vượt
trên các thành tố khác của thiên nhiên, hiện phải bị xét lại.
- Giá trị hiển nhiên của
con người ? Sau những tội ác mà con người đã làm cho đồng loại của mình suốt
thế kỷ 20, từ chế độ Gulag, Auschwitz, đến Srebenisca, qua sự tiêu diệt một
phần ba của chính dân tộc mình tại Campuchia rồi cuộc thảm sát ở Rwanda, người
ta có quyền có đôi chút nghi ngờ về « giá trị » nhân bản ấy.
- Sự cảm thông rộng rãi
giữa con người với nhau ? Với phản ứng co cụm của từng cộng đồng trong phạm vi
văn hóa của riêng mình, để bài bác, thậm chí tấn công bằng bạo lực các cộng
đồng khác, chiều hướng thông cảm giữa người với người cũng đang trên đà sút
giảm … Thật ra, đã bao giờ người ta coi những con người thuộc văn hóa hay tôn
giáo khác như mang cùng bản chất với mình hay chưa ? Chỉ cần nghĩ đến việc đa
số tôn giáo thường hứa hẹn cho đa số đồng loại của mình một sự đày đọa muôn đời
trong địa ngục …
Kết quả của sự khó khăn
trong ý thức Nhân Quyền, là tại nhiều nơi người ta buộc phải áp đặt nó, có khi
bằng bom đạn, có khi bằng áp lực kinh tế hay chính trị, khiến Nhân Quyền rất dễ
bị coi như một phương tiện thống trị của chủ nghĩa thực dân mới.
Tính ấu trĩ của con người dân chủ
Platon, trong quyển 8 của
sách Cộng Hòa (la République), mô tả con người dân chủ với một tâm lý bấp bênh,
khi này, khi khác, phất phơ vô định. Hành vi của họ lệ thuộc vào những thèm
muốn, những sợ sệt trái ngược hẳn nhau, lần lượt xuất hiện và biến thái trong
tâm tư dao động của họ.
Tocqueville, khi phân
tích nguy cơ độc tài và suy thoái trong dân chủ, đã cho rằng dân chủ có khả
năng ru ngủ con người, duy trì người dân trong một tình trạng ấu trĩ. Con người
trong xã hội dân chủ có khuynh hướng thu mình trong một phạm vi cá nhân, gia
đình, hay bè bạn rất hạn chế, và chỉ quan tâm đến những nhu cầu và thú vui nhỏ
nhoi riêng tư của họ, bất chấp mọi người, mọi việc chung quanh. Những kẻ này có
thể gặp gỡ người khác, nhưng không nhìn thấy bất cứ ai. Họ có thể có nhiều tiếp
xúc nhưng không hề ý thức sự hiện diện của tha nhân … Họ chỉ hiện hữu cho chính
họ. Tocqueville cho rằng những người ấy nhìn xã hội qua khung cảnh hạn hẹp của
gia đình mình. Tâm lý này dễ biến xã hội thành một tập hợp những sự ích kỷ, khó
có được một hướng tiến, một đề án, một viễn tượng chung. Tâm lý ấy cũng thuận
lợi cho những kẻ mị dân, lừa gạt dư luận bằng những lời nói vỗ về đường mật, để
đưa xã hội vào độc tài toàn trị.
Vấn đề dư luận
Dư luận vừa là một con
quái vật hung hãn có khả năng nuốt sống bất cứ ai, bất cứ chương trình, tư
tưởng nào, đồng thời cũng là một người đẹp được mọi người theo đuổi, chiều
chuộng … Chấp nhận sự thống trị của dư luận là một nguy cơ cho xã hội. Một nhà
lãnh đạo, theo định nghĩa, không thể đóng vai trò lãnh đạo nếu luôn chiều theo
dư luận. Các quyết định lịch sử trọng đại thường đi ngược lại ý muốn của dư
luận, như việc sát nhập Đông và Tây Đức của Thủ Tướng Kohl, hay việc xóa bỏ án
tử hình của Tổng Thống Mitterrand … Những nhân vật được coi như vĩ nhân của
nước họ, như Tổng Thống de Gaulle hay Thủ Tướng Churchill, đều có rất nhiều lúc
phải chống lại dư luận trong cuộc đời chính trị của họ. Tuy nhiên không ai dám
quả quyết là một nhà cầm quyền có thể đối đầu với dư luận. Max Weber phân biệt
đạo lý trách nhiệm với đạo lý giựa trên lập trường, trên niềm tin vào lẽ phải.
Người cầm quyền có thể tin rằng một quan điểm nào đó là đúng, nhưng vẫn phải
chiều theo dư luận, nhân danh « đạo lý trách nhiệm » …
Trong nhiều trường hợp,
dư luận trở nên quan trọng hơn bầu cử. Cả Nicolas Sarkozy lẫn Ségolène Royal
đều được đưa lên đỉnh cao của cuộc tranh cử Tổng Thống Pháp năm 2007 nhờ các
cuộc thăm dò dư luận. Tại Pháp, nhiều chính phủ vừa được thùng phiếu đưa lên đã
nhanh chóng bị giải tán cũng chỉ vì tụt dốc trong các thăm dò dư luận. Quyền
hành của dư luận khiến cho giới chính trị gia chuyên nghiệp luôn tìm mọi cách
để quyến rũ người đẹp hiểm ác này. Được đào luyện bởi những văn phòng tư vấn về
truyền thông, họ tập tành chú trọng đến các yếu tố phù phiếm bên ngoài, cách ăn
mặc, nói năng, bộ điệu, những thứ không liên hệ gì đến khả năng quản lý quốc
gia, chỉ để dụ dỗ người đẹp « dư luận ». Đồng thời họ tận lực khai thác những
thị hiếu thấp kém của dư luận để tấn công các đối thủ của họ trên các lãnh vực
riêng tư, như tình ái, thậm chí tình dục, các khó khăn gia đình v.v… Chính trị
trở thành một đấu trường hạ cấp, với những đòn phép bỉ ổi, không ăn nhằm gì đến
ưu tư ích quốc lợi dân.
Nguyên tác tự do
Bên cạnh đó, sự gắn bó
thái quá vào những nguyên tắc nền tảng của dân chủ cũng có thể đưa đến phủ định
chính dân chủ.
Sự gắn bó quá đáng vào
nguyên tắc Tự Do khiến con người có cảm tưởng mình có thể làm mọi thứ, khai
phóng mọi ham muốn, gợi lên những ước vọng không giới hạn, để rồi phải thất
vọng khi đụng chạm với các giới hạn của thực tế và bất mãn quay lại chống phá
xã hội dân chủ đã cưu mang mình.
Mặt khác, nếu lý tưởng tự
do cá nhân có thể được diễn dịch một cách đơn giản là mỗi người tự mình đạt đến
một cuộc sống thoải mái, có ý nghĩa, thì khi vượt qua một giới hạn nào đó, nó
lại trở thành tìm mọi cách để làm sao để có thể tiêu thụ nhiều nhất, đạt đến
địa vị cao nhất … Tương tự như một thể tháo gia, thay vì chơi thể thao cho thân
thể khỏe mạnh, thì lại dùng thuốc kích thích có hại cho sức khỏe để tăng hiệu
năng đánh bại các đối thủ. Chính với tâm lý này mà người ta luôn tìm mọi cách
để vượt trên người khác, đè bẹp người khác, với hậu quả tai hại cho sự hòa
đồng, hợp tác, không thể thiếu được trong xã hội.
Nguyên tắc bình đẳng
Nguyên tắc Bình Đẳng được
đẩy mạnh khiến con người luôn nhìn thấy bất công, luôn phẫn uất, và rốt cuộc
cũng bất mãn với xã hội. Bình đẳng khiến con người không còn nhận thấy chỗ đứng
của mình trong cấu trúc xã hội. Một cấu trúc không khi nào là một mặt phẳng !
Bình đẳng là một mặt phảng. Nói đến cấu trúc xã hội là mặc nhiên phủ nhận hình
ảnh xã hội như một mặt phẳng bình đẳng. Thời xưa, chỗ đứng của mỗi người được
ban bố bởi Thiên Chúa, Mệnh Trời, Nhà Vua, giòng tộc … Ngày nay, với lý tưởng
bình đẳng, những yếu tố ấy không còn nữa, đưa đến việc người ta bị thôi thúc
phải chinh phục một chỗ đứng, gây nên một trạng thái cạnh tranh toàn diện có thể
gay gắt đến mức làm hại cho xã hội, như vừa nói.
Thật ra, con người, dù là
con người dân chủ, cũng rất khó mà chấp nhận được lý tưởng bình đẳng. Một thí
dụ dễ nhận ra là việc thừa kế. Thừa kế đương nhiên là bất công, bất bình đẳng.
Người được hưởng một gia sản không tài ba gì hơn người khác. Hắn chỉ được sinh
ra trong một gia đình giàu có. Tưởng thưởng yếu tố « sinh ra » , tức yếu tố «
dòng dõi », chính là trở về với những giá trị của chế độ phong kiến, quý tộc !
Tuy nhiên, nếu một xã hội dân chủ nhân danh lý tưởng bình đẳng của mình để xóa
bỏ việc thừa kế, hay chỉ tăng thuế thừa kế, thì tuyệt đại đa số công dân ham mộ
« dân chủ » của xã hội ấy sẽ đứng lên chống đối một cách mạnh mẽ, mặc dù họ
luôn sẵn sàng hô hào bảo vệ lý tưởng bình đẳng trên các lãnh vực khác !
Con người dân chủ chỉ
trưởng thành khi có được những lập trường chống lại chính mình. Điều này được
thể hiện qua con người của Tocqueville, một trong những cha đẻ của tư tưởng dân
chủ hiện đại. Thật vậy, Tocqueville tự đĩnh nghĩa mình là một nhà quý tộc trong
tâm hồn, nhưng một người dân chủ trong trí não …
Dân chủ tự giết chết dân chủ
Lịch sử cho thấy những
nền dân chủ luôn phải đối đầu với nguy cơ suy thoái hay viễn tượng đưa đến độc
tài. Athena đã tàn lụi, Roma đẻ ra một chính thể độc tài rất tệ hại trước khi
cũng bị nhận chìm trong giòng lịch sử. Lý tưởng dân chủ của cách mạng Pháp dẫn
đến giai đoạn Kinh Hoàng trước khi nhường quyền lại cho đế quốc Napoleon. Những
chủ trương cao quý của cách mạng vô sản Nga đưa đến địa ngục Staline, trước khi
từ từ lún xâu vào độc tài Tư Bản. Các nền dân chủ Đức, Ý, Pháp, đã đặt lên đỉnh
cao quyền hành những Hitler, Mussolini, và đám tay sai của họ.
Nguyên do của viễn tượng
này đã được bàn qua ở trên : đó chính là tính khai phóng của dân chủ, đưa đến sự
ích kỷ, không còn biết nghĩ đến quyền lợi chung nữa. Ngày xưa, dân chủ bị coi
rẻ vì lý do ấy. Platon, trong sách Cộng Hòa (Republique), quyển 8, cho thấy
tương lai của một chế độ dân chủ chính là tình trạng hỗn loạn. Từ hỗn loạn sẽ
nảy sinh ra một nhân vật được coi như cứu tinh của xã hội, che chở và bảo vệ
người dân, trước khi trở thành nhà độc tài sắt máu. Tâm hồn của nhà độc tài vốn
là một tâm hồn « dân chủ » trước khi mọi ham muốn, tham vọng của hắn được «
khai phóng » triệt để bởi lý tưởng tự do, khiến hắn không còn tự kềm hãm được
nữa. Thế là dân chủ dẫn đến độc tài !
Thật ra, độc tài cũng có
thể ẩn náu trong dân chủ dưới những hình thức kín đáo, như sự độc tài của trí
thức khoa bảng. Người trí thức biểu dương nhãn hiệu bằng cấp, được tôn thờ như những
người nắm độc quyền suy nghĩ trong một số lãnh vực và mặc nhiên tước quyền ấy
của mọi người khác. Dư luận cũng có thể trở thành độc tài như đã được bàn đến ở
trên. Hậu quả của hai sự « độc tài » vừa nói đương nhiên là không sắt máu như
các thể chế độc tài toàn trị, và dễ được chấp nhận bởi đa số người dân.
Vấn đề văn hóa
Xã hội dân chủ, với các
nguyên tắc tự do và bình đẳng, thường gặp khó khăn trong việc hòa hợp các nền
văn hóa. Nhất là khi văn hóa biến thái thành các « sản phẩm văn hóa » được gói
ghém trong những bao bì hoa mỹ để kích thích người ta tiêu thụ chúng. Nhiều xã
hội dân chủ tìm cách hội nhập các nền văn hóa khác biệt trong khuôn khổ một văn
hóa ưu thắng được lấy làm tiêu chuẩn, với nguy cơ trở thành « phản văn hóa »,
và … phản dân chủ ! Phản ứng của các cộng đồng có văn hóa không ưu thắng trước
áp lực hội nhập này có thể gây nhiều nguy hại, nhất là khi các điều kiện kinh
tế khó khăn đào xâu hố ngăn cách giữa các cộng đồng.
Nói chung, người ta
thường có khuynh hướng đề cao những khác biệt của cộng đồng mình, tự hãnh diện
coi mình như « hơn » thành viên của những cộng đồng khác. Việc thuộc về một
cộng đồng, một tôn giáo hay một chủng tộc, thường được coi như một giá trị tự
thân, được đặt cao hơn cả giá trị của xã hội trong đó người ta đang sống. Trong
một số điều kiện nào đó, thái độ này có thể trở thành quá khích, bạo lực, đối
với những cộng đồng khác hay đối với toàn xã hội …
Dân chủ và kinh tế thị trường
Từ nhiều năm nay, với xác
quyết : « kinh tế thị trường sẽ đưa đến dân chủ, tôn trọng nhân quyền », người
ta đưa kinh tế thị trường lên hàng giá trị đạo đức, trong khi trong bản chất
kinh tế thị trường không liên hệ gì đến đạo đức ! Tuy nhiên, sau khi trải qua
thử thách của năm 1989, xác quyết ấy, từ một niềm tin thần thánh, đã nhanh
chóng trở thành một giả thuyết, rồi một giả thuyết bị ngờ vực, trước khi dần
dần bị phủ nhận. Nga, Trung Quốc, Việt Nam, và nhiều nước khác, đều đã không
dân chủ hóa như người ta mong đợi, mặc dù vững tiến trên con đường « thị trường
hóa ». Người dân Nga vừa bằng lòng với nền kinh tế thị trường, nhưng cũng bằng
lòng với triều đại độc tài Poutine. Người dân Trung Quốc cũng sẵn sàng đứng sau
chính phủ của họ, ngay cả trong những vấn đề tế nhị như Tây Tạng.
Thật ra, ngộ nhận đưa đến
việc gắn liền kinh tế thị trường với dân chủ là một quan niệm của Tư Bản Chủ
Nghĩa kinh điển, đặt căn bản trên mâu thuẫn giữa Lao Động với Tư Bản. Ngày nay,
nhiều mâu thuẫn khác đã nảy sinh. Thí dụ như mâu thuẫn với môi trường, bao gồm
ô nhiễm và suy kiệt tài nguyên thiên nhiên, đi kèm với mâu thuẫn nước giàu,
nước nghèo, kinh tế thực, kinh tế ảo v.v…
Thật vậy, những lãnh vực kinh tế mới đã tạo ra những yếu tố « ảo », được coi như đang xoi mòn nền móng của Tư Bản Chủ Nghĩa. Kinh tế « ảo » mang những mâu thuẫn với nền kinh tế sản xuất và dịch vụ thông thường. Hàng hóa cũng như dịch vụ « ảo » được trao đổi tự do và miễn phí qua mạng internet, mâu thuẫn không chỉ với quyền tư hữu, mà cả với định lý nền tảng của Tư Bản Chủ Nghĩa gán cho mỗi hàng hóa, mỗi dịch vụ, một giá trị tiền bạc.
Bên cạnh đó, qua cuộc
khủng hoảng ngân hàng gây ra bởi vụ Société Générale, người ta thấy một nhân
viên ngân hàng cấp thấp có thể trong vài phút quyết định sự được mất hàng chục
tỷ đô la tiết kiệm của những người dân thường. Điều ấy sở dĩ xảy ra được vì
những món tiền vĩ đại kia chỉ là những con số, được quản lý bằng vài phát nhấn
chuột trên máy vi tính. Khủng hoảng « subprimes » tại Hoa Kỳ cũng cho thấy mâu
thuẫn giữa những phương tiện làm tiền có thể được, và thực tại của thị trường,
khi thực tại này bị xóa nhóa trong bức tranh trừu tượng của nền kinh tế « ảo »
(có người cho rằng tỷ lệ kinh tế « thực » trên kinh tế « ảo » là một trên 50
!). Một thực tế đã không được nhìn nhận đúng mức, ngày nay hiển lộ ra, là : nếu
cứ để cho kinh tế thị trường được tự nó quyết định quá nhiều, thì nó sẽ đưa đến
những lạm dụng tai hại, có thể kéo theo sự tự hủy diệt chính nó. Sự kiện chính
quyền Hoa Kỳ tung ra những món tiền khổng lồ để cứu những công ty đang sụp đổ
không là gì khác hơn một hình thức « quốc hữu hóa » quy mô, quay lưng lại với
lý thuyết thị trường tự do.
Vấn đề đô thị hóa trong
Tư Bản Chủ Nghĩa hiện đại cũng hàm chứa những mầm mống bất công khó giải quyết,
có khi đưa đến bạo loạn, như thường xảy đến ở Pháp. Trong khi đó, nông thôn
không còn nông dân, chính quyền hạn chế canh tác để giữ giá nông phẩm, mặc cho
nông phẩm thiếu hụt gây nghèo đói …
Dân chủ và toàn cầu hóa
Một trong những chướng
ngại lớn nhất của dân chủ là khuynh hướng toàn cầu hóa của Tư Bản Chủ Nghĩa.
Dân chủ trong sự hoạt động của nó, cần đến những cấu trúc lệ thuộc vào một biên
giới rõ rệt, thông thường nhất là biên giới quốc gia. Thị trường, ngược lại,
không biết đến ranh giới. Môi trường hoạt động của nó rốt rào là toàn cầu.
Những quyết định của thị trường có thể mâu thuẫn với những quyết định « dân chủ
» của người dân. Thị trường có thể áp đặt quy luật của mình trên luật lệ an
sinh xã hội, luật lao động, luật tài chánh, thuế khóa, hối đoái v.v… của một
nước. Áp lực của thị trường có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Ngược lại, ảnh
hưởng điều chế của dân chủ trên áp lực của thị trường thì lại ngày càng suy
giảm, ngay cả tại các nước tiền tiến. Một chính phủ, dù hữu khuynh hay tả phái,
tại Pháp, Đức, Ý, hay Tây Ban Nha, rốt cuộc cũng vẫn phải chọn một con đường
thực tế, tức là phải chiều theo những đòi hỏi của thị trường trong cái thế toàn
cầu không thể tránh được. Rốt cuộc thị trường làm chủ, tước quyền làm chủ của
người dân.
Áp lực « siêu quốc gia »
của thị trường cũng thúc đẩy việc hình thành các khối quốc gia. Trong trường
hợp Liên Hiệp Âu Châu, tất cả đã bắt đầu bằng một thị trường chung, trước khi
cố gắng tiến dần đến một quy chế càng ngày càng gần với quy chế liên bang. Liên
Hiệp Âu Châu có quyền áp đặt những điều luật trên người dân của một quốc gia
thành viên. Rồi khi những người dân này phát biểu sự chống đối của họ qua các
cuộc trưng cầu dân ý, thì giới cầm quyền liền tìm cách chuyển các vấn đề bị
chống đối ấy sang cho các Quốc Hội, tức cho giới chính trị gia chuyên nghiệp,
thông qua. Trong điều kiện ấy, thử hỏi ai nắm quyền làm chủ ? Có còn là người
dân nữa hay không ?
Viễn tượng dân chủ?
Trước những mâu thuẫn vừa
được liệt kê, một cuộc khủng hoảng cấu trúc sẽ khó mà tránh được. Khi thị
trường hoàn toàn làm chủ, các chính quyền sẽ mất dần quyền hành và bị lấn át
bởi những tổ hợp kinh tế siêu quốc gia hoạt động như những băng đảng, bất kể
luật pháp. Thế giới sẽ đi đến tình trạng tranh chấp toàn diện. Hỗn loạn, khánh
tận tài nguyên, ô nhiễm trầm trọng, sẽ đưa đến sự sụp đổ của nhiều cấu trúc mà
chúng ta hiện thấy. Vấn đề là làm thế nào để quan niệm một nền dân chủ sau đó ?
Lề lối quản lý xã hội phải dựa trên những căn bản nào ? Xin tạm đề nghị vài
chiều hướng suy nghĩ, với một số ý kiến có thể được áp dụng ngay trong hiện tại
:
- Khái niệm dân chủ dựa
trên một hình thức dân chủ nhất định cần được xét lại : vấn đề không phải là
hình thức dân chủ, mà là một phương thức quản lý xã hội VÌ DÂN.
- Cần đi đến một sự dung
hòa giữa « dân chủ đại diện » và « dân chủ trực tiếp », để một chính trị VÌ DÂN
cũng thực sự DO DÂN, thay vì nằm gọn trong tay một giới thượng lưu chuyên
nghiệp. Mạng lưới internet có thể giúp người dân phát biểu một cách lập tức và
trực tiếp. Vấn đề là làm sao hệ thống hóa những phát biểu ấy và cho nó thể hiện
được trong việc quản lý quốc gia, tức đem lại cho nó một quyền hành thực sự.
Trong khi chờ đợi sự hệ thống hóa này, cần tạo ra những diễn đàn dư luận mạnh
mẽ, với phương tiện thu góp rộng rãi, sắp xếp rõ ràng, các ý kiến của người
dân, trên các công việc cụ thể, các quyết định hàng ngày, của việc quản lý quốc
gia, của việc điều hành các địa phương, và cả việc điều hành các xí nghiệp có
tầm ảnh hưởng quan trọng trong xã hội.
- Vượt trên những phương
tiện trưng cầu dân ý như vừa nói, dân chủ trực tiếp có thể được áp dụng ngay
lập tức ở trình độ địa phương cấp thấp, qua các ủy ban làng xóm, khu phố, xí
nghiệp … với sự tham gia trực tiếp của mọi người chứ không qua trung gian đại
diện. Nó giúp người dân mau chóng trưởng thành hơn hình thức dân chủ đại diện,
được coi như duy trì họ trong tình trạng ấu trĩ như đã phân tích ở trên. Khi
biết tự lập, tự quản, người ta cũng phải thoát khỏi tháp ngà ích kỷ, để chấp
nhận ý niệm tự lập, tự quản nơi người khác, đưa đến sự sẵn sàng tham gia vào
những dự án chung ở một tầm mức rộng lớn hơn, như tầm mức quốc gia.
- Cần từ bỏ quan niệm độc
tôn của mô hình dân chủ tư bản tây phương. Người tây phương và giới thân tây
phương ở các quốc gia đang phát triển cần khiêm nhượng chấp nhận sự phức tạp
của các xã hội, của các vấn đề được đặt ra cho các xã hội ấy, và sự hiện hữu
của nhiều phương cách giải quyết các vấn đề này. Cần chấp nhận dân chủ như một
tập hợp kinh nghiệm lịch sử, tùy thuộc cấu trúc của mỗi xã hội và các con đường
lịch sử mà xã hội ấy đã trải qua. Tại nhiều nơi, cấu trúc xã hội cũng như các
kinh nghiệm lịch sử khiến cho sự tham gia của người dân vào việc quản lý quốc
gia đi qua những con đường cá biệt. Cần tránh phê phán các xã hội khác với
những tiêu chuẩn của nền văn hóa của mình hay những tiêu chuẩn vay mượn của một
nền văn hóa ưu thắng nào đó.
- Tinh thần dân chủ thực
sự là chấp nhận sự khác biệt, tìm hiểu sự khác biệt ấy, và san sẻ những kinh
nghiệm lịch sử giữa các xã hội với nhau. Sự chia sẻ này sẽ khiến cho con người
ở những xã hội rất khác biệt vẫn có thể kết hợp trong cùng một dự án, vượt trên
các ranh giới quốc gia, với khả năng trở thành một đối lực trước áp lực đè nặng
trên các quốc gia của thị trường tự do.
Tóm lại,
Một hình thức tự quản và
dân chủ trực tiếp có thể quan niệm được ngay lập tức ở trình độ địa phương cấp
thấp. Động cơ cũng như phương tiện của nó có thể đến từ các phương thức quản lý
kinh tế gần với người dân, như « tiểu tín dụng », thường được lồng trong khái
niệm « kinh tế xã hội » (9).
Khi ý tưởng VÌ DÂN không
còn bị ràng buộc bởi những gò bó quanh các hình thức dân chủ cố định, lệ thuộc
vào giới chính trị gia chuyên nghiệp, thì mọi con người đều có thể suy tư và
làm việc theo cùng một chiều hướng. Một sự hợp tác toàn cầu thực sự VÌ DÂN sẽ
có thể quan niệm được. Hệ thống hóa và tổ chức sự hợp tác ấy sẽ đưa đến một cấu
trúc quyền hành VÌ DÂN trên toàn thế giới, có khả năng đối đầu với xã hội hàng
hóa toàn cầu.
_______
Chú
Thích :
(1) Francis Fukuyama – The End of History – 1989
(2) Những ngộ nhận về Học thuyết Marx – Nguyễn Hoài Vân hay : http://pagesperso-orange.fr/nguyen.hoai.van/Marx-nhung-ngo-nhan.htm
(3) Karl Popper : Misères de l’Historicisme (1945) –
La Société Ouverte et ses ennemis (1945)
(4) Suy từ quan điểm về Tự Do (L’existentialisme est
un Humanisme – Jean Paul Sartre – 1945)
(5) Tựa một bài báo viết năm 1973, trên « Les Temps
Modernes »
(6) … à la base, le métier de TF1, c”est d”aider
Coca-Cola, par exemple, à vendre son produit. […] Or pour qu”un message
publicitaire soit perçu, il faut que le cerveau du téléspectateur soit
disponible. Nos émissions ont pour vocation de le rendre disponible :
c”est-à-dire de le divertir, de le détendre pour le préparer entre deux
messages. Ce que nous vendons à Coca-Cola, c”est du temps de cerveau humain
disponible … P. Le Lay – 2004.
(8) Claude Lévy Strauss – Anthropologie Structurale
– 1958
No comments:
Post a Comment